lưu ý chú
tâm vào chỗ tâm BẤT ĐỘNG. Khi tâm
hoàn toàn ly dục ly bất
thiện pháp thì tâm BẤT ĐỘNG. Trong tâm BẤT ĐỘNG có một sự an lạc, nhờ tâm BẤT ĐỘNG an lạc đó mà các niệm tham,
sân, si, mạn, nghi không khởi ra được. Vậy chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy tiếp: “Này
các Vương Tử nhóm Anuruddha,
khi ly dục ly bất thiện pháp.
Nếu không chứng
được hỷ lạc hay một trạng
thái khác an tịnh
hơn, thời dục
tham xâm chiếm
tâm và an trú,
sân xâm chiếm
tâm và an
trú, hôn trầm thùy
miên... trạo cử, hối quá.
.. nghi
hoặc... bất lạc...
giải đãi xâm
chiếm tâm và
an trú”.
Quý vị
có nghe lời dạy của đức Phật
tu tập BA MƯƠI BẢY PHÁP VÀO ĐẠO không?
Khi chúng ta
TÁC Ý, đó
là một pháp trong
BA MƯƠI BẢY
PHÁP VÀO ĐẠO để giữ tâm BẤT ĐỘNG,
khi giữ gìn tâm BẤT ĐỘNG thì chúng ta có một sự cảm nhận
an lạc trong
TÂM BẤT ĐỘNG,
nếu chưa có sự an lạc là do chúng ta vận dụng công phu tu tập để không niệm khởi vọng tưởng. Để
không niệm khởi vọng
tưởng đó là một sự tu tập sai, chịu ảnh
hưởng những
giáo pháp của ngoại
đạo như Thiền
Tông, Tịnh Độ Tông và Mật
Tông Tây Tạng v.v... Tu tập phải để
tâm BẤT ĐỘNG tự nhiên thì
mới có an lạc, chính
nhờ sự an lạc đó mà niệm
vọng tham, sân, si, mạn, nghi không khởi lên được, cho nên
tâm BẤT ĐỘNG mới kéo dài từ giờ này đến giờ khác; từ ngày
này sang ngày
khác một cách dễ
dàng.
Do tâm BẤT ĐỘNG từ giờ
này đến giờ khác, từ ngày này
sang ngày khác nên đức Phật mới hỏi các Vương Tử để phá
tâm nghi về tâm BẤT ĐỘNG của Phật:
“Này các Vương Tử
nhóm Anuruddha, các ông có nghĩ về Ta như thế
nào? Các lậu hoặc nào liên hệ đến phiền não sanh khởi hậu hữu, đáng sợ hãi,
đưa đến quả khổ dị
thục, hướng đến sanh,
già, bệnh, chết trong tương lai,
các lậu hoặc ấy chưa được Như Lai đoạn trừ. Do vậy Như Lai sau
khi suy tư phân
tích, thọ dụng một
pháp; sau khi
suy tư phân tích
nhẫn thọ một pháp; sau khi suy tư phân tích từ bỏ một
pháp; sau khi suy tư phân tích,
đoạn trừ một
pháp, có đúng như vậy không?”.
Khi đức Phật nêu ra
những nghi ngờ của các Vương Tử nhóm Anuruddha đối với
các lậu hoặc Phật chưa diệt sạch.
Chúng ta hãy
lắng nghe các Vương Tử nhóm Anuruddha trả lời: “Bạch Thế Tôn, chúng con không
có nghĩ như vậy về Thế
Tôn: “các lậu hoặc
nào liên hệ đến phiền não, sanh khởi hậu hữu, đáng sợ hãi,
đưa đến quá khổ dị thục
hướng đến sanh, già, bệnh, chết
trong tương lai các lậu hoặc ấy chưa
được Như Lai đoạn trừ.
Do vậy Như
Lai sau khi suy tư
phân tích thọ dụng một
pháp, sau khi suy
tư phân tích
nhẫn thọ một pháp, sau
khi suy tư
phân tích từ bỏ
một pháp, sau
khi suy tư
phân tích đoạn trừ
một pháp”. Bạch
thế tôn chúng con nghĩ về thế tôn như sau: “các lậu hoặc
nào liên hệ đến phiền
não, sanh khởi hậu hữu, đáng sợ
hãi, đưa đến quả khổ dị thục, hướng đến
sanh già chết trong tương
lai, các lậu hoặc ấy
đã được Như
Lai đoạn trừ. Do vậy
Như Lai sau khi suy tư phân tích nhẫn thọ một
pháp, sau khi suy tư phân tích
từ bỏ một pháp,
sau khi suy
tư phân tích đoạn
trừ một pháp” ”.
Khi nghe
các Vương Tử
nhóm Anuruddha không còn
nghi ngờ lậu hoặc
của đức
Phật, nên đức Phật biết
chắc đó lòng tin không gì
lay chuyển, nên đức Phật ca ngợi
lòng tin ấy và vạch rõ
cho các Vương Tử
nhóm Anuruddha hiểu sâu
hơn con đường tu tập của
Phật giáo: “Lành thay!
Lành thay! này các Vương
Tử nhóm Anuruddha! Các lậu hoặc liên hệ đến phiền
não, sanh khởi
hậu hữu, đáng sợ hãi
đưa đến quả khổ dị thục, hướng đến sanh, già, bệnh, chết
trong tương lai đã được
Như Lai đoạn trừ, cắt
tận gốc rễ,
làm cho như
thân cây Ta-la không thể
sanh lại, không
thể sanh khởi trong tương
lai. Ví như
này các Vương Tử
nhóm Anuruddha, cây Ta-la đầu đã bị chặt đứt, không thể lớn
lên nữa, cũng vậy này các Vương Tử nhóm Anuruddha, các lậu hoặc liên hệ đến phiền
não ..( như trêân).. không thể sanh khởi trong tương
lai. Do vậy Như Lai sau
khi suy tư phân
tích thọ dụng
một pháp,
sau khi suy tư phân tích
từ bỏ một pháp
sau khi suy tư
phân tích đoạn trừ một pháp”.
Khi tu tập
sống trong tâm BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC thì tâm tham,
sân, si, mạn, nghi đã bị diệt trừ
như cây Ta-la
bị chặt đứt ngọn
không thể sống lại được.
Một sự xác định
rất rõ ràng mà
chính kim khẩu đức Phật nói ra.
Khi tu tập đạt được tâm BẤT ĐỘNG THANH THẢN, AN LẠC,
VÔ SỰ thì có một trí tuệ
hiểu biết rất đặc biệt
mà người thế gian không thể nào ngờ được. Cho nên trước
khi nói
ra điều này đức Phật
dè dặt sợ người
thế gian không
hiểu cho mình lường gạt
họ: “Này các Vương
Tử nhóm Anuruddha, các ông nghĩ
thế nào? Do thấy mục đích đặc
biệt nào, Như
Lai giải thích sự tái
sanh của các đệ tử đã từ trần, đã mệnh chung
nói rằng: “Vị này tái sanh ở chỗ
này, vị này tái sanh ở chỗ kia”.
Các Vương Tử
nhóm Anuruddha có lòng tin không?”.
Khi nghe
đức Phật hỏi
như vậy các
Vương Tử
nhóm Anuruddha khẳng
định trả
lời: “Bạch
Thế Tôn đối với
chúng con, các pháp dựa Thế Tôn
làm căn bản, hướng đến Thế
Tôn làm lãnh
đạo, nương tựa Thế
Tôn làm y cứ.
Bạch Thế Tôn, tốt lành thay nếu Thế Tôn thuyết giảng cho
ý nghĩa này.
Sau khi được nghe Thế Tôn, các tỳ kheo sẽ y giáo thọ
trì”.
Sau khi nghe các
Vương Tử nhóm Anuruddha tin tưởng
vào đức Phật không có chút lòng nghi ngờ gì cả nên đức Phật dạy tiếp: “Này
các Vương Tử
nhóm Anuruddha, Như Lai không vì
mục đích lường gạt quần chúng, không vì mục
đích nịnh hót
quần chúng, không vì mục đích
lợi lộc trọng vọng, danh xưng,
quyền lợi vật
chất, không vì với ý nghĩa: “Như vậy quần chúng sẽ biết ta”,
mà Như
Lai giải thích
sự tái sanh
các vị đệ tử đã từ trần đã
mệnh chung nói rằng:
“Vị này tái sanh ở
chỗ này hoặc vị này tái sanh ở chỗ
kia”. Và này các Vương Tử nhóm
Anuruddha, có những thiện gia nam tử có
tin tưởng với
tín thọ cao thượng,
với hoan hỷ
cao
thượng, sau
khi được nghe như vậy, sẽ chú tâm
nghe như thật.
Như vậy này các
Vương Tử nhóm
Anuruddha, là hạnh phúc, là
an lạc lâu đời cho các vị
ấy” .
Khi tu tập tâm BẤT ĐỘNG
đó là sự giải
thoát cho riêng mình nhưng
trong tâm BẤT ĐỘNG nó có một sự
hiểu biết ngoài tri kiến của mình.
Ở đây đức
Phật nói ra những điều này không phải vì khoe khoang,
không phải làm
cho người ta
kính phục mình, không
phải nói ra để được mọi người cúng dường
nhiều vật chất,
không phải nói ra để mọi người biết đến mình. Ở đây nói ra để mọi người hiểu trong tâm BẤT ĐỘNG có nhiều điều
siêu việt mà
không thể lấy
trí thế gian nghĩ bàn.
Chúng ta
hãy lắng nghe
đức Phật dạy: “Ở đây này các
Vương Tử nhóm Anuruddha, các ngươi
có nghe: “Tỳ kheo
với tên như
thế này đã mệnh
chung. Thế Tôn
có tuyên bố về vị
này: “Vị ấy an trú
chánh trí. Vị tôn giả ấy đã
được thấy hay được nghe.
Tôn giả này có giới hạnh
như vậy, tôn giả này
có trí tuệ
như vậy, tôn giả này có an trú như vậy,
tôn giả này có giải thoát như vậy. Tỳ
kheo khi nhớ đến lòng tin, giới hạnh,
đa văn, bố thí
và trí tuệ của vị
kia, an trú tâm trên như thật”.
Khi chúng
ta tu tập chỉ cần diệt trừ được
năm hạ phần
kiết sử. Năm hạ phần kiết sử gồm có:
1- Tham kiết
sử
2- Sân kiết
sử
3- Thân kiến
kiết sử (Mạn kiết sử)
4- Giới thủ
kiến kiết sử
5- Nghi kiến kiết sử
Đúng như lời đức Phật dạy diệt năm hạ phần kiết sử, lúc chết liền được hóa
sinh vào niết bàn không còn tái sinh làm người nữa: “Như vậy
này các
Anuruddha, tỳ kheo có nghe: “Tỳ
kheo với tên như thế này đã mệnh chung.
Thế tôn có
tuyên bố về vị này: “sau khi đoạn
trừ năm hạ phần kiết sử vị ấy được hoá sanh, nhập niết bàn tại chỗ ấy, không còn phải trở
lui ở đời này nữa”.
Khi còn sống giữ gìn được tâm BẤT ĐỘNG, THANH THẢN,
AN LẠC, VÔ SỰ
tức là tâm ly dục ly bất thiện pháp. Tâm ly dục
ly bất thiện pháp
là niết bàn.
Cho nên sống với tâm BẤT ĐỘNG,
THANH, THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ
là đã diệt
trừ năm hạ phần
kiết sử thì
chết cũng ở
chỗ BẤT ĐỘNG đó,
nên gọi là nhập niết
bàn. Như lời đức Phật đã dạy ở trên.
Đối với đạo Phật một người
tu
tập làm chủ sinh
già, bệnh, chết mới có
quyền làm thầy
dạy người khác tu tập. Còn khi tu tập
chưa chứng đạo thì
không được phép dạy ai tu tập cả,
vì dạy như vậy sẽ nói sai không đúng pháp. Bởi vậy hiện giờ kinh sách Phật
giáo đều do những người tu chưa chứng đạo viết, nên viết sai không
đúng lời Phật dạy khiến cho người sau không biết đường lối tu tập.
Đức Phật đưa
ra một ví dụ như một người chưa từng biết
lõi cây mà
không chịu thưa hỏi, tự mình đi vào rừng tìm lõi cây rồi chặt mang về một số cành
lá nhưng trong trí cứ
đinh ninh rằng
mình đem lõi cây về
nhà. Có một người hiểu biết lõi cây mới bảo rằng đây không phải lõi cây mà đây
chỉ là cành lá của cây nó không dùng được: “Này Bà-la-môn, ví
như một người
muốn được lõi cây, tìm cầu lõi
cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một
cây lớn, đứng thẳng, có lõi
cây, người bỏ
qua lõi cây, bỏ
qua giác cây, bỏ qua vỏ trong,
bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá, lấy chúng mang đi
và tưởng rằng
đó là lõi
cây. Một người có mắt thấy
vậy bèn nói: “Thật sự người này không biết lõi cây,
không biết giác
cây, không biết
vỏ
trong, không
biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người
này muốn được lõi
cây, tìm cầu lõi
cây. Trong khi đi
tìm lõi cây, trước
một cây lớn, đứng thẳng
có lõi cây, người
này bỏ qua lõi
cây, bỏ qua giác
cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ
qua vỏ ngoài, chặt
cành lá lấy
chúng mang đi, tưởng rằng
đó là lõi
cây. Và người này
không đạt mục đích
mà lõi cây có
thể thành tựu”.
Đạo Phật tu
hành không phải khó nhưng khó ở chỗ người
dạy tu chưa chứng đạo vì
tu chưa chứng
đạo nên dạy
tu sai pháp. Người tu chưa chứng
đạo cũng giống người chưa biết lõi cây mà đi tìm lõi cây thì làm sao tìm được.
Những ví dụ trên đây của đức Phật dạy quá thực tế, rõ ràng và cụ thể, không còn chỗ nào nghi ngờ.
Một người
mới nghe được
pháp xả tâm ly dục ly ác pháp bằng
pháp như lý tác ý giữ tâm BẤT ĐỘNG,
THANH THẢN, AN LẠC và VÔ SỰ
là tuyệt vời về
nhà tập thử thấy có kết quả xả được
tâm dục và các ác pháp chút ít liền gặp ai cũng đem pháp này ra dạy đạo làm như
mình đã chứng đạo. Đó
là một điều
sai hết sức. Mình
tu chưa xong mà đi dạy đạo là một việc làm cấm kỵ nhất trong Phật giáo.
Đạo Phật là
đạo vô ngã thế mà đi dạy đạo lúc tu
hành chưa xong thì chỉ có
nuôi ngã làm cho ngã lớn hơn thì
đó là đi ngược lại đạo Phật. Cũng
giống như các sư
thầy Đại Thừa dạy người cúng dường
tam bảo sẽ được phước báu lớn. Đây cũng
giống như người chặt lấy cành lá mà tưởng là lõi cây. Thật là vô minh mà không biết.
Lần thứ hai
đức Phật lại nhắc nhở muốn tu hành chứng đạo thì chỉ có người tu chứng đạo mới dẫn đắt đi đến chứng
đạo, còn những người
chưa chứng đạo mà hướng dẫn
tu chứng đạo thì cũng giống
như người không biết lõi cây mà vào rừng chặt một miếng vỏ cây ngoài
mang về và bảo đó là lõi cây. Người hiểu biết lõi cây bảo rằng
đó chỉ là vỏ ngoài
cây chớ không
phải lõi cây. Chúng
ta hãy lắng
nghe đức Phật
dạy: “Này Bà-la-môn, ví
như một người muốn được lõi
cây, tìm cầu
lõi cây. Trong khi
đi tìm lõi
cây, trước một
cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi
cây, bỏ qua
giác cây, bỏ
qua vỏ
trong, chặt vỏ
ngoài, lấy chúng
mang đi, tưởng rằng
đó là lõi
cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: “Thật sự người
này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ
ngoài, không biết cành
lá. Người này muốn được lõi
cây, tìm cầu
lõi cây. Trước một cây lớn, đứng
thẳng, có lõi cây, người này bỏ qua
lõi cây, bỏ
qua giác cây, bỏ
qua vỏ trong,
chặt võ ngoài, lấy chúng
mang đi, tưởng
rằng đó là lõi cây. Và người này không đạt mục đích mà lõi cây có thể thành tựu”.
Qua lời dạy
trên đây của đức Phật chúng ta có thể
nhậân xét và biết rõ
các sư thầy dạy người tu tập để làm chủ sinh, già, bệnh, chết mà
chính các sư thầy
cũng chưa làm chủ sinh, già, bệnh,
chết. Vì vậy các sư thầy biết pháp gì làm chủ sinh, già, bệnh, chết mà dạy người
tu.
Nhìn những
tu sĩ Phật
giáo hiện giờ chỉ lấy cái học bằng tiến sĩ này bằng tiến
sĩ khác rồi dạy tín đồ tu tập. Các ông sư thầy tiến sĩ
này cũng giống
như những người
đi
tìm lõi cây
mà chẳng biết
lõi cây, chặt lấy
vỏ cây trong mà cho đó là lõi cây.
Trong kinh
sách Phật dạy mọi
người phải cân nhắc khi muốn làm thầy dạy người tu thì phải tu chứng đạo có nghĩa là làm chủ được bốn sự khổ
đau của kiếp người
sinh, già, bệnh, chết.
Người không
hiểu biết lõi cây chặt lấy vỏ trong cây tưởng là
lõi cây mang về bảo với
mọi người là lõi
cây. Việc làm
đó cũng giống như
các sư thầy Đại Thừa tu
hành chưa chứng đạo lên tòa thuyết pháp dạy tín đồ lạy sám hối hồng danh chư Phật để tiêu tai
giải nạn và được nhiều công đức nhờ chư Phật gia hộ hoặc dạy niệm Phật
cầu vãng sinh để
khi chết được
sinh về cõi cực lạc Tây
Phương. Dạy đạo
như vậy làm
sao người tu hành làm chủ được sinh, già, bệnh,
chết.
Một người
không biết lõi
cây, bỏ lõi, bỏ cành
lá, bỏ vỏ ngoài, bỏ vỏ trong của cây mà chỉ lấy giác
cây cho đó là
lõi cây, hành động
vậy làm sao làm
chủ sinh, già, bệnh,
chết được.
Chúng ta
hãy lắng nghe
đức Phật dạy: “Này Bà-la-môn, ví
như một người muốn được lõi cây,
tìm cầu lõi
cây. Trong khi đi
tìm lõi cây,
trước một cây lớn đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ
qua lõi cây, chặt lấy giác cây,
mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và
người này không đạt được mục đích mà lõi
cây có thể thành tựu”.
Một lần nữa
đức Phật dạy: Người không biết lõi cây mà đi tìm lõi cây cũng giống như người
chưa biết pháp tu mà nghe người ta dạy tu thì
liền tu không cần tư duy suy nghĩ cho chín chắn nên đã tu sai pháp, vì thế mà tu không chứng đạo uổng
công sức và phí một đời tu tập.
Muốn tu chứng đạo
thì nên tìm người tu chứng
đạo. Người tu chứng đạo sẽ dạy như thế nào thì tu như thế nấy thì sẽ chứng
đạo.
Cho nên trong
cuộc đời tu hành phải tìm một
người tu chứng,
nhưng tìm một người tu chứng đạo là khó vô cùng.
Người tu
không chứng đạo cũng giống như người không
biết lõi cây.
Các sư thầy
Đại Thừa và
các Thiền sư Đông Độ không biết phương pháp tu tập làm chủ sinh, già bệnh chết
mà dạy tín đồ
kiến tánh thành Phật hay dạy chẳng
niệm thiện niệm
ác bản lai diện mục hiện
tiền. Biết vọng liền buông Thiền Tông cũng giống như người lấy giác cây
mà cho đó là
lõi cây. Cho nên
đức Phật dạy rất cụ thể: Một người
không biết lõi cây, bỏ lõi, bỏ
cành lá, bỏ vỏ ngoài, bỏ vỏ trong, chỉ lấy giác cây mà cho đó là lõi cây.
Do biết đời
là đau khổ nên mới xuất gia tu hành từ bỏ gia đình,
sống không nhà cửa chỉ ngày ngày đi xin ăn mà thôi, nhờ đó đời sống
không bị ràng buộc bởi bất cứ một điều
gì, nên mới gọi đó là giải thoát Chúng ta hãy lắng nghe lời Phật
dạy: “Cũng vậy, này Bà-la-môn, ở đây,
có người
do lòng tin xuất gia từ bỏ
gia đình sống không gia
đình: “Do ta bị
trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị
chìm đắm trong đau khổ, bị chi
phối bởi đau khổ, rất có thể toàn
bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt”.
Nhưng khi
đã xuất gia
làm một tu sĩ thọ giới cụ túc đầy
đủ thì được phật tử cung
kính cúng
dường, do cung kính cúng
dường nên lợi dưỡng
nhiều, vì vậy vị tu sĩ này
chìm đắm
trong danh vọng. Do chìm
đắm trong danh vọng vị
này không còn
lo tu hành gì cả nên
cuộc đời vẫn bị trôi
lăn trong vòng sáu nẻo luân hồi khổ đau. Đức Phật biết
rõ điều này
nên cảnh giác các vị
tu sĩ
đã xuất gia thọ cụ
túc giới: “Vị ấy
xuất gia
như vậy, được lợi dưỡng,
tôn kính, danh vọng.
Do lợi dưỡng,
tôn kính, danh vọng này, vị
ấy hoan
hỷ, tự mãn. Do lợi dưỡng, tôn
kính, danh vọng này, vị ấy khen
mình, chê người:
“Ta được lợi dưỡng
như vậy, được
danh vọng như vậy, còn
các tỳ-kheo khác
ít được biết đến, ít có
uy quyền”. Và vị ấy không
phát khởi lòng
ao ước và không cố gắng
tinh tấn để chứng được
các pháp khác cao
thượng hơn, thù thắng
hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy trở thành biếng nhác và thụ động.
Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi
cây, tìm cầu
lõi cây. Trong khi
đi tìm lõi
cây, trước một
cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi
cây, bỏ qua
giác cây, bỏ
qua vỏ
trong, bỏ
qua vỏ ngoài, chặt
cành lá, lấy chúng mang
đi, tưởng rằng
đó là lõi cây.
Và người ấy sẽ
không đạt được mục đích mà
lõi cây có thể thành
tựu. Này Bà-la-môn, Ta nói rằng:
Người này giống như ví dụ ấy”.
Người xuất
gia chỉ mới được sự
cung kính cúng dường
mà đã tự
mãn thì cũng giống như người tìm lõi cây mới chặt được
cành lá mà hân
hoan cho mình đã được
lõi cây thì đó là tự giết
mình trên đường tu tập, vì con đường
tu còn dài,
chừng nào tu tập
làm chủ sinh, già, bệnh, chết xong thì mới không còn tu tập nữa.
“Rồi vị ấy
xuất gia như vậy, được lợi dưỡng,
tôn kính, danh vọng. Vị
ấy không vì lợi
dưỡng, tôn kính,
danh vọng này, hoan hỷ, tự mãn. Vị
ấy không vì lợi dưỡng, tôn
kính, danh vọng này, khen mình,
chê người. Và vị ấy
phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác
cao thượng hơn, thù thắng
hơn những lợi dưỡng,
tôn kính, danh vọng. Vị ấy không trở
thành biếng nhác
và thụ động. Vị ấy
thành tựu giới đức.
Vì thành tựu giới
đức này, vị ấy hoan
hỷ, tự mãn.
Vì thành tựu giới
đức này, vị ấy khen mình, chê người: “Ta trì giới, theo thiện
pháp. Các tỳ-kheo khác
phá giới, theo ác
pháp”. Và vị ấy không
phát khởi lòng ao ước
và không cố gắng
tinh tấn để chứng được các pháp
khác cao thượng hơn, thù thắng hơn giới
đức. Vị ấy trở thành biếng nhác và thụ động. Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng
thẳng, có lõi
cây, người ấy bỏ qua
lõi cây, bỏ qua
giác cây, bỏ
qua vỏ trong, chặt lấy vỏ ngoài, lấy chúng mang đi,
tưởng rằng đó
là lõi cây.
Và người này sẽ
không đạt được mục đích mà lõi
cây có thể thành
tựu. Này Bà-la-môn,
Ta nói rằng, người
này giống như
ví dụ
ấy”.
Người tu sĩ
mới giữ được giới luật nghiêm chỉnh mà đã tự mãn thì cũng giống như người đi tìm lõi cây chỉ lấy vỏ
ngoài cây
mà cho là
lõi cây thì thật
là vô minh.
Giữ giới nghiêm túc đâu phải là cứu cánh ở đây.
Mỗi chặng đường
tu tập đức Phật thường cảnh giác để chúng
ta lưu ý mà
không bị dính mắc. Chúng ta hãy lắng
nghe đức Phật dạy tiếp:
“Vì thành tựu
giới đức này, vị ấy hoan hỷ nhưng không
tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu giới đức này, khen mình, chê
người. Và vị ấy phát khởi
lòng ao
ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng
hơn, thù thắng
hơn giới đức.
Vị ấy không trở
thành biếng nhác và
thụ động. Vị ấy thành
tựu Thiền định.
Do thành tựu Thiền
định này, vị ấy
hoan hỷ, tự mãn. Do thành tựu Thiền định này, vị ấy khen mình, chê người:
“Ta có Thiền định, nhất tâm. Các
tỳ-kheo khác không có Thiền định, tâm bị phân tán”. Và vị ấy không
phát khởi lòng
ao ước và không
cố gắng tinh tấn
để chứng được các
pháp khác cao
thượng hơn, thù thắng
hơn sự thành
tựu Thiền định. Vị ấy trở thành
biếng nhác và thụ
động. Này
Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi
cây, tìm cầu
lõi cây. Trong khi
đi tìm lõi
cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ
qua lõi
cây, bỏ qua
giác cây, chặt vỏ
trong cây, lấy vỏ trong mang đi, tưởng rằng đó
là lõi cây. Và người này sẽ không
đạt được mục đích mà lõi cây có thể
thành tựu. Này Bà-la-môn, Ta nói rằng, người này giống như ví dụ ấy”.
Người tu sĩ
mới đạt được nhiếp tâm BẤT ĐỘNG một hai giờ mà đã tự mãn cho mình hơn người,
không ai bằng
mình đi ra khoe khoang nói với người
này người khác ta đã BẤT ĐỘNG TÂM,
người tu hành như vậy thì
cũng giống như người đi
tìm lõi cây chỉ lấy vỏ trong
cây mà đã
hân hoan la lối cho là lõi cây. Thật là ngu si, mê mờ không sáng suốt. Thấy được điều này đức Phật
đã cảnh giác như lời dạy trên đây.
“Vị ấy
thành tựu Thiền
định. Vì thành tựu Thiền định
này, vị
ấy hoan hỷ nhưng
không tự mãn. Vị
ấy không do thành
tựu Thiền định
này khen mình, chê người.
Vị ấy phát khởi
lòng
ao ước
và cố gắng
tinh tấn để chứng được
các pháp khác
cao thượng hơn, thù
thắng hơn sự
thành tựu Thiền định. Vị ấy không trở thành biếng nhác
và thụ động. Vị ấy
thành tựu tri kiến. Vị ấy, do tri kiến
này, hoan hỷ tự
mãn. Vị ấy, do tri kiến này,
khen mình, chê người: “Ta sống, thấy
và biết. Các tỳ-
kheo khác sống không thấy và không biết”. Và vị ấy không phát khởi lòng ao ước và
không cố gắng
tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng
hơn, thù
thắng hơn tri kiến.
Vị ấy trở thành biếng nhác
và thụ động. Này Bà- la-môn, ví
như một người
muốn được lõi cây,
tìm cầu lõi
cây. Trong khi
đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có
lõi cây, người ấy bỏ
qua lõi cây, chặt giác cây mang
đi, tưởng rằng đó là lõi
cây. Và người
này sẽ không đạt được mục đích mà lõi
cây có thể thành tựu. Này Bà-la-môn, Ta nói rằng người này giống ví dụ ấy”.
Người tu
sĩ mới thành
tựu tri kiến giải thoát mà
đã tự mãn
cho mình hơn
người, không
ai bằng mình,
nhưng không ngờ tri kiến
giải thoát của mình
chỉ là tưởng giải nếu không cân
nhắc kỹ lưỡng thì cũng giống như người
đi tìm lõi cây chỉ lấy giác
cây mà đã
hân hoan cho
là lõi cây. Thật
là ngu si,
mê mờ không
sáng suốt. Thấy được
điều này đức Phật đã cảnh giác như lời dạy trên đây.
“Vị ấy thành
tựu tri kiến. Vị ấy do tri kiến này hoan
hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy
không do tri kiến này, khen mình, chê
người. Vị ấy phát
khởi lòng ao ước, cố gắng tinh tấn
để chứng được các pháp khác
cao thượng hơn,
thù thắng hơn tri kiến. Vị ấy
không trở thành biếng nhác và thụ động.
Và này
Bà-la-môn, những pháp gì cao thượng hơn,
thù thắng hơn
tri kiến? Ở đây, này Bà-la-môn, tỳ kheo ly dục, ly pháp bất thiện, chứng
và trú Thiền thứ nhất, một
trạng thái hỷ lạc,
do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này Bà-la- môn,
pháp này cao
thượng hơn, thù thắng
hơn tri kiến. Lại nữa, này
Bà-la- môn, tỳ kheo
diệt tầm và tứ, chứng
và
trú Thiền
thứ hai, một
trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh,
nhất tâm. Này
Bà-la-môn, pháp này cao
thượng hơn, thù thắng
hơn tri kiến. Lại nữa, này Bà-la-môn, tỳ kheo
ly hỷ trú
xả, chánh niệm
tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ
mà các
bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú,
chứng và trú Thiền thứ ba. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng
hơn tri kiến. Lại nữa,
này Bà-la-môn, tỳ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ
trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ,
không lạc, xả
niệm thanh tịnh. Này
Bà-la-môn, pháp này
cao thượng hơn, thù thắng hơn
tri kiến. Lại nữa, này Bà-la-môn, tỳ-kheo vượt lên mọi sắc
tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, tỳ-kheo
nghĩ rằng:
“Hư không là
vô biên”, chứng và trú Không vô biên xứ. Này Bà-la-môn,
pháp này cao
thượng hơn, thù thắng
hơn tri kiến. Lại nữa,
này Bà-la-môn, tỳ-kheo vượt lên mọi Không vô
biên xứ, nghĩ
rằng: “Thức là vô biên”, chứng và trú Thức vô biên xứ.
Này Bà-la-môn, pháp
này cao thượng
hơn, thù thắng hơn
tri kiến. Lại nữa, này Bà-la-môn, tỳ-kheo vượt lên mọi Thức vô
biên xứ, nghĩ rằng: “Không
có vật gì”, chứng và trú Vô sở hữu xứ. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng
hơn, thù thắng hơn
tri kiến. Lại nữa,
này Bà-la-môn, Tỳ-kheo vượt mọi Vô sở hữu xứ, chứng
và trú Phi
tưởng Phi phi tưởng xứ. Này
Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Lại nữa, này
Bà-la-môn, tỳ-kheo vượt lên mọi
Phi tưởng phi phi
tưởng xứ, chứng và
trú Diệt thọ tưởng
(định), sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn
trừ. Này
Bà-la-môn, pháp này
cao thượng hơn, thù
thắng hơn tri kiến. Này Bà-la-môn,
các pháp này
cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến.
Này
Bà-la-môn, ví như một người muốn được
lõi cây, tìm
cầu lõi cây. Trong
khi đi tìm
lõi cây, trước
một cây lớn, đứng thẳng, có lõi
cây, người ấy chặt lõi cây, lấy và
mang đi và tự biết đó là lõi cây. Và người ấy đạt được mục
đích mà
lõi cây có thể thành
tựu. Này
Bà-la-môn, Ta nói rằng, người này
giống như ví
dụ ấy”.
Chừng nào
người tu sĩ nhập bốn thiền thực hiện tam
minh làm chủ
sinh, già, bệnh, chết thì
đó mới là lõi
cây. Vì thế đức Phật kết
luận để chúng
ta thấy rõ
con đường tu tập phải qua nhiều chặng đường nhưng mục đích
cuối cùng là
TÂM BẤT ĐỘNG, chỉ có
TÂM BẤT ĐỘNG mới làm chủ
sinh, già, bệnh,
chết. Đó mới
chính là lõi cây.
“Như vậy,
này Bà-la-môn, phạm hạnh này không phải vì lợi ích, lợi dưỡng, tôn
kính, danh vọng,
không phải vì lợi
ích thành tựu
giới đức, không phải vì lợi ích
thành tựu Thiền định, không phải vì lợi ích
tri kiến. Và này Bà-la-môn, tâm
giải thoát bất động chính là mục
đích của phạm hạnh này, là lõi
cây của phạm hạnh,
là mục tiêu cuối cùng của phạm hạnh”.
Bài thuyết
pháp của đức Phật đến đây chấm dứt, nhưng nó xác định cho chúng ta biết các
pháp tu tập không ngoài BA BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO. Khi ấy các vị Bà La Môn
được nghe
bài pháp này và đại diện cho tất cả các Bà La Môn khác, Bà La Môn Pingalakoccha
tán thán ca ngợi Phật:
“Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn
Pingalakoccha
bạch Thế Tôn:
Thật vi diệu thay,
Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại
những gì quăng
ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng,
đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy,
Chánh Pháp đã được Thế
Tôn dùng nhiều phương
tiện trình bày. Và
nay con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, quy y tỳ kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận
con làm đệ tử, từ nay trở đi cho
đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng!”.
Đúng vậy chỉ có con đường của Phật giáo mới
đưa loài người qua biển
khổ luân hồi sinh tử. Chúng
ta may mắn
thay được sinh lên làm người và gặp
được chánh pháp của Phật. Thật là phước báu nhiều đời đã có
gieo trồng.
Nếu không gieo
trồng làm sao đời này có duyên gặp lại.
Nhân nào quả
nấy, trước không gieo trồng với chánh pháp thì kiếp này khó gặp chánh pháp. Phải
không quý vị?
Rừng Núi
là nơi yên tịnh cho
người tu tập xả
tâm ly dục ly bất
thiện pháp. Vậy ai
là người tu sĩ
thì tìm nơi này ngồi kiết già lưng thẳng giữ tâm Bất Động,
thanh thản, an lạc và vô sự.
Độc cư là một
đức hạnh phòng hộ sáu căn mà người tu
sĩ Phật giáo trong thời nào
cũng phải giữ
gìn cho tròn đủ. Chúng ta hãy lắng nghe câu chuyện của ba vị tôn giả cùng nhập
thất tu tập trong khu rừng SỪNG BÒ đã giữ
gìn hạnh độc cư như thế nào?
Một hôm đức
Phật đến thăm ba vị đệ tử của mình đang tu tập trong khu rừng SỪNG BÒ. Khi đức Phật bước vào khu rừng SỪNG BÒ
thì người giữ rừng ra
ngăn cản thấy Thế
Tôn từ xa đi
đến, liền bạch
Thế
Tôn:
“- Bạch
Sa-môn, chớ có vào khu vườn này. Có ba
thiện nam tử đang trú tại
đây, họ giữ hạnh độc cư miên
mật tu hành. Ngài chớ có phiền nhiễu các vị
ấy”.
Lúc bấy
giờ ngài A
Na Luật nghe thấy thế mới bảo người giữ rừng rằng: đức
Phật là thầy của chúng tôi: “Tôn giả Anuruddha nghe người giữ rừng nói chuyện với
Thế Tôn như vậy liền nói với người giữ rừng:
- Này người
giữ rừng, chớ có ngăn chặn Thế Tôn. Thế Tôn là bậc Đạo Sư của chúng tôi đã đến thăm”.
Ngài A Na Luật
mới đi gọi các bạn đồng tu của
mình đến đón đức Phật:
“Rồi Tôn giả Anuruddha đi đến Tôn giả Nandiya Tôn giả Kimbila và nói:
- Chư Tôn giả hãy đến! Chư
Tôn giả hãy đến!
Thế Tôn, bậc đạo
sư của chúng ta đã đến thăm.
Rồi Tôn giả
Anuruddha, Tôn giả Nandiya và Tôn giả Kimbila ra đón Thế Tôn, một người cầm y
bát của Thế Tôn, một người sửa soạn chỗ ngồi, một người đặt sẵn nước rửa chân.
Thế Tôn ngồi trên
chỗ ngồi đã
soạn sẵn, sau
khi ngồi, các Tôn giả ấy đảnh lễ
Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Và Thế Tôn nói với Tôn giả Anuruddha đang ngồi xuống một bên”:
Khi ngồi xong vào chỗ ngồi đức Phật liền hỏi A
Na Luật
sự công phu tu
tập của ba vị như thế nào?
“- Này các
Anuruddha, các Ông có được an lành
không? Có được sống
yên vui không? Đi khất
thực có khỏi mệt nhọc không?”.
Câu trên đây
đức Phật hỏi này A Na Luật các ông nhiếp
tâm có an trú được không? Khi xả ra
có thấy yên
vui không? Và đi xin ăn có mệt nhọc không?
Khi được hỏi như vậy
ông A Na Luật thay các bạn trả lời:
“- Bạch Thế Tôn,
chúng con được an lành; bạch Thế
Tôn, chúng con sống yên vui; bạch Thế
Tôn, chúng con đi khất thực khỏi có mệt nhọc”.
Nghe để tử của
mình trả lời như vậy đức Phật hỏi tiếp:
“- Này các
Anuruddha, các Ông có sống hòa hợp, hoan
hỷ với nhau, không có cãi
nhau, như nước
với sữa, sống nhìn
nhau với cặp
mắt thiện cảm không?”
Ông A Na Luật
thay hai bạn đồng
tu trả lời tiếp:
“- Bạch
Thế Tôn, thật sự chúng con sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau,
không có cãi nhau, như nước với sữa, sống nhìn
nhau với cặp
mắt thiện cảm”.
Khi nghe ông A Na Luật trả lời chung chung như vậy
đức Phật mới hỏi cặn kẽ để người
sau khi đọc
đoạn kinh phải thông suốt chớ không phải đức Phật không hiểu
ý các đệ tử của mình.
“- Này
các Anuruddha, như
thế nào các ông sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, như
nước với sữa,
sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm?”.
Ông A
Na Luật trả lời Phật
nhưng chính là giải
thích cho người đời
sau nghe để hiểu biết thế nào là sống ĐỘC CƯ.
“- Bạch Thế
Tôn, ở đây, chúng con nghe như sau: “Thật lợi ích thay cho ta! Thật khéo lợi ích
thay cho ta!
Khi ta được sống với các vị đồng
phạm hạnh như vậy”.
Rất hạnh
phúc khi cùng tu tập với những người quyết
tâm tu tập thì luôn luôn giữ
gìn giới hạnh tinh nghiêm và hạnh độc cư
trọn vẹn nên
không làm động
người khác, nên không
nói chuyện, không
ngó nhìn người khác,
chờ người khác
đi khất thực rồi
mình mới đi chớ không
đồng thời đi một lượt. Ông A Na
Luật trả lời tiếp:
“- Bạch Thế
Tôn, do vậy, đối với các vị đồng
phạm hạnh này,
con khởi lên từ
thân nghiệp trước
mặt và sau lưng,
con khởi lên
từ khẩu nghiệp, trước mặt và sau lưng, con khởi lên
từ ý nghiệp, trước mặt và sau lưng”.
Chúng con sống
hòa hợp như nước với sữa vì
chúng con trước mặt
cũng như sau lưng đều khởi LÒNG YÊU THƯƠNG bạn đồng tu của mình vì thế chúng
con không có gì tranh cãi gây trở ngại trong sự tu tập của mình và
các bạn. Đó là chúng con sống
ĐỘC CƯ. Sống cùng ba người ở chung nhau trong một khu rừng nhưng tưởng chừng
như mình sống một mình, vì sống ba người mà không ai nói chuyện với ai.
Ông A Na Luật trả lời tiếp theo:
“- Bạch
Thế Tôn, do vậy, chúng con nghĩ như sau:
“Ta hãy từ bỏ tâm
của ta
và sống thuận
theo tâm của những
Tôn giả này”.
Bạch Thế Tôn,
con từ bỏ tâm của
con, và sống thuận theo tâm của những
Tôn giả ấy.
Bạch Thế Tôn, chúng con
tuy khác thân,
nhưng giống như đồng một
tâm.
Bạch Thế
Tôn, như vậy chúng con sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, như nước
với sữa, sống
nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm”.
Đúng vậy, sống
ĐỘC CƯ là sống biết TÙY THUẬN, sống
theo ý của
người khác thì đó
là sống hòa hợp
như nước
với sữa. Sống hòa hợp như nước với sữa là sống với LÒNG
YÊU THƯƠNG, chỉ
có lòng yêu thương
mới sống trọn vẹn
với bạn đồng tu. Bởi vậy muốn sống với lòng yêu thương trọn
vẹn thì không có cách nào khác hơn phải từ bỏ sống theo
tâm mình mà sống theo
tâm các bạn. Ý kiến thực hiện LÒNG YÊU THƯƠNG bằng cách bỏ tâm mình sống
theo tâm bạn tức là
tùy thuận tâm bạn
mà sống thì làm
sao có xung đột tranh cãi,
thì làm sao có chướng ngại pháp và như vậy mới gọi là SỐNG ĐỘC
CƯ.
Rồi tôn giả
Nandiya cũng nói như tôn giả A Na Luật,
kế Tôn giả Kimbila cũng nói như tôn giả A Na Luật.
Tôn giả Nan
Đà và tôn giả Kimbila cùng nói như tôn
giả A Na Luật, vì thế đức Phật rất tán
thán ca ngợi hạnh ĐỘC
CƯ của ba vị tôn giả này và hỏi:
“- Lành
thay! Lành thay! này Anuruddha! Này các Anuruddha, các Ông có sống không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần
không?”.
Được đức
Phật hỏi vậy,
ông A Na
Luật thay
các bạn trả lời:
“- Bạch
Thế Tôn, thật sự chúng con
sống không phóng
dật, nhiệt tâm, tinh cần”.
Đức Phật bảo
ông hãy giải thích như thế nào không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần?
“- Này các
Anuruddha, như thế nào, các Ông sống không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần?”.
Ông A
Na Luật giải
thích lối sống ĐỘC CƯ của ba người cho đức Phật nghe để
có sai
chỗ nào thì đức Phật dạy sửa lại cho đúng hạnh độc cư của người tu.
“- Ở
đây, bạch Thế Tôn,
chúng con, ai đi vào
làng khất thực về
trước, thì người ấy sắp đặt các
chỗ ngồi, soạn sẵn nước
uống, nước rửa chân,
soạn sẵn một bát để bỏ đồ dư. Ai đi
vào làng khất thực về sau,
thì người ấy,
còn đồ ăn thừa nếu muốn ăn thì ăn, nếu không muốn ăn thì bỏ
vào chỗ
không có cỏ xanh
hay đổ vào
nước không có
loài côn trùng và người ấy xếp dọn lại các chỗ ngồi, cất
đi nước uống, nước
rửa chân, cất đi cái bát để bỏ đồ
dư và quét sạch nhà ăn. Ai thấy
ghè nước uống, ghè nước rửa chân, hay ghè nước trong nhà cầu hết
nước, trống không
thì người ấy sẽ lo liệu (nước). Nếu ai làm không nổi với sức bàn tay của
mình, thì người ấy dùng
tay ra hiệu gọi người thứ hai: “Chúng ta hãy lo liệu (nước)”.
Dầu vậy,
bạch Thế Tôn,
chúng con không vì vậy
mà gây ra tiếng
động. Và đến ngày thứ
năm, bạch Thế Tôn,
suốt cả đêm, chúng con ngồi đàm
luận về đạo pháp bằng cách
im lặng. Như vậy,
bạch Thế Tôn chúng con sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần”.
Sống Độc Cư
như ba vị tôn giả này thật là tuyệt vời. Trong cuộc đời tu hành
chúng ta khó thấy ai tu hành sống ĐỘC CƯ được như ba vị tôn giả này. Đời nay tu
hành kỳ lạ, tu sĩ hay cư sĩ vào thất tu tập cứ sống ít hôm thì viết thư hỏi thầy
điều này thế kia hoặc hỏi xin cái này cái khác. Tâm họ
luôn luôn phóng dật phá hạnh độc cư mà không biết.
Đức Phật hỏi
tiếp các ông sống độc cư trọn vẹn như
vậy các ông
có làm chủ sinh, già, bệnh, chết chưa?
“- Lành
thay, lành thay, này các Anuruddha!Này các Anuruddha, các Ông sống không phóng
dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy,
các Ông có chứng
được pháp thượng
nhân, tri kiến thù thắng, xứng
đáng bậc Thánh, sống thoải mái, an lạc không?”.
Ông A Na Luật
trình bày kết quả sự
tu tập
của mình trong
khi sống trọn vẹn
hạnh ĐỘC CƯ như vậy:
“- Bạch Thế
Tôn, sao có thể không được. Ở đây, bạch Thế
Tôn, đãõ lâu lắm
rồi cho đến khi chúng con muốn, chúng
con ly dục,
ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ
lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ, có hỷ, có
lạc, có nhất tâm.
Như vậy, bạch Thế Tôn, đối với
chúng con, là pháp thượng nhân, tri kiến
thù thắng, xứng
đáng bậc Thánh; chúng con
chứng được và sống thoải mái, an lạc, nhờ chúng con sống không
phóng dật, nhiệt tâm,
tinh
cần”.
Đức Phật
khen ngợi các
ông tu tập vậy là đúng pháp, các ông có chứng được các pháp khác cao hơn chăng?
“- Lành
thay! Lành thay! Này các Anuruddha! Này các Anuruddha, các Ông có vượt qua sự an
trú kia, có làm
cho khinh an sự
an trú kia,
và chứng được một
pháp thượng nhân khác, một
tri kiến thù
thắng xứng đáng
bậc Thánh và sống
thoải mái, an lạc
không?”.
Ông A
Na Luật trả lời thay
cho hai bạn đồng tu:
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!