là câu trả lời”.
Đúng vậy,
THỨC là bảy
cái biết của THÂN,
TÂM như trên đã
nói, ngoài bảy thức
thì không có danh sắc. Danh sắc không có thì thân, tâm và
tưởng cũng không có, mà
thân, tâm và tưởng có là phải có sự hoạt động, sự hoạt động
đó gọi là hành. Cho nên đức
Phật xác định rất
rõ ràng: “Từ
duyên của Thức là gì? Hành là câu trả lời”.
HÀNH là sự hoạt động của THÂN, TÂM
và TƯỞNG. Nếu thân tâm và tưởng không hành theo con đường
giải thoát của Phật giáo,
mà hành theo tham ái thì đó là sự hoạt động không sáng suốt. Sự hoạt động
không sáng suốt thường đem đến sự đau khổ vô cùng vô tận. Biết rõ như vậy, nên
đức Phật dạy: “Từ duyên của
Hành là gì?
Vô Minh là câu trả lời”. (61 Tương Ưng tập 2)
Vô minh tức
là không sáng suốt, mà hoạt động
không sáng suốt
là tạo ra nhiều
khổ đau. Bởi vậy, muốn hành là phải hành theo đạo đức của Phật
giáo. Hành theo đạo đức của Phật giáo là không làm khổ mình, khổ
người và khổ chúng sanh. KHÔNG LÀM KHỔ MÌNH, KHỔ NGƯỜI
VÀ KHỔ TẤT CẢ CHÚNG SANH
là giải thoát. Đó là mục đích giải thoát của đạo Phật.
Trong kinh
Tương Ưng, có chỗ ngài Xá Lợi Phất hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu con đựơc hỏi:
Này hiền giả,
giải thoát như thế nào? Mà đã tuyên bố trí đã được chứng
đắc, sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, các việc làm đã làm xong, không còn trở
lui trạng thái này nữa?
Thì con sẽ
trả lời: Do tự giải thoát, do tự đoạn diệt tất cả chấp thủ,
con luôn an trú
tâm trong chánh niệm.
Nhờ sống an trú
tâm trong chánh niệm như vậy,
các lậu hoặc không còn tiếp tục rỉ chảy,
và con không còn chấp tự ngã”.
Ngài Xá Lợi
Phất trả lời rất đúng. Sự giải thoát này phải do chính mình,
không có một người nào giúp
mình được. Do tự chính
mình phải ĐOẠN DIỆT
CÁC CHẤP THỦ và phải luôn luôn SỐNG AN TRÚ TÂM TRONG CHÁNH NIỆM,
nhờ vậy mọi ác pháp không tác động được tâm. Tâm hoàn toàn vô lậu, chứng đạt
chân lý, như đức Phật đã kết luận như sau: “Tóm lại, pháp môn này gọi tắt
như sau: Những cái gì
được vị Sa môn gọi
là lậu hoặc là Ta không còn
nghi ngờ gì nữa, chúng đã được Ta diệt tận
không còn phân vân gì nữa”. (100 Tương Ưng tập 2)
Người có trí
tuệ về pháp thì phải thông suốt GIÀ, CHẾT.
GIÀ là cơ
thể phải
suy nhược, răng rụng, da nhăn, tóc bạc, lưng
khọm, tay chân
run rẩy, yếu đuối, v.v... Đó là một sự đau khổ của kiếp người.
CHẾT là cơ
thể bị
hủy diệt, tử
vong, các uẩn tàn lụn, hoại diệt,
v.v... Đó là một sự khổ mà con người không
ai tránh khỏi.
Do thông suốt sự khổ
đau ấy, nên người
có trí phải lo tu
tập làm chủ
già chết. Cho nên
đức Phật dạy: “Này
các thầy Tỳ
kheo, vị Thánh
đệ tử biết già chết như vậy, biết
già tập khổ như vậy, biết già diệt như vậy, biết con đường đưa đến già chết diệt như vậy”.
Một khi đã hiểu biết như vậy, thì họ sẽ cố gắng tu tập để giữ gìn
TÂM BẤT ĐỘNG.
Do đó tâm họ sẽ vô lậu hoàn toàn, không bị thời gian quá khứ và vị lai
chi phối. Cho
nên, kinh Tương Ưng xác định sự hiểu biết đó là pháp trí:
“Đây là PHÁP
TRÍ của vị ấy. Vị ấy
với pháp này được thấy,
đựơc biết, được quả tức thời,
được đạt đến,
được thể nhập, hướng
dẫn thái độ của mình đối với quá khứ và trong tương
lai”. (106
Tương Ưng tập
2)
Quý vị có hiểu
lời dạy này chăng?
Pháp trí là
trí tuệ hiểu biết về các
pháp sinh, già, bệnh, chết là khổ, người có pháp trí là người biết cuộc
đời là khổ, không có vật gì trên thế gian
này là ta,
là của ta. Hiểu được như vậy thì hãy buông xả cho sạch. Vì
buông xuống cho sạch
nên được giải
thoát hoàn toàn.
Khi một người
có PHÁP TRÍ
thì họ không nghĩ gì về tương
lai, dù trong tương lai có xảy ra điều gì họ cũng chẳng còn lo lắng buồn phiền
và sợ hãi nữa. Do chẳng còn lo lắng buồn phiền sợ hãi nên họ đang sống trong
TÙY TRÍ. Vậy, chúng ta muốn hiểu tùy trí thì hãy nghe đức Phật dạy: “Những
Sa môn hay Bà la
môn nào
trong tương lai sẽ hiểu rõ già chết,
sẽ hiểu rõ già chết tập khởi, sẽ hiểu rõ
già chết diệt, sẽ hiểu rõ con đường đưa đến già chết diệt, tất cả những vị ấy sẽ hiểu biết
như vậy. Như vậy, như
hiện nay Ta vậy. Đây tức là TÙY TRÍ của vị ấy”.
Người có được
pháp trí và tùy trí thì người ấy sống trong
ba thời gian quá khứ,
hiện tại và vị lai hoàn toàn thân tâm được
giải thoát, không còn một
chút xíu nào lậu hoặc. Người ấy được nhập lưu, nhập vào dòng thánh,
được
đầy đủ trí
hữu học,
được đầy đủ
minh hữu học. Vậy trí hữu học và
trí minh hữu học như thế nào? Muốn biết hai loại trí này, chúng ta hãy nghe đức
Phật dạy: “Này các thầy Tỳ Kheo! Vì rằng vị Thánh đệ tử được thanh tịnh và thuần
tịnh hai loại trí: PHÁP TRÍ và TÙY TRÍ. Vị ấy được gọi
là Thánh đệä tử đạt tri kiến, đã đi đến diệu pháp này,
đã chấp nhận diệu pháp này, đã đầy đủ hữu học trí, đã đầy đủ trí hữu học minh,
đã nhập
được pháp lưu, là
bậc Thánh minh đạt tuệ,
đã đứng gõ
vào cửa bất tử”. (107 Tương Ưng tập 2)
Trong lời dạy
này rất rõ ràng, người có đủ pháp trí
và tùy
trí là người hoàn
toàn làm chủ sinh,
già, bệnh, chết.
Người hoàn toàn làm
chủ sinh, già, bệnh, chết
như lời dạy trong đoạn kinh này là người đang đứng gõ
vào cửa
bất tử. Vì
đã đủ trí hữu
học và trí minh hữu học.
NHỮNG CĂN BẢN
CỦA TRÍ
Một người tu
theo Phật giáo đều phải hiểu biết sự giải thoát
của Phật giáo
hoàn toàn do sự HIỂU
BIẾT, nhưng hiểu
biết thì phải bằng trí tuệ. Cho
nên trong kinh thường gọi là TRÍ:
“Trí biết rằng
già chết do duyên sanh. Trí biết rằng không có sanh thì không
có già chết.
Trí biết rằng trong quá khứ
già chết cũng
do duyên sanh. Trí biết rằng không có sanh thì không có già
chết. Trí biết rằng trong tương lai già
chết cũng do
duyên sanh. Trí biết rằng
không có sanh
thì không có già chết.
Phàm khi nào có trí
về trú pháp, chỗ ấy cũng
có trí về tận
pháp, hoại pháp, ly tham pháp và diệt pháp”. (111 Tương Ưng tập 2)
Một người
tu theo Phật
giáo phải thông
suốt sáu TRÍ
như sau:
1- Trí biết rằng
GIÀ CHẾT do
duyên
SANH.
2- Trí biết
rằng không có SANH thì không có GIÀ CHẾT.
3- Trí biết rằng
trong quá khứ GIÀ CHẾT
cũng do
duyên SANH.
4- Trí biết
rằng không có SANH thì không có GIÀ CHẾT.
5- Trí biết
rằng trong tương lai GIÀ CHẾT
cũng do
duyên SANH.
6- Trí biết rằng
không có SANH thì không có GIÀ CHẾT.
Khi thông suốt
sáu trí này, thì người ấy có đầy đủ trí về
TẬN PHÁP, trí về
HOẠI PHÁP, trí về LY
THAM, trí về DIỆT PHÁP,
nhờ đó tâm họ hoàn toàn giải
thoát, tức là bất động trước các pháp.
Tóm lại,
trên đây là phần trí hiểu
biết gồm có PHÁP TRÍ và TÙY TRÍ,
người tu hành theo Phật giáo mà không thông suốt hai trí này thì không thể nào
giải thoát.
NĂM SỢ HÃI
VÀ HẬN THÙ
Ở đời, con người
sống thường sợ
hãi và thù hận.
Nhưng ít ai truy tìm nguyên nhân nào sinh ra những sợ hãi và thù hận. Sợ
hãi và thù hận là sự khổ đau của con người. Vậy muốn thoát ra mọi sự khổ đau ấy
thì phải nhiếp phục năm sợ
hãi và hận
thù. Vậy nhiếp phục năm sợ hãi
và hận thù bằng cách nào? Như trên
đã nói, phải
truy tìm nguyên nhân nào sinh ra những sợ hãi và hận thù.
Biết tâm trạng
khổ đau của mình là như vậy, nhưng truy tìm nguyên nhân
sinh ra sự khổ đau ấy
thì chúng ta mù tịt
như người đi trong đêm tối. Vậy
chúng ta phải nương vào đức Phật, Người
có đầy đủ trí
tuệ sáng
suốt sẽ dạy nhiếp
phục sợ hãi và hận thù bằng
năm phương pháp.
Vậy năm phương
pháp như thế nào?
Phương pháp
thứ nhất đó là: “Đoạn tuyệt sát sanh, đoạn
tuyệt sát sanh
thì sợ hãi, hận thù sẽ được nhiếp
phục”. (127 Tương Ưng tập 2)
Đúng vậy,
nguyên nhân sinh
ra sợ hãi và hận
thù là sự
“giết hại và
ăn thịt chúng sinh”,
nếu không dứt trừ nguyên
nhân này, thì loài người
mãi mãi sẽ khổ đau vĩnh
viễn vì sợ hãi và hận thù.
Hằng ngày
trên hành tinh sống
này, con người đã giết hại chúng
sinh để ăn thịt thì số lượng không thể
tính hết được.
Trước khi chết, chúng sinh kêu la
thảm thiết và lăn lộn giãy giụa trước bàn tay độc ác của con người.
Miếng ăn
ai cũng xem là
ngon bổ, nhưng khi nuốt qua khỏi
cổ thì nó toàn
là đồ bất tịnh. Quý vị có thấy không? Vậy mà người
ta tưởng nó là đồ ngon bổ,
giúp cho cơ thể con người khỏe mạnh. Sự thật không phải vậy,
càng chạy theo
ăn uống bằng
thực phẩm chúng sinh
thì bệnh tật càng
nhiều. Quý vị cứ xét xem, có người nào ăn thịt chúng
sinh mà không bệnh tật đâu?
Ăn thịt
chúng sinh càng
nhiều thì bệnh đau càng nhiều, thì sợ hãi càng to, vì sợ chết. Vả
lại, một con người cần phải có
lòng yêu
thương, vì lòng
yêu thương mới nhiếp phục được sợ hãi và hận thù, chỉ
có yêu thương chúng ta mới không
giết hại và ăn
thịt chúng sanh.
Trong lời dạy
của đức Phật, là muốn nhiếp sợ hãi và hận thù
thì không nên sát
sanh, mà không sát sanh thì chỉ có lòng yêu thương sự sống.
Mọi loài sống
trên hành tinh này đều quý trọng sự sống, không có loài nào không quý trọng sự sống của
mình, nhưng vì
quá quý trọng sự sống của
mình nên xâm phạm vào sự
sống của loài vật khác,
cho nên loài vật lớn
ăn hiếp loài vật bé
và giết hại
chúng để ăn thịt. Sự giết hại
và ăn thịt
nhau là vì không có lòng yêu thương.
Con người
hay con vật đều có sẵn lòng yêu thương,
chỉ con người và
loài vật cần
phát triển lòng yêu thương ấy bằng những hành động như: Lời nói phải ôn
tồn nhẹ nhàng, êm ái dịu hiền,
không được nói lời thô lỗ, hung dữ, cộc cằn, la hét, nạt nộ, v.v... Còn
về hành động tay chân
phải nhẹ nhàng
không nên đấm đá, múa tay, múa
chân; luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ hay
bố thí những vật cần
thiết cho người khác hay
loài vật khác,
v.v... Còn về ý suy
nghĩ những điều lỗi lầm về người
khác thì
nên tha thứ
và thương yêu
họ. Chúng ta đừng
vì những điều
nhỏ nhặt mà tạo
thêm sợ hãi
và hận thù
thì rất bất lợi cho mình,
cho người. Do những điều này mà đức
Phật dạy không
nên SÁT SANH,
tức là dạy chúng ta phải biết YÊU
THƯƠNG nhau.
Cho nên
trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta sống chung nhau thì nên hài
hòa với mọi người,
đừng nghi ngờ lẫn nhau,
vì nghi ngờ làm cho chúng ta sợ hãi và hận thù. Khi
nghi ngờ thì lòng yêu thương sẽ bị đánh mất. Mất lòng yêu thương thì cuộc sống
sẽ mang đến muôn ngàn đau khổ.
Bởi vậy, trên đời này chỉ có lòng yêu thương thì cuộc sống sẽ
không còn xung đột
và chiến tranh, thì mọi người sống mới được bình an yên vui và hạnh
phúc.
Như ở
trên chúng ta
đã biết, do sát
sinh mà con người sợ hãi và hận thù, vì thế chúng ta chỉ cần không
giết hại và
ăn thịt chúng sinh
thì sợ hãi và hận thù sẽ tiêu
tan. Lời dạy này rất đúng,
vì mọi người đã từng cầm dao giết hại chúng sinh. Trước cái chết
không có con vật nào
mà không sợ
hãi, và khi bị
giết làm sao chúng không hận thù trong lòng. Theo luật nhân quả, giết hại và ăn
thịt chúng sinh là tạo nhân sợ hãi hận thù, nên quả thì chúng ta phải luôn luôn
sợ hãi và hận thù.
Phương pháp
thứ hai đức
Phật dạy: “Đoạn tuyệt
lấy của không
cho, như vậy sợ hãi hận thù sẽ được
nhiếp phục”. (127
Tương Ưng tập
2)
Đúng vậy,
trên đời này, nếu mọi người đừng tham lam trộm cắp, cướp giựt của người khác
thì làm sao có sợ hãi và hận thù. Chỉ vì tham lam trộm cắp, cướp của khiến cho
mọi người sợ hãi. Người có tiền của luôn luôn sợ mất mát,
vì thế đâm ra
nghi ngờ
người này kẻ khác gian tham sẽ lấy
của cải của mình. Còn người lấy của người
khác thì sợ bị bắt
vào tù ra khám. Bởi vậy sự sợ hãi hận thù do từ sự gian tham trộm cắp, cướp giựt.
Muốn sợ hãi hận thù không có thì phải chấm dứt gian tham trộm cắp, cướp giựt.
Tham lam
trộm cắp, cướp
giựt là một hành động đê tiện, hèn hạ xấu xa. Của
người khác làm bằng mồ hôi và công sức rất vất vả cực khổ mới có, thế mà chúng
ta nỡ tâm cướp giựt hay trộm cắp của người thật là đê tiện.
Tại sao chúng ta
không tự làm ra
của cải tài sản để phục vụ
cuộc sống của
mình? Lại hèn hạ ăn không ngồi rồi
mà muốn có của cải tài sản nhiều. Cho nên những kẻ tham lam trộm cắp, cướp giựt
của cải tiền bạc của kẻ khác là không xứng đáng làm người.
Muốn làm người
cho ra con người thì phải chấm dứt ngay những tính tham lam, phải đoạn tuyệt lấy
của không cho như lời dạy của đức Phật.
Đoạn tuyệt lấy
của không cho thì không còn sợ hãi,
thù hận sẽ
không còn nữa,
vì đó là một lợi ích rất lớn cho mọi người. Cho nên muốn không
còn sợ hãi
và hận thù
thì phải chấm dứt ngay LẤY CỦA
KHÔNG CHO, chỉ cần
không lấy của
không cho là sợ
hãi và hận thù sẽ chấm dứt. Đó là
nguyên nhân thứ hai sẽ giúp
chúng ta nhiếp
phục sợ hãi và hận thù.
Nguyên nhân
thứ ba nhiếp phục sợ hãi và hận thù là phải đoạn tuyệt tà hạnh trong các dục vọng,
như lời đức Phật dạy: “Đoạn tuyệt sống
tà hạnh trong các
dục vọng, như vậy sợ hãi hận thù sẽ được nhiếp phục”.
(127 Tương Ưng tập 2)
Vậy tà hạnh
trong các dục vọng là gì?
Tà hạnh
trong các dục vọng là lòng ham muốn thấp hèn, đê tiện xấu xa, như thấy vợ người
sinh tâm tà dâm; thấy của cải tiền bạc của người khác không cho mà muốn lấy; thấy
gà, vịt, cá, tôm muốn bắt giết làm thịt để ăn. Những tà hạnh, dục vọng như vậy sẽ
mang đến những sự sợ hãi
và hạân thù
làm cho
thân tâm đau
khổ không bao giờ dứt. Bởi vậy những hành động nào làm khổ mình, khổ người là
tà hạnh. Quý vị cần lưu ý?
Tà hạnh
không chỉ có một nghĩa là gian dâm bất chánh
với phụ nữ, với
vợ người khác, mà tà hạnh còn
nhiều nghĩa khác nhau như: giết hại chúng sanh, ăn thịt chúng sanh, v.v... tham
lam trộm cắp, cướp giựt, lấy của không
cho, v.v... nói
dối lường gạt
người khác, sống không thành thật, v.v... uống rượu say xỉn, v.v... Đó
là những tà hạnh mà người có văn hóa đạo đức
thì không ai làm những
điều đó. Những người sống trong tà hạnh thường hay sợ hãi, hận thù, nên đời sống
bất an không bao giờ có những
phút giây an vui chân thật.
Nguyên nhân
thứ tư nhiếp phục sợ hãi và hận thù là đoạn tuyệt
nói dối, như lời đức Phật dạy: “Đoạn tuyệt nói láo, như vậy sợ hãi
hận thù sẽ được nhiếp
phục”. (127
Tương Ưng tập
2)
Đúng vậy,
người nào không nói dối thì không bao giờ sợ hãi, vì nói dối luôn luôn sợ người ta phát giác ra mình nói dối thì sẽ mất thể diện, mất uy tín.
Làm một điều
gì gian xảo không thật thì trong lòng lúc nào cũng sợ hãi. Cho nên trên
đời này,
muốn đừng sợ
hãi thì không nên làm một việc gì gian xảo không thật, như
người bán đồ lậu thuế thì phải sợ hãi; một người ngoại
tình với người khác
thì rất sợ hãi; một người buôn
bán hàng giả thì phải sợ hãi; một người
làm ăn không lương thiện, có sự
mờ ám thì phải
sợ hãi; một
người tu sĩ sống phạm giới, phá giới thường sợ hãi với
những người giữ giới luật, họ thường làm những việc lén lút như ăn uống phi thời,
uống rượu lén, hút
thuốc lén, núp chỗ này chỗ
khác, luôn luôn tâm họ bất an. Cho nên đoạn tuyệt nói dối, những việc làm gian
xảo không thành thật thì tâm sẽ không còn sợ hãi.
Nguyên nhân
thứ năm nhiếp phục
sợ hãi và hận thù là đoạn tuyệt uống rượu,
như lời đức Phật dạy: “Đoạn tuyệt uống rượu, như vậy sợ hãi hận thù sẽ được nhiếp
phục”. (127 Tương Ưng tập 2)
Rượu là chất
độc sẽ phá hoại cơ thể chúng ta, sinh ra nhiều thứ bệnh tật mà không có thuốc trị,
cho nên Phật giáo mới có
giới cấm này. Vì rượu là một chất độc gây
nên bệnh tật và
còn làm rối loạn thần
kinh, cho nên một người say rượu
họ ăn nói lung tung giống như người điên
loạn trí. Khi nghĩ đến
giới cấm này thì chúng ta tự hỏi:
“Tại sao Phật
giáo lại có giới cấm uống rượu, còn tất cả các
tôn giáo khác
không có giới cấm này?”
Đây là một điều mà chúng ta cần phải suy ngẫm và xét lại.
Rượu là một
chất dễ kích thích thần kinh làm cho hưng phấn, khi một người uống rượu thường
hay nói nhiều, nhưng khi say rượu thì không còn làm chủ ý thức nên hay nói
ngang, nói dọc, nói
trái, nói phải,
nói xuôi, nói ngược, nói như thế nào cũng được. Người
say rượu thần kinh không
còn điều khiển
cơ thể nên thường đi ngả tới, ngả lui, nghiêng bên này, ngả bên nọ, chân
bước tới, chân bước lui, miệng thì ự ẹ,
lúc thì la lối,
lúc thì nói lầm thầm;
đầu óc không
còn phân biệt
chỗ dơ, chỗ sạch,
đụng đâu nằm
đó, nằm co như con chó rồi
lăn qua, lộn lại;
nước miếng đờm
dãi dính đầy người trông rất bẩn thỉu không ai dám lại gần; gặp ai cũng
muốn đánh, muốn chửi người đối diện... Vì thế, gặp
người say rượu ai cũng lẩn tránh
xa.
Người say rượu
thường nói lời hung dữ, thô lỗ tục tằn, chửi thề
thiếu văn hóa,
không nhân phẩm. Cho nên chúng ta biết, rượu làm mất trí con người. Vì vậy
đức Phật mới cấm
UỐNG RƯỢU. Uống
rượu là một
tai hại rất lớn, thường gây ra bạo lực gia đình. Cho nên
thấy ai uống
rượu mọi người đều sợ hãi tránh xa. Bởi
vậy, đoạn tuyệt
uống rượu thì sợ
hãi sẽ được nhiếp
phục. Một người
sống mà không sợ
hãi là giải
thoát, không còn khổ
đau.
Đúng vậy, nếu
đoạn tuyệt năm điều đức Phật cấm trên đây thì làm gì tâm còn sợ hãi và hận
thù. Bởi vậy
năm giới cấm của Phật rất
cần thiết cho sự sống
của mọi người,
nếu mọi người ai cũng giữ gìn năm giới cấm này đừng vi phạm, thì thế gian
này là Thiên Đàng
Cực Lạc, đâu
còn xung đột
và chiến tranh, đâu còn tranh cãi
hơn thua, đâu còn sợ hãi một điều gì nữa.
Chính vì con người hay sợ hãi nên nghĩ ra cách này
cách khác để
không còn sợ
hãi. Nhưng tất cả những việc làm của thế gian tưởng là hết sợ
hãi, nhưng càng
làm thì lại càng sợ
hãi. Ví dụ, một người
sợ đói, lo làm
ăn có tiền, có bạc, có thóc lúa nhiều thì lại sợ hãi người
khác cướp bóc lấy của cải tài sản
do mình làm ra. Từ
sợ hãi đói khát đến sợ hãi bị người lấy, cho nên giải quyết sự sợ
hãi này thì có sự sợ hãi
khác. Cứ như vậy chạy loanh quanh mãi mà không có lối thoát ra
sợ hãi. Nếu chúng ta
dựa theo lời Phật dạy mà
giữ gìn năm giới cẩn thận,
nghiêm chỉnh thì
khiếp đảm sợ
hãi sẽ tự nhiếp phục.
Tuy thấy năm
giới cấm của Phật trông rất thường, vì mọi người cho đó là giới luật của người
cư sĩ. Nhưng ta là người theo Phật giáo
thì rõ năm giới cấm này rất quan trọng, là cơ bản để cuộc sống hạnh phúc cho
một người, dù người
đó có theo
Phật giáo hay
không, hoặc theo một
tôn giáo khác
cũng không quan trọng, chỉ người đó biết sống đúng năm giới này
là người đó
đem lại cuộc sống của mình
một sự bình
an, yên ổn
mà không có một ác pháp nào làm lay động tâm người ấy
được. Bởi vậy,
nói năm giới
nhiếp phục được sợ hãi, hận thù,
mới nghe ai cũng không tin, nhưng sự thật thì năm
giới là những
phương pháp nhiếp phục lòng
sợ hãi và hận thù không có pháp nào hơn được.
Bởi vậy,
chúng tôi xin khuyên mọi người chớ xem
thường năm giới
cấm này, nó là phương pháp cơ bản
nhất của Phật giáo để cứu mọi người ra
khỏi mọi sự khổ đau,
mà đức Phật
đã xác định
rõ ràng: “Vốn con người
khổ đau vì sợ hãi và
hận thù”. Vì sợ hãi và hận thù mà con người chịu biết bao khổ
ải. Vậy mà đạo Phật
có phương pháp nhiếp phục được
sợ hãi và hận
thù đem lại sự bình an cho con người, thế mà
chúng ta
không tu tập thì quá dở, quá ngu si mê muội. Phải không quý vị?
Không lẽ sống
trong cuộc đời này chúng ta đành chịu những sự khổ đau dày vò hay sao?
Phải chi
chúng ta không biết phương pháp giải
thoát thì đành chịu, còn
biết mà đành chịu thì đâu phải là người trí.
BỐN DỰ
LƯU CHI
Khi chúng ta
đến với đạo Phật là phải đến với lòng tin. Vậy đến với lòng tin là đến như thế
nào?
Thứ nhất,
chúng ta tin Phật là tin một người có đầy
lòng yêu thương tất cả vạn vật, không
làm tổn thương chúng sanh, không bao giờ Ngài ăn thịt chúng sanh.
Thứ hai,
chúng ta tin Phật là người không bao giờ
tham lam lấy của không
cho, luôn luôn khi có
được những gì Ngài
sẵn sàng bố thí, giúp đỡ người khác.
Thứ ba,
chúng ta tin Phật là tin người không bao giờ có tâm dâm dục trần tục, Ngài là
người sống với thân tâm thanh tịnh trong sáng, không bao giờ để dâm dục làm nhơ
bẩn thân tâm. Ngài xem tâm dâm dục là một thứ dục lạc nhơ nhớp uế trược, sinh
ra nhiều thứ
khổ đau của
kiếp người.
Thứ tư,
chúng ta tin Phật là người không bao giờ
nói dối, không
lường gạt dù bất cứ một việc nhỏ nhặt nào với ai. Ngài luôn
luôn là người thành thật.
Thứ năm,
chúng ta tin
Phật là người không bao giờ uống rượu, dù một giọt
nhỏ cũng không bao giờ nếm...
Lấy năm giới
đức hạnh làm tiêu chuẩn cho một người đức hạnh như Phật, thì đức
Phật là một người
không hề vi phạm
trong năm giới luật
này, vì thế mọi người
đều phải tin đức Phật. Vả lại, đức Phật là con vua
cháu chúa, mà bỏ sự giàu
sang của mình để
đi tu thật là vĩ đại. Nhất là khi
đi tu Ngài là người có đủ khả năng làm chủ được sinh, già, bệnh, chết. Đó
là một điều
mà mọi người
trên thế gian này không ai làm được,
vì thế mọi người càng tin đức Phật nhiều hơn nữa.
Đức Phật
là một con người
thật, có cha mẹ, sinh ra và lớn lên trên hành tinh
này, người Ấn Độ, con của một nhà vua, lớn lên đi tu làm chủ được sự sống chết,
cho nên mọi người ai cũng đầy đủ lòng tin bất di, bất dịch đối đức Phật. Đây
là lòng tin thứ
nhất mà mọi người
theo Phật giáo
không thể nào thiếu khuyết được, như trong kinh Tương
Ưng
dạy: “Đầy đủ lòng
tin bất động đối với
Phật”.
Khi đã tin
Phật thì tất cả những gì đức Phật dạy chúng
ta đều tin tròn
đầy. Vả lại, những lời dạy của đức Phật rất thiết thực
và lợi ích rất lớn cho những ai đã có duyên được nghe, dù chỉ một lần cũng tìm
thấy sự an vui trong sự sống.
Nhờ nghe những lời dạy ấy,
mà mọi
người chủ động
làm chủ được
tâm mình, không bị các ác pháp
chi phối làm khổ mình, khổ người.
Do được nghe
những lời dạy của đức Phật, nên
lòng ham muốn
giảm dần và sự an vui
tăng dần
lên một cách rất rõ
ràng, cụ thể. Tuy
rằng chưa tu tập gì
cả, nhưng đã
có lợi ích như vậy, bởi vì pháp của
Phật là đạo đức nhân bản - nhân
quả, dạy sống
không làm khổ mình,
khổ người và tất cả
muôn loài chúng sanh. Pháp đem lại
lợi ích cho tất cả chúng sanh như vậy, nên mọi người phải đầy đủ lòng tin, vì
thực tế
ai không tu theo Phật pháp
thì thôi, mà đã
tu theo Phật
pháp thì lòng tin tuyệt
đối không thể
có ai làm thối
chuyển lòng tin ấy được, như lời Phật đã dạy: “Đầy đủ lòng tin đối với Pháp, do
đức Phật khéo thuyết”.
Pháp của Phật
là một phương pháp cải tạo
sự sống, từ
sự sống đau khổ chuyển đổi thành sự sống an vui và hạnh phúc, giúp cho loài người thoát
khổ bằng sức tự lực của mình. Còn
chúng đệ tử
Phật là những bậc Lạc
Thiện Hạnh, những
bậc Lạc Trực
Hạnh, những bậc Lạc Chánh Hạnh, những bậc Lạc Như Pháp Hạnh. Những bậc
tu hành như vậy làm sao chúng ta không tin? Phải không quý
vị?
Nhìn những gương mặt của những bậc này lúc nào
cũng thấy một niềm vui hân hoan, không
thấy có một
xíu nào phiền não,
buồn rầu trên gương mặt của các Ngài. Thật là vi diệu thay cho pháp Phật,
đã đem lại cho loài người một niềm
vui chân thật,
vì thế chúng ta làm sao không tin những đệ tử của đức
Phật, phải không quý vị?
Vậy chúng ta
hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Đầy đủ lòng tin bất động đối với Chúng Tăng là đệ tử
Thế Tôn, là bậc LẠC THIỆN HẠNH, là bậc LẠC TRỰC HẠNH, là bậc
LẠC CHÁNH HẠNH, là bậc LẠC NHƯ PHÁP HẠNH”.
Đúng vậy,
những bậc mà đầy đủ những
đức hạnh
này thì làm gì chúng ta không tin. Nghe những
tên đức hạnh
này chúng ta đã
hình dung được những bậc giải thoát như
thế
nào rồi.
Giới luật đức hạnh của Phật
giáo là một sự
sống mang lại sự an
vui cho mình,
cho người và cho tất
cả các loài
chúng sanh. Vì thế, so với giới luật đức hạnh của Phật
thì không có một phong cách sống làm người có văn hóa và đạo đức nào hơn, vì vậy
chúng ta hãy tuyệt đối
tin vào giới luật đức hạnh của
Phật. Chúng ta hãy theo như lời Phật dạy mà thực hiện
một đời sống
giới luật nghiêm chỉnh, một
lòng tin tuyệt đối
không bao giờ thay đổi: “Đầy đủ
lòng tin đối với GIỚI LUẬT ĐỨC HẠNH
được các bậc
Thánh quý mến, không bị bể vụn,
không bị hủy hoại, không có tỳ vết, không có vết nhơ, đưa đến tự do, được
người trí tán thán, không
bị nhiễm trước,
đưa đến thiền định”. (128 Tương Ưng tập 2)
Đúng vậy, nếu ai tin
tưởng vào giới
luật đức hạnh của Phật, mà thực hiện đời sống của
mình thì sẽ được
giải thoát như lời đức Phật đã dạy: “Giới luật còn là đạo Phật
còn, giới luật mất là đạo Phật mất”.
CÁC HÀNH
LẤY VÔ MINH
LÀM NHÂN
Thường, người
ở đời chưa biết Phật pháp nên sống trong
vô minh, vì thế mỗi
hành động, việc làm
trong cuộc sống hằng ngày đều tạo hành động (nhân) vô minh. Mà đã
vô minh thì tất cả mỗi hành động và việc làm đều
bất thiện. Do
nhân vô minh bất thiện nên
phải gặt lấy quả khổ
đau. Do VÔ MINH nên các HÀNH VÔ
MINH, các hành vô minh nên tạo ra muôn
vàn thứ khổ
đau. Cho nên đức Phật nói: “Các hành lấy vô minh làm nhân, lấy vô minh
làm tập khởi, lấy vô minh làm tác
sanh, lấy vô
minh làm hiện hữu.
Do vô minh có
mặt nên các hành có mặt; do vô minh không có mặt
nên các hành
không hiện hữu”.
(149
Tương Ưng tập
2)
Chúng ta cứ
suy ngẫm lại lời dạy trên đây, rồi
xét nghiệm lại
cuộc sống hằng
ngày. Chính con người đau khổ vì
vô minh, làm mọi việc mà không
biết mình làm
thiện hay ác, đó là VÔ MINH. Do vô minh nên cuộc đời
con người phải chịu nhiều
khổ đau và khổ
đau mãi mãi.
Muốn thoát
mọi sự khổ
đau thì phải phá vỡ vô minh. Phá
vỡ VÔ MINH thì phải MINH. Vậy làm như thế nào mới có minh?
Phải tin
vào PHẬT, PHÁP, TĂNG và GIỚI. Khi lòng tin đã
được đầy đủ trọn vẹn
thì chúng ta tập sống như Phật và học tập những pháp mà Phật đã dạy, nhờ thế chúng ta mới có đủ: Lạc Thiện Hạnh,
Lạc Trực Hạnh, Lạc Chánh Hạnh, Lạc
Như Pháp Hạnh.
Như vậy vô minh bị phá vỡ và minh
được hiện bày.
Minh được
hiện bày thì vô
minh không còn nữa. Vô minh diệt
thì giải thoát hoàn toàn, con người lúc bấy giờ
không còn khổ đau nữa.
Bởi
chính VÔ MINH mà con người đau khổ,
và nhờ
có MINH mà con
người thoát khổ.
Vì vậy, chúng ta biết ngay đạo Phật giải thoát không phải bằng thiền định
mà bằng trí tuệ, mà trí tuệ muốn có được thì phải học tập.
Cho nên đạo Phật
có tám lớp học
rõ ràng, chứ không
phải tu tập thiền
định như kinh sách phát triển và
kinh sách Thiền Tông dạy.
Khi tri kiến được học tập đầy
đủ giáo pháp của đức Phật thì không
có một ác pháp nào xen vào làm tâm hành giả động được. Vì thế đạo Phật
còn có mang một cái tên là ĐẠO TRÍ TUỆ. Khi
rõ được như vậy thì chúng ta đến với đạo Phật
là đến với sự
học tập. Nhưng phải học tập đúng giáo lý của đạo Phật mới có giải thoát, còn học
tập sai pháp, tức là học tập kinh sách phát triển thì không bao giờ có giải
thoát, dù quý vị này có bằng tiến sĩ Phật học, nhưng lại do kiến giải của các tổ, dù
là các tổ
Nam tông hay Bắc
tông thì vẫn không
đúng lời dạy của đức Phật, nên bằng tiến sĩ chỉ để treo chơi
chứ không có ích lợi
giải thoát gì cho người
học tập cả.
Học mà không
tu như cái tủ đựng kinh sách, thật là uổng cho một
đời làm tu
sĩ. Có nhiều người tham vọng cao nên quyết tâm đi du học từ nước
này đến nước
khác, nhưng cuối cùng chẳng làm
chủ được những gì trên thân tâm của họ. Nhưng
lại mang danh đi tu khắp nơi trên thế giới để “nổ” với mọi người, chớ có
lợi ích gì cho bản thân, chỉ vì danh mà thôi.
KHÔNG CÓ DỰ
TÍNH
Chúng ta hãy
đọc kỹ những đoạn kinh Tương Ưng dưới đây, để biết hành động sống của chúng
ta có giải
thoát hay không
giải thoát, làm việc thiện có lợi ích phước báo hay không, mà đức Phật
đã dạy: “Này
các thầy Tỳ kheo,
nếu người nào
còn bị vô
minh chi phối, dự
tính làm phước lành,
thức của người ấy
đi đến phuớc
lành, nếu người ấy dự tính làm
phi phước lành, thức
của người ấy
đi đến phi
phước lành, nếu người ấy dự tính làm bất động lành, thức của người ấy đi
đến bất động lành”.
Qua lời dạy
này, chúng ta thấy rất rõ, nếu một người
tu sĩ làm việc thiện thì tâm người ấy hướng về việc thiện,
chớ không thể hướng về giải thoát được, cũng như làm một việc bất
thiện thì tâm
người ấy hướng
về việc bất thiện, chớ không thể hướng về sự giải
thoát được.
Cho nên ở đây
chúng ta dựa
theo nhân quả mà xét một người tu
sĩ, thì biết họ tu tập giải thoát hay không giải thoát.
Làm việc thiện
thì hưởng phước báo của việc thiện, làm việc ác thì
phải thọ
chịu quả khổ đau của việc làm ác đó. Không thể làm một việc
này mà hưởng
kết quả một việc
khác được.
Nếu chúng
ta đoạn tận
VÔ MINH thì chúng ta có giải thoát như lời đức Phật
dạy: “Này các thầy Tỳ kheo,
khi nào vị Tỳ kheo
đoạn tận vô minh, minh được sanh khởi. Vị ấy do vô minh đoạn tận, minh
sanh khởi, không
dự tính làm
phước lành, không dự tính làm phi
phước lành, không dự tính làm bất độïng lành. Do không có dự tính, không
có dụng ý, vị ấy không chấp thủ một sự gì ở đời. Không chấp thủ, vị ấy không sợ
hãi. Không sợ hãi, vị ấy hoàn toàn tịch tịnh. Vị ấy biết rõ: Sanh đã tận, phạm
hạnh đã thành, những việc nên
làm đã làm,
không còn trở lại trạng thái
này nữa”. (150
Tương Ưng tập 2)
Đọc qua lời
của Phật trên đây, chúng ta hiểu rất rõ, đức Phật
không có dạy
chúng ta lạy lễ Phật
nhiều để lập công bồi đức,
mà cũng không dạy chúng ta làm việc thiện để được hưởng
phước báo rồi mới diệt
vô minh để được
giải thoát, mà đức Phật
dạy: Muốn giải thoát
thì ngay đó phải
vào diệt VÔ MINH. Diệt
vô minh thì không
còn chấp thủ bất cứ một pháp nào, dù thiện hay ác. Không chấp thủ thì
không còn sợ hãi, mà không còn sợ hãi thì tâm hoàn toàn tịch tịnh. Tâm hoàn
toàn tịch tịnh thì: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã
thành, những việc
nên làm đã làm,
không còn trở lại trạng
thái này nữa”.
Lời đức Phật
dạy trên đây rất rõ, nếu một người còn vô minh, mà đem hết sức mình ra làm những
việc thiện để cầu được phước báo nhân thiên; để cầu hưởng được những công đức lợi
lạc cho mình, cho người; để được sự an
vui giải
thoát, điều này
không bao giờ có. Vì
còn vô minh nên dù làm thiện pháp hay phi pháp đều không giải thoát, chỉ uổng
phí cho một đời tu tập mà thôi.
Vì VÔ MINH
nên dù làm điều thiện vẫn bị chấp thủ, do chấp thủ làm thiện nên người ấy thường sợ
hãi, do sợ
hãi nên không
giải
thoát. Có
đúng như vậy không quý vị?
Cho nên một
người đoạn tận vô minh, làm những việc gì họ đều
không chấp thủ,
do không chấp thủ nên họ không sợ hãi. Không sợ hãi
nên được giải
thoát. Những lời dạy
trên đây của đức Phật rất quan trọng, nếu chúng
ta chỉ cần
phá vỡ vô
minh, đạt được minh
thì giải thoát hoàn
toàn. Vì tâm chúng ta không còn
chấp thủ nên MINH mới có, còn chấp thủ thì minh không bao giờ có.
Cho nên tâm
còn sợ hãi là tâm còn chấp thủ, tâm còn chấp thủ là tâm vô minh. Một người chưa biết,
chưa tu học theo
Phật pháp thì còn vô minh. Cho
nên mọi người trên thế gian còn khổ đau là do chấp thủ, nên hoàn toàn họ còn vô
minh.
Trong 12
nhân duyên, quan trọng nhất là vô
minh và minh,
nhờ đó chúng
ta mới dễ xác nhận một người chứng đạo và một người
chưa chứng đạo. Chứng đạo là một người phải sạch VÔ MINH, khi vô minh sạch thì
MINH hiện tiền.
Một người
chứng đạo ai chửi mắng
hay làm bất cứ một việc
gì họ vẫn thản nhiên, TÂM BẤT ĐỘNG, còn một người chưa chứng
đạo thì đụng việc cũng dễ sân hận phiền não, v.v... Khi tâm còn
phiền não sân hận là còn
VÔ MINH,
khi nào tâm hết sân hận phiền não là MINH.
Bởi còn dự
tính làm việc này việc khác là còn CHẤP THỦ, nên còn VÔ MINH. Ngược lại, làm một
việc gì chúng ta cần làm là cứ làm, chớ
đừng dự tính, làm
trong sáng suốt,
việc gì ra việc nấy và
thành công tốt đẹp, đó là
làm trong MINH. Cho nên làm trong minh là làm không có DỰ TÍNH
trước. Trong hiện tại thấy điều gì cần làm
là cứ làm,
đó là làm việc
trong minh. Do làm
không dự tính nên không chấp thủ, không chấp thủ thì
không sợ hãi, không sợ hãi thì giải thoát hoàn toàn.
CẢM GIÁC LẠC
THỌ
Trong cuộc sống
hằng ngày, chúng ta thường ưa thích cảm nhận thọ lạc mà rất sợ cảm
nhận thọ khổ,
vì thế hễ
có cảm nhận thọ lạc là dính mắc, chấp thủ, không bao giờ có ý muốn khởi
niệm lìa xa chúng. Còn riêng đức Phật dạy: Có những cảm nhận thọ lạc khiến cho
chúng ta ưa thích thì chúng ta nên khởi niệm thoát ly niệm thọ lạc ấy, chớ đừng
sinh tâm ưa thích, chấp thủ sống trong trạng thái ấy. Ưa thích sống trong trạng
thái ấy là sai, vì đạo Phật không chấp nhận tất cả các cảm nhận thọ lạc.
Chúng ta hãy
nghe lời Phật dạy: “Nếu vị ấy cảm giác lạc
thọ, vị ấy biết lạc vô thường, vị ấy biết
không nên tham đắm, vị ấy biết không nên hoan hỷ, lạc thọ ấy được cảm
giác với niệm
thoát ly”. (151
Tương Ưng tập
2)
Ví dụ như
chúng ta đang ăn một cái bánh rất ngon, thì hãy
khởi niệm lìa xa
cái ngon của cái bánh, đừng để tâm còn
thèm muốn ăn nữa. Nếu người
nào làm đúng
như lời Phật dạy như vậy thì thân tâm sẽ ly dục, ly bất
thiện pháp, và như vậy tâm họ sẽ được giải thoát. Bởi ý làm chủ, ý tạo tác, ý dẫn
đầu các pháp, nên ý thức khởi
niệm lìa bỏ thì
cảm giác thọ lạc được lìa bỏ theo ý mình
muốn.
Cũng như khi
gặp trường hợp thọ khổ, chúng ta cũng
nên TÁC Ý lìa
bỏ thọ khổ, thì thọ khổ cũng lìa xa thân tâm, thì chúng ta
không còn đau khổ nữa. Chúng ta hãy lắng nghe
đức Phật dạy:
“Nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, vị ấy biết khổ thọ là vô thường,
vị ấy biết nên không sợ hãi, nên không dính mắc, nên không đau khổ vì thọ khổ ấy, nhờ đó thọ khổ ấy được cảm
giác với niệm thoát ly”. (151 Tương Ưng tập 2)
Như vậy, rõ
ràng pháp NHƯ LÝ TÁC Ý là một phương pháp tuyệt vời của Phật giáo để làm chủ
SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT. Nếu một người chịu khó tu tập một thời gian, khi pháp
này đã trở thành một NĂNG LỰC CỦA Ý THỨC, thì tất cả các pháp ác xâm chiếm vào
thân hay tâm đều bị nó đẩy lui ra
khỏi. Cho nên pháp
như lý tác
ý như một
đoàn quân
bách chiến
bách thắng, đánh
đâu thắng đó không bao giờ thua trận.
Lạc thọ cũng
như khổ thọ, chúng ta không tham đắm lạc thọ cũng như không sợ hãi khổ thọ. Cả
hai thọ này chúng ta đều tác ý sống trong
niệm thoát ly
các thọ thì
ngay đó chúng ta đều lìa xa tâm
tham, sân, si, mạn, nghi. Cho nên đức Phật dạy:
“Nếu vị ấy cảm giác biết khổ thọ, vị ấy biết khổ thọ là vô thường, vị ấy
biết như vậy nên không sợ hãi, vị ấy biết
khổ thọ, nhưng
khổ thọ ấy được
cảm giác với niệm thoát ly”. (151 Tương Ưng tập 2)
Bởi vậy,
con đường tu tập để được
thoát khổ thì chỉ có
phương pháp NHƯ
LÝ TÁC Ý DẪN TÂM VÀO ĐẠO. Nhờ đó trong bất cứ ác
pháp nào
thì chúng ta luôn
luôn sống trong niệm
thoát ly các cảm thọ, nhờ
có sống trong niệm
thoát ly các cảm thọ
nên tâm được giải thoát hoàn toàn.
Khi chúng ta
cảm giác khổ thọ tận cùng của sức chịu đựng của sinh mạng mình thì trở nên
mát lạnh. Đúng vậy, khi
chúng ta biết các cảm thọ là VÔ THƯỜNG thì tâm không
còn ưa thích và cũng không còn sợ hãi, vì thế lạc thọ cũng như khổ thọ đối với
chúng ta không còn ý
nghĩa tác dụng, nên
chúng ta
vẫn thản
nhiên, tâm bất động. Do đó chúng không
còn tác động
lên tâm chúng
ta được, dù là trước cảnh sinh ly
tử biệt chúng ta cũng không hề sợ hãi, vì thế tâm không còn dao động và trở nên
mát lạnh, và cơ
thể chỉ
còn là một cái
thây ma vô tri mà
thôi. Cho nên đức Phật dạy rất
rõ ràng: “Ta cảm giác một
cảm khổ thọ
tận cùng của
sinh mạng. Vị ấy biết sau khi thân hoại mạng chung, ở đây
tất cả những cảm giác khổ thọ không làm
cho Ta sợ
hãi thì nó sẽ trở
thành vắng lặng,
cái thân được bỏ
qua một bên”. (151 Tương Ưng tập 2)
Bởi vậy
chúng ta đừng sợ hãi khổ thọ, vì khổ thọ vẫn là pháp vô thường nên nó không làm
gì được chúng ta. Đối với pháp VÔ THƯỜNG
chúng ta đừng sợ, đừng
dao động tâm thì KHỔ THỌ sẽ tan biến. Quý phật tử hãy ghi nhớ kỹ những lời dạy này,
khi có bệnh khổ thì cứ ôm chặt
pháp, đau bệnh mặc đau bệnh rồi nó sẽ
không đau bệnh nữa. Bởi đức Phật đã dạy như vậy, chúng
ta hãy cố gắng
gan dạ, chịu đựng sự đau khổ
của bệnh tật tận cùng sinh mạng
mình thì bệnh tật sẽ tan biến.
CÁC PHÁP CẦN
PHẢI
LIỄU TRI
Người tu
theo Phật giáo thì cần phải thông suốt những pháp nào?
Những pháp cần thông
suốt đó là SẮC,
THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC. Thông suốt những
pháp này để
làm gì? Thông
suốt những pháp này là để tâm không dính mắc chấp trước, vì sắc, thọ, tưởng,
hành, thức là pháp vô thường,
không phải là
ta, không phải là của ta, là bản
ngã của ta.
Cho nên, sự
thông suốt NGŨ UẨN là các pháp VÔ THƯỜNG, không phải là ta, không phải của ta,
không phải là bản ngã của ta thì rất
có lợi, vì nhờ thông
suốt như vậy
nó sẽ giúp chúng ta đoạn tận
THAM, SÂN, SI. Đoạn tận tham, sân, si là giải thoát. Chúng ta hãy
lắng nghe đức Phật dạy: “Và
này các Tỳ kheo,
thế nào là
các pháp cần phải liễu tri?
SẮC, này các tỳ kheo,
là pháp cần phải liễu tri, THỌ là
pháp cần phải liễu tri, TƯỞNG
là pháp cần phải liễu
tri, CÁC HÀNH cần phải liễu tri, THỨC là pháp cần phải liễu tri. Những
pháp này, này các Tỳ
kheo, là những
pháp cần phải LIỄU TRI”.
Vậy nghĩa của
liễu tri là gì?
Liễu tri có
nghĩa là biết rõ như thật không còn một chút nghi ngờ nào cả. Cho nên khi LIỄU TRI
NGŨ UẨN thì chúng
ta không còn dính
mắc chấp đắm trong thân ngũ uẩn nữa.
Do không còn dính mắc chấp đắm trong
thân ngũ uẩn nữa thì tâm THAM, SÂN, SI, MẠN, NGHI đã diệt sạch. Ở đây chúng ta diệt sạch
ngũ triền cái
là do LIỄU TRI
thân ngũ uẩn. Cho
nên chúng ta
hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Và này các Tỳ kheo, thế nào là liễu
tri? Này các Tỳ kheo, sự đoạn tận THAM,
sự đoạn tận SÂN, sự đoạn tận SI, này các Tỳ
kheo, được gọi
là liễu tri”.
(55 Tương Ưng tập 3)
Chữ LIỄU TRI
ở đây đức Phật dùng là để chỉ cho chúng
ta biết sự hiểu biết
thông suốt NGŨ UẨN
là các pháp
VÔ THƯỜNG, nhờ đó
mới đoạn tận
THAM, SÂN, SI. Mà tham, sân, si đã đoạn tận thì sự
giải thoát ngay
trước mắt của chúng ta.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!