BÂY DIỆU PHÁP
LỜI PHẬT DẠY
I - Vị
Thánh đệ tử có
lòng tin, có lòng tin ở sự giác
ngộ của Như Lai: Ngài là bậc 1- A La
Hán; 2- Chánh Đẳng Giác;
3- Minh Hạnh Túc;
4- Thiện Thệ; 5- Thế
gian Giải; 6- Vô
Thượng sĩ; 7- Điều
Ngự
Trượng Phu;
8- Thiên Nhân Sư; 9- Phật;
10- Thế Tôn.
II – Vị này
có lòng tàm, tự xấu hổ vì thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh, tự xấu hổ vì
thành tựu ác, bất thiện pháp.
III – Vị này
có lòng quý, tự sợ hãi vì thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh, tự sợ
hãi vì thành tựu
ác, bất thiện pháp.
IV- Vị này
là vị đa văn, nhớ nghĩ những điều đã
nghe, tích tụ những điều đã nghe.
Những pháp nào
sơ thiện, trung thiện, hậu thiện,
có văn nói lên phạm hạnh hoàn
toàn đầy đủ
thanh tịnh, những pháp như vậy, vị
ấy nghe
nhiều, thọ
trì đọc tụng bằng lời được trí suy tư, được chánh kiến thể nhập.
V- Vị ấy sống
tinh cần tinh tấn, trừ bỏ các pháp bất thiện, thành tựu các thiện
pháp, nỗ lực, kiên trì, không từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp.
VI- Vị ấy có niệm,
thành tựu niệm tuệ tối thắng, nhớ lại,
nhớ lại nhiều lần những gì đã làm từ lâu, đã nói từ lâu.
VII- Vị ấy
có trí tuệ, thành tựu
trí tuệ về sanh
diệt, thành tựu Thánh thể nhập đưa đến đoạn tận khổ đau.
Này
Mahanama, như vậy vị Thánh đệ tử thành tựu bảy vi diệu pháp.
(Trung Bộ Kinh, tập 2, trang 44)
CHÚ GIẢI:
Bước vào Đạo Phật
lòng tin là pháp môn
đầu tiên để
chúng ta dùng
nó mà xung trận đánh dẹp giặc sinh tử luân hồi. Nếu thiếu lòng tin tức
là các bạn
không có tinh thần chiến đấu.
Trong đoạn kinh này
chúng ta còn thấy
thiếu hai danh
hiệu của Phật nữa là:
Như Lai
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
và Ứng
cúng. Như vậy, đức Phật
có 12 danh hiệu,
mỗi danh hiệu
nói lên được đức
hạnh và trí hạnh của Phật. Vì thế, lòng
tin của chúng ta là tin nơi đức hạnh và
trí hạnh của một bậc tu chứng, chứ không phải tin nơi thần thông pháp thuật hay
ngồi thiền nhập định giỏi.
Chúng ta nên
đọc trở lại 12 danh hiệu đức hạnh
và trí hạnh của
Ngài để hiểu
rõ ý nghĩa đạo
đức của Phật
giáo thật là cao
thượng và tuyệt vời, nhưng vẫn ở trong tầm tay của mọi người, ai
cũng có thể sống được đức
hạnh này, chỉ cần có sự quyết tâm: “Vị
Thánh đệ tử có lòng tin ở sự
giác ngộ của
Như Lai, Ngài là bậc:
1- Như Lai; 2- Ứng
cúng; 3- A La
Hán; 4- Chánh Đẳng Giác;
5- Minh Hạnh Túc; 6- Thiện Thệ; 7- Thế
gian Giải; 8- Vô Thượng sĩ; 9- Điều
Ngự Trượng Phu; 10- Thiên Nhân Sư; 11- Phật; 12- Thế Tôn”.
Đạo Phật dạy
chúng ta
tin vào một sự có
thật, đó là đức hạnh. Đức hạnh là hành động sống không
làm khổ mình,
khổ người và khổ
tất cả
chúng sanh hằng
ngày của mỗi
con người.
Chúng tôi đã
giải thích nghĩa lý đức hạnh của mỗi danh
hiệu trong 12 danh
hiệu này để
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
các bạn
thông suốt mà đặt trọn vẹn lòng
tin với nền đạo đức nhân quả - nhân bản của Đạo Phật một
cách sâu xa và không bị
thối chuyển lòng tin ấy.
Sau khi
có được lòng tin thì chúng
ta tập tu pháp thứ hai. Pháp thứ
hai đó là phải tu tập tính xấu hổ. Một con người
không biết xấu hổ
là một
con thú vật các bạn
ạ! Các
bạn có thấy điều này không? Bởi
vì làm người mà không tu tập xấu hổ thì
sẽ lùi
lại làm con thú
vật. Nhờ có tính xấu
hổ mà con người
càng ngày càng tiến
hóa, tiến hoá
trên mọi mặt. Xấu hổ có
nhiều cách:
1/ Nghèo
thua kém người khác là xấu hổ.
2/ Làm ăn
thua người khác là xấu hổ.
3/ Học hành
không bằng bè bạn là xấu hổ. Những người biết xấu hổ
là những con
người biết vươn lên, biết làm
cho tốt hơn, biết cố gắng học tập
cho giỏi hơn, biết tự sửa mình làm cho có
đạo đức hơn. Cho nên,
tính xấu hổ là một đạo
đức cao đẹp giúp con người
vượt ra khỏi loài thú vật. Ở đây,
đức Phật lấy pháp xấu hổ làm pháp tu tập sửa mình để
thăng hoa đạo đức làm người. Cho
nên, Ngài dạy: “Vị này có lòng tàm, tự xấu
hổ vì thân ác hạnh, khẩu
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
ác hạnh, ý
ác hạnh, tự xấu hổ vì thành tựu
ác, bất thiện
pháp”.
Bài pháp thứ
hai này, đức Phật dạy chúng ta nên tự xấu hổ với những
hành động ác, tức
là hành
động của thân
làm khổ mình,
khổ người và khổ chúng sanh.
Ví dụ 1:
khi chúng ta lấy
tay, chân hay gậy, đá đánh người hoặc chó, gà, heo, dê,
lừa, ngựa, bò, trâu, v.v.. làm cho chúng đau khổ hay đến chết
thì chúng ta nên tự xấu hổ vì những hành
động độc ác đó.
Hành động ác
đó không phải là
hành động của một con
người thật người, hành động như vậy là
hành động của một
con thú vật. Ta
là con người thì ta
phải xấu hổ với những
hành động không xứng đáng là con
người. Con người là con người thì còn không làm khổ thú vật, huống là làm khổ
con người. Phải không các bạn? Cho nên đức Phật dạy: “Tự xấu hổ vì thân ác hạnh”. Xấu hổ vì hạnh ác của thân.
Người biết xấu hổ với hành động ác là
người biết chừa
bỏ, không hề
tái phạm lại những hành động ác đó nữa. Người ấy sẽ trở
thành người tốt,
người ra khỏi ác
pháp. Người ra khỏi ác
pháp là người
giải thoát mọi khổ
đau. Người giải thoát mọi khổ đau là người làm
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
chủ nhân quả
hay nói cách khác là người không làm khổ mình,
khổ người và tất cả chúng sanh.
Cho nên,
pháp môn tu tập xấu hổ trong mọi
hành động thân
ác hạnh là để ngăn
và diệt ác pháp một
cách tuyệt vời.
Khi chúng ta biết xấu hổ với
thân ác hạnh của mình
thì chúng ta cũng biết xấu hổ với khẩu ác hạnh của mình. Vậy khẩu ác hạnh là gì?
Khẩu ác hạnh là lời nói
ác, lời nói
hung dữ; khẩu ác hạnh còn có nghĩa là ăn, uống, hút, chích vào
thân những thực
phẩm độc ác như
tiết canh, óc khỉ, rượu,
thuốc lá, thuốc
lào, thuốc phiện, xì ke, ma túy, v.v.. Cho nên, khẩu ác hạnh có hai phần:
- Phần I: “Khẩu ác hạnh về lời nói”.
- Phần II: “Khẩu ác hạnh về ăn, uống,
hút, chích”.
I- Khẩu ác hạnh
về lời nói có tám:
1. Lời nói dối
2. Lời nói hung dữ
3. Lời nói xấu người
4. Lời nói vu khống người
5. Lời nói thêm bớt, lời nói thêu dệt
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
6. Lời nói lật lọng
7. Lời nói mỉa mai
8. Lời nói móc họng
II- Khẩu ác
hạnh về ăn uống có bốn:
1- Ăn thịt
chúng sanh
2- Ăn những
chất độc vào thân
3- Uống rượu,
uống máu tươi
4- Hút thuốc
lá, thuốc lào, thuốc phiện
Ví dụ 2: Hằng
ngày các bạn đều ăn thịt chúng sanh thì các
bạn phải khởi
tâm tự xấu hổ
và tư duy rằng: Mình
là con người;
con người là một
con vật thông minh
nhất trong các loài vật. Vậy cớ sao ta
lại hung ác nỡ tâm
ăn thịt
chúng sanh khi mọi loài vật đều muốn sống, sợ chết, sợ đau khổ như nhau. Thế
sao ta lại ỷ mạnh,
thông minh lại bắt giết
chúng ăn thịt. Thật
là vô đạo đức. Trên đời này một
người vô đạo đức là một con thú vật, chứ
không phải là con người nữa.
Người biết
xấu hổ là
người biết dừng những hành động ác. Phải không hỡi các
bạn? Người không biết xấu hổ với khẩu ác hạnh của mình là người càng
làm ác hơn.
Càng làm ác thì tội khổ càng nhiều hơn. Cho nên, xấu hổ
là
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
pháp môn
ngăn ác và diệt ác
pháp tuyệt vời. Vậy
các bạn hãy
nên tu tập
tính biết xấu hổ từng
hành động, việc
làm của các bạn
thì các bạn sẽ tìm thấy được chân hạnh
phúc.
Ăn những
chất độc vào
thân, uống rượu, hút
thuốc lá, thuốc
lào, thuốc phiện,
v.v.. Những hành động ăn, uống, hút này tự làm khổ thân mình
mà không biết.
Nhưng khi đã biết đó là khẩu ác hạnh thì phải tự biết xấu
hổ, nếu không biết xấu hổ là không phải con người. Người biết xấu
hổ mới chính
là con người như trên đã nói. Có phải vậy không các bạn?
Pháp môn thứ ba là
phải tu tập
tính sợ hãi tội lỗi do thân ác hạnh, khẩu ác hạnh và ý ác hạnh của
mình. Chính ba hành động ác này mang đến
cho chúng ta một đời
sống khổ
đau và đầy phiền não. Vì có sợ hãi những lỗi nhỏ nhặt do thân ác hạnh,
khẩu ác hạnh, ý ác hạnh thì chúng
ta mới ngăn
chặn và diệt chúng.
Vì thế, chúng ta sẽ không
phạm vào những
lỗi lầm lớn. Xét thấy tính sợ
hãi các lỗi lầm nhỏ nhặt
là một điều lợi
ích rất lớn cho cuộc
sống của mỗi người. Nó có tầm quan trọng như vậy, nên đức Phật dạy
pháp thứ ba cần phải tu tập đức
sợ hãi những
tính xấu của mình: “Vị
này có lòng quý, tự sợ hãi
vì thân ác hạnh,
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
khẩu ác hạnh, ý
ác hạnh, tự sợ hãi
vì
thành tựu ác, bất thiện pháp”.
Thưa các bạn!
Tính sợ hãi các lỗi lầm của mình không
phải là tính nhút
nhát sợ ma, sợ bóng tối, sợ rắn, sợ chuột, sợ sâu, bọ,
đỉa, sợ cô đơn, sợ sống
nơi thanh vắng một mình,
sống nơi nhà mồ, nghĩa địa, v.v.. Tính nhút
nhát là một tính xấu
cần phải được khắc
phục bằng tính gan dạ, can đảm,
dũng cảm, không
hề sợ hãi trước cảnh vắng vẻ cô
đơn nơi rừng sâu núi thẳm, trước mọi loài vật, mọi người hung ác, trước mọi
gian nan thử
thách. Nhưng tính sợ hãi
các lỗi lầm của mình
là một đức hạnh tốt. Một
đức hạnh cần phải được
rèn luyện và tu
tập để ngày ngày được phát triển đức sợ hãi những lỗi lầm của
mình càng to lớn hơn.
Nhờ học tập và
tu dưỡng đức sợ
hãi những lỗi lầm
của mình
mà mình sẽõ trở thành
những người thật là con
người. Những con người sau này sẽ trở thành những bậc Thánh nhân, bởi vì ngoài
con người mà đi tìm Thánh nhân thì không bao giờ có.
Con người có đạo đức không
làm khổ mình, khổ người và khổ tất
cả chúng sanh là Thánh nhân các bạn ạ!
Các bạn có nhận ra điều này không?
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
Từ khi đặt
trọn lòng tin nơi
Thánh Đức Minh Hạnh của đức Phật, chúng ta tận lực rèn luyện mình
trong hai đức hạnh đầu
tiên như trên Phật
đã nói: “Đức
biết xấu hổ
và Đức biết sợ
hãi những lỗi lầm
của mình”. Nhưng
trong cuộc sống,
phần nhiều chúng
ta còn đang sống trong vô minh,
trí tuệ của chúng ta còn u tối,
mê mờ, vì thế
làm sao thấy được những lỗi lầm của mình từ trong thân ác hạnh, khẩu ác hạnh và ý ác hạnh.
Cho nên, bài pháp thứ tư đức Phật dạy: chúng ta phải học nhiều, nghe nhiều,
phải tích tụ những điều
thiện đã học và
đã nghe được như đoạn
kinh dưới đây: “Vị này là
vị đa văn, nhớ
nghĩ những điều đã
nghe, tích tụ những điều
đã nghe. Những pháp nào sơ thiện,
trung thiện, hậu thiện, có văn nói
lên Phạm hạnh
hoàn toàn đầy đủ
thanh tịnh, những pháp như vậy, vị ấy nghe nhiều, thọ trì đọc tụng bằng lời được
trí suy tư, được chánh kiến thể nhập”.
Đọc đoạn
kinh trên đây, chúng ta thấy rõ ràng những
gì cần phải học
là chúng ta phải
học cho thấu suốt. Vậy muốn cho thấu suốt thì chúng
ta phải hiểu
nghĩa của đoạn kinh này một cách
tường tận. Ngay
như câu đầu đức
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Phật dạy:
“Vị này là vị đa
văn”. Thưa các bạn, đa văn nghĩa là gì?
Đa văn
có nghĩa là
trình độ hiểu biết (kiến thức). Trình độ
hiểu biết ở
đây không phải là
trình độ học thức
thế gian, học thức
kinh sách Đại Thừa
và Thiền Tông, mà
là trí thông minh, nghe, hiểu và tiếp nhận nghĩa lý thiện pháp cụ
thể rõ ràng. Người có trí tuệ hiểu biết
thiện pháp như vậy mới được
gọi là
Đa
Văn.
Khi đã có
trí tuệ như vậy
thì luôn luôn phải nhớ nghĩ những
điều thiện đã được nghe; thường lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong đầu những điều
nghe, thấy, hiểu về thiện
pháp. Nhờ đó, chúng
ta mới tích tụ được những
điều đã học mà
không bao giờ
quên. Vì thế, đức
Phật dạy chúng ta: “nhớ nghĩ những điều
đã nghe, tích tụ những điều đã
nghe”. Có học hỏi có tích tụ được
như vậy thì chúng ta mới thông suốt “Những pháp nào sơ thiện, trung thiện, hậu
thiện”. Pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện là như thế nào? Xin các bạn hãy đọc bộ sách Đạo Đức Làm Người, Mười
Giới Đức Thánh Sa Di, Một
Trăm Giới Đức
Làm Người và bộ Giới Đức
Thánh Tăng, Ni do
tu viện Chơn Như biên soạn thì
lúc bấy giờ các bạn sẽ
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
rõ Sơ thiện,
Trung thiện và Hậu thiện. Có hiểu biết những thiện pháp như vậy thì chúng ta sẽ
biết rõ
thân ác hạnh,
khẩu ác hạnh
và ý ác hạnh. Nhờ biết rõ ba hành động ác của
thân, khẩu, ý thì chúng ta ngăn và diệt chúng mới dễ dàng nên Phạm hạnh hoàn
toàn thanh tịnh. Phạm hạnh hoàn
toàn thanh tịnh
thì đó là hạnh phúc
nhất trần gian,
cho nên câu kinh dạy: “Có văn nói lên Phạm hạnh hoàn toàn
đầy đủ thanh tịnh”.
Có sự hiểu biết,
thấu suốt tất cả thiện pháp
như vậy và biết xấu hổ, sợ
hãi trước những lỗi lầm do những
ác hạnh của
mình thì bảo đảm chúng ta sẽ sống
một đời sống an vui và hạnh
phúc tuyệt vời.
Cho nên, ở
đây đức Phật khuyên chúng ta nên:
“Những pháp như vậy, vị ấy nghe nhiều,
thọ trì đọc tụng bằng lời được trí suy tư, được chánh kiến thể nhập”.
Các bạn nên
lưu ý cụm từ này: “Những pháp như vậy”.
Những pháp như
vậy là những pháp gì? Đó là pháp
Sơ thiện, Trung thiện, Hậu thiện. Khi rõ những pháp Sơ thiện, Trung thiện, Hậu
thiện rồi thì phải làm gì nữa? Ở
đây đức Phật dạy: “vị ấy nghe nhiều,
thọ trì đọc tụng bằng lời, được trí suy tư, được
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
chánh kiến
thể nhập”. Lời dạy
bảo của đức Phật:
“Phải nghe cho thật nhiều
những pháp thiện này”. Khi nghe rồi thì “phải thọ trì đọc tụng” có nghĩa là hằng ngày phải luôn luôn đọc đi đọc
lại nhiều lần những pháp thiện này
như các thầy Đại Thừa tụng kinh, niệm Phật vậy. Mỗi câu mỗi lời dạy đều phải được “Trí suy tư” nhiều
lần cho thâm nhập
được đầy đủ ý
nghĩa thiện pháp
này, cho đến khi nào
gặp các ác
pháp đều được “chánh
kiến thể nhập”, thì lúc
bấy giờ tâm
chúng ta mới bất động trước các ác pháp, bất thiện
pháp.
Khi đã chánh tri kiến thể nhập vào thiện pháp thì
chúng ta phải siêng năng tinh cần hằng ngày trừ bỏ các pháp bất thiện, thành tựu
các thiện pháp.
Khi thành tựu các
thiện pháp cũng giống như chúng
ta đuổi giặc ra khỏi biên cương. Nhưng
muốn giữ gìn đất nước
thì phải xây dựng và phát triển nền kinh tế cho giàu mạnh thì đất
nước mới thịnh
vượng và nhân dân
mới an cư lạc nghiệp. Cũng
vậy, người tu theo
pháp thiện của Phật thì phải
siêng năng tinh cần loại
trừ các pháp bất thiện.
Khi loại trừ các pháp bất thiện thì phải giữ gìn thiện pháp. Muốn giữ gìn thiện pháp thì phải
nỗ lực kiên trì không từ bỏ
gánh nặng đối với các
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
thiện pháp.
Vì thế, câu
này đức Phật dạy rất hay:
“Không từ bỏ
gánh nặng đối với
các thiện pháp”. Chúng
tôi xin nêu ra
một vài
ví dụ để các bạn dễ hiểu nghĩa không từ bỏ gánh nặng đối với các
thiện pháp.
Ví dụ 1: Ăn
uống ngày một bữa mà từ năm này đến năm
khác không bao giờ
ăn uống phi thời.
Đó là không
từ bỏ gánh nặng đối với
thiện pháp.
Ví dụ 2:
Không ăn
thịt chúng sanh tức
là ăn trường chay, dù có bệnh đau
đến chết, dù có sự bắt buộc nào, dù có
hoàn cảnh như thế nào nhất định
không bao giờ ăn thịt chúng
sanh, thì đó là không
từ bỏ gánh nặng đối với thiện pháp.
Ví dụ 3: Người
không ngủ nghỉ phi thời dù cho hoàn cảnh nào
cũng nhất định không
ngủ nghỉ phi thời;
bằng mọi cách cố gắng nỗ lực kiên trì phá vỡ hôn trầm, thùy miên vô
ký. Đó là người không từ bỏ gánh nặng đối với thiện pháp.
Ví dụ 4: Một
người nghiện ngập thuốc lá, rượu, thuốc lào, thuốc phiện, v.v.., họ cố gắng
kiên trì nỗ lực để cai
nghiện những loại độc
dược này và suốt đời không còn uống rượu,
hút
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
thuốc lá,
thuốc lào, thuốc
phiện nữa. Đó là
những người không
từ bỏ gánh nặng đối với
thiện pháp.
Cho nên, lời
dạy này có một giá trị rất lớn đối với những người tu theo Phật giáo, chúng ta
phải nhớ
lời dạy này mãi
mãi: “Vị ấy sống
tinh cần, tinh tấn, trừ bỏ
các pháp bất thiện, thành tựu các
thiện pháp, nỗ lực, kiên
trì, không từ bỏ gánh nặng
đối với các thiện
pháp”. Chúng ta khẳng định
câu này có một
giá trị rất lớn đối với
những ai đi tìm con đường thoát
khổ. Xét qua lời dạy này, chúng ta
nhìn lại chúng
trong tu viện
Chơn Như thì thấy rất
rõ ràng. Trong
những ngày đầu, mới tới
ở trong tu viện
Chơn Như thì còn giữ được thiện pháp,
nhưng dần dần về sau họ đã
từ bỏ gánh nặng thiện
pháp ăn ngủ
phi thời, lại thêm phá hạnh độc cư, làm những việc thầm lén tội lỗi
mà không thấy.
Bởi vậy, tu như
họ làm sao đạt
được cứu cánh rốt
ráo. Tu để mà
có tu, chứ
gánh nặng thiện
pháp họ đã từ bỏ rồi.
Thưa các bạn!
Gánh nặng thiện pháp mà đức Phật dùng ở
đây có ý nghĩa rất là tuyệt vời. Phải không hỡi các bạn? Chỉ
có bốn từ “Gánh Nặng Thiện Pháp”, vậy mà không có ai gánh
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
nổi thật là
đau lòng cho thời đại mạt pháp này, tâm đời
thì không muốn bỏ mà lại muốn thêm tâm
đạo, thật là
tham lam vô độ. Như vậy,
muốn chấn chỉnh lại Phật Pháp chúng tôi còn biết trông cậy vào ai!!!
Trong thời đại
của chúng ta, ai là người không bỏ gánh nặng thiện pháp? Thật khó mà tìm những bậc
này. Nói thiện
pháp thì dễ, bỏ gánh thiện pháp thì dễ, nhưng
làm được, gánh được thiện
pháp thì không phải
là chuyện dễ. Cho
nên, ai làm được, gánh
được thiện pháp đều là những bậc
Thánh nhân, dù bất cứ ở thời gian nào
quá khứ, vị lai và hiện tại.
Thưa các bạn!
Pháp của
Phật chỉ là thiện
pháp, không có
pháp gì huyền bí cao
siêu cả, không có thần thông
phép thuật gì cả,
chỉ có đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh mà thôi. Không
làm khổ mình, khổ người và khổ chúng
sanh là giải thoát
các bạn ạ! Chứng đạo là ngay ở chỗ đó, chứ đâu cần tìm ở đâu
xa. Cực Lạc,
Thiên Đàng, Niết
Bàn, Phạm thể cũng từ nơi
đó. Đây các bạn hãy nghe
lời nói này của đức
Phật dạy: “Vị ấy
không tự hành khổ mình, không hành khổ
người, ngay trong
hiện tại không tham
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
dục, tịch tịnh,
cảm thấy mát lạnh, cảm thấy lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể”.
Khi chúng ta
không bỏ gánh nặng thiện pháp thì
lúc bây
giờ tâm chúng
ta có niệm không phóng dật, bởi vì niệm không phóng
dật là niệm toàn
thiện. Vì thế, đức Phật dạy: “Vị ấy có niệm”. Chữ niệm ở đây cô đọng quá, nếu không phải
là hành giả
tu xong thì không bao giờ hiểu được chữ niệm này. Niệm tức là
niệm không phóng dật
như trên chúng
tôi đã nói. Khi tâm có niệm không phóng dật, thì
ngay lúc bấy giờ chúng ta thành tựu niệm tuệ tối thắng tức là trí nhớ vô cùng tận,
không có một điều gì ở quá khứ mà không
nhớ, nên đức Phật dạy: “Thành tựu niệm
tuệ tối thắng, nhớ lại,
nhớ lại nhiều lần những gì đã làm từ lâu, đã nói từ lâu”.
Khi tu tập đến đây niệm tuệ tối thắng xuất hiện thì mới bắt đầu có trí tuệ. Ở đây xin các bạn lưu ý: Niệm tuệ tối thắng
chưa phải là trí tuệ, khi chúng ta
tu tập nó sẽ tiếp tục nhớ lại nhiều lần những gì đã làm từ lâu, đã nói từ lâu. Từ sự
tu tập đó
ta mới có trí
tuệ, nên
đức Phật dạy: “Vị ấy có trí
tuệ”. Khi có trí tuệ ta tiếp tục tu tập
rèn luyện để thành tựu trí tuệ về sanh
diệt, trí tuệ thành tựu nhập Thánh
thể
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP I
tức là Niết Bàn,
đưa đến đoạn tận khổ
đau. Ở đoạn kinh này khiến
cho các nhà
học giả không thể hiểu được và
cũng không thế
nào kiến giải và tưởng
giải được. Khi giảng đến đoạn kinh này họ chỉ lý luận loanh quanh. Xin các bạn
vui lòng đọc lại đoạn kinh này, rồi chúng
tôi sẽ hướng
dẫn các bạn
tu tập thì các bạn
sẽ hiểu rõ
hơn: “Thành tựu
trí tuệ về sanh diệt,
thành tựu Thánh thể nhập đưa đến đoạn tận khổ đau”.
Thành tựu
trí tuệ về sanh
diệt, câu này nghĩa là gì?
Câu này
chỉ là một lời nói nhắc
nhở chúng ta
tu tập có trí
tuệ thì phải thành tựu
trí tuệ về sống
chết tức là trí
tuệ Lậu
Tận Minh, chứ không phải
có trí tuệ nhớ lại nhiều đời nhiều kiếp mà thôi. Muốn thành tựu
trí tuệ về sự sống
chết thì phải dùng
năng lực Trạch Pháp
Giác Chi mà dẫn trí tuệ
về sanh tử, về
Bát Thánh Đạo, về nhân quả. Khi thành tựu trí tuệ về
sanh tử xong
thì tiếp tục dùng
Trạch Pháp Giác Chi dẫn trí tuệ nhập vào Thánh thể (Niết Bàn) để hoàn
toàn đoạn tận khổ đau.
Trên đây là
phương pháp tu tập để thực hiện trí tuệ Tam Minh. Và đây là phương pháp cuối cùng
trong bảy pháp
tu tập trong
Đạo Phật. Cho nên đức Phật kết luận
bài pháp này
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
bằng câu:
“Này Mahanama, như vậy, vị
Thánh đệ tử
thành tựu bảy diệu pháp”.
Tóm lại, bảy
pháp trên đây, nếu chúng ta biết cách tu tập cho đúng, thì con
đường giải thoát của Phật giáo không còn bí ẩn và không còn khó khăn nữa. Phải
không hỡi các bạn?
HẠNH ĐỨC VÀ
TRÍ ĐỨC
LỜI PHẬT DẠY
HẠNH ĐỨC
“Này
Mahanama!
1- Vị Thánh đệ
tử nào thành tựu giới hạnh, như vậy thuộc về Hạnh Đức
của vị ấy.
2- Vị Thánh đệ
tử nào hộ
trì các căn, như vậy thuộc về Hạnh Đức của vị ấy.
3- Vị Thánh đệ
tử nào có tiết độ trong
ăn uống, như vậy thuộc
về Hạnh Đức của vị ấy.
4- Vị Thánh
đệ tử nào chú tâm cảnh giác, như vậy thuộc về Hạnh Đức của vị
ấy.
5- Vị Thánh đệ
tử nào đầy đủ bảy diệu pháp, như vậy thuộc về Hạnh Dức của
vị ấy.
6- Vị Thánh
đệ tử
nào hiện tại lạc trú
bốn thiền, thuộc tăng
thượng tâm, chứng đắc
không khó khăn, chứng
đắc không mệt nhọc, chứng đắc
không phí
sức, như vậy thuộc
về Hạnh Đức của vị
ấy.
TRÍ ĐỨC
7- Vị Thánh
đệ tử
nào nhớ đến
các đời sống quá khứ sai biệt, như một
đời, hai đời... cùng với các nét đại
cương và các chi tiết,
như vậy thuộc
về Trí Đức của vị ấy.
8- Vị
Thánh đệ tử
nào với thiên nhãn
thuần tịnh, siêu
nhân, thấy sự sống chết của chúng
sanh. Vị ấy biết
rõ rằng chúng sanh người
hạ liệt kẻ cao sang,
người đẹp đẽ kẻ
thô xấu, người may
mắn kẻ bất hạnh...
đều do hạnh nghiệp của chúng,
như vậy thuộc
về Trí Đức của vị ấy.
9- Vị Thánh
đệ tử
nào với sự đoạn
tận các
lậu hoặc, tự
mình ngay trong hiện tại với thắng
trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú
ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát như vậy thuộc về Trí Đức của vị ấy.
Như vậy này Mahanama, vị Thánh đệ
tử được gọi là Minh cụ túc, Hạnh cụ
túc, Minh Hạnh
Cụ Túc”.
(Kinh
Trung Bộ, tập 2, trang 47, 48)
CHÚ GIẢI:
Lúc bấy giờ đức Phật chia
pháp môn của mình ra làm hai phần:
- Phần thứ
nhất là Hạnh Đức.
- Phần thứ
hai là Trí Đức.
Vậy Hạnh Đức
nghĩa là gì? Hạnh Đức là những hành động thân, miệng không làm khổ mình, khổ người, gồm có những pháp sau đây:
HẠNH ĐỨC
1- Giới hạnh:
Người tu
sĩ và người
cư sĩ nào tìm về tu viện Chơn Như tu tập và giữ gìn giới hạnh
nghiêm chỉnh, không
hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào.
Đó là vị ấy đã thể hiện Hạnh Đức của mình,
như lời đức Phật
đã dạy: “Vị Thánh
đệ tử nào
thành tựu giới hạnh,
như vậy thuộc về Hạnh Đức của vị ấy”.
Như vậy giới luật là “Hạnh Đức” của
người tu sĩ và người
cư sĩ. Xin các bạn nên
ghi nhớ: Người tu
sĩ và người
cư sĩ nào phạm
giới, phá giới là những người
không có Hạnh Đức.
2- Hộ trì các căn: Người tu sĩ và người cư
sĩ nào
tìm về tu viện
Chơn Như tu tập
và biết hộ trì các
căn: mắt, tai, mũi,
miệng, thân, ý,
làm cho
nó không dính
mắc sáu trần:
sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp tức là sống độc cư
trọn vẹn, không hề
phá hạnh độc cư
thì người ấy đang thể hiện Hạnh
Đức của
mình như đức Phật đã dạy: “Vị Thánh đệ tử nào hộ trì
các căn, như vậy
thuộc về Hạnh Đức của vị
ấy”. Ở
đây, phần đông
tu sĩ và cư
sĩ về
Chơn Như tu tập, đều phá hạnh độc
cư, thích đi nói chuyện.
Cho nên, những
người tu sĩ
và cư sĩ này không
có hạnh đức,
vì thế họ
tu hành chẳng tới đâu, chỉ tu
hành cho có hình thức.
3- Tiết độ
trong ăn uống: Người tu sĩ và nguời cư
sĩ nào đã tìm về tu viện Chơn Như tu tập mà biết tiết độ trong ăn uống, có
nghĩa là không ăn uống
phi thời, chỉ
ăn ngày một bữa.
Đó là người đang thể hiện Hạnh Đức của mình như đức Phật đã dạy: “Vị Thánh đệ tử
nào có tiết độ trong
ăn uống, như vậy thuộc
về Hạnh Đức của vị ấy”.
Ăn ngày một bữa tuy vậy cũng không phải dễ các bạn ạ! Cho nên,
họ vừa ra khỏi cổng
chùa là đã
ăn uống phi thời.
Cho nên, Hạnh Đức về ăn uống không phải dễ, đối với
những người còn
mang đầy ắp
thân kiến, sợ thân bệnh, sợ thân chết, v.v.. Xin các bạn lưu
ý: Muốn tìm sự
tu tập để được
giải thoát thì ăn uống
là Hạnh Đức rất cần thiết
cho các bạn.
Các bạn ăn uống phi thời thì công phu tu
tập của các bạn chỉ hoài công vô ích.
4- Chú tâm cảnh
giác: Người tu sĩ và cư sĩ nào biết chú tâm cảnh giác từng tâm niệm, từng đối tượng của mình để
ngăn và diệt
các pháp ác, đó là người đang thể hiện Hạnh Đức của mình như đức
Phật đã dạy: “Vị Thánh
đệ tử nào chú
tâm cảnh giác,
như vậy thuộc về Hạnh Đức của vị ấy”.
Thưa các bạn!
Chú tâm cảnh giác là một pháp môn tuyệt
vời, nhưng các bạn
có biết
nó là pháp môn gì không? Đó là Định Vô Lậu trên Tứ Niệm Xứ. Định Vô Lậu
trên Tứ Niệm Xứ là Hạnh Đức của vị tu sĩ và của vị cư sĩ, vì vậy nó là một Hạnh
Đức rất
quan trọng trong
sự tu tập đi đến cứu cánh hoàn
toàn.
5- Đầy đủ bảy diệu pháp: Người tu sĩ và cư
sĩ nào
đã tu tập đầy đủ bảy diệu pháp,
như bảy diệu pháp mà chúng tôi đã
giảng ở một bài trước, trong tập
sách này (xin các bạn vui lòng đọc lại), thì người
ấy đang thể hiện Hạnh
Đức của mình như đức Phật đã
dạy: “Vị Thánh đệ tử
nào đầy đủ bảy diệu
pháp, như vậy thuộc
về Hạnh Đức của vị ấy”. Bảy
diệu pháp là bảy phương pháp tu tập để thực hiện Hạnh Đức của một tu
sĩ và
của một cư sĩ
Phật
giáo xứng
đáng là đệ tử của đức Phật.
Xin các lưu ý cho.
6- Hiện tại lạc
trú Bốn thiền: Người tu sĩ
và người cư sĩ
nào đã tu tập đầy đủ thiện pháp thì nhập Hiện Tại Lạc Trú Bốn Thiền
không có
khó khăn và mệt nhọc,
là người ấy đang thể hiện “Hạnh Đức” của
mình, như đức Phật đã dạy:
“Vị Thánh đệ tử nào hiện
tại lạc trú bốn
thiền, thuộc tăng thượng tâm, chứng đắc không khó
khăn, chứng đắc không mệt nhọc,
chứng đắc không phí sức, như vậy thuộc
về Hạnh Đức của vị ấy”.
Hiện tại lạc trú Bốn Thiền là
phương pháp tu tập để thực hiện Hạnh
Đức của người tu sĩ và của người cư sĩ Phật giáo. Nhờ có hạnh đức này mới xứng
đáng là đệ tử của đức Phật.
Xin các lưu ý cho.
TRÍ ĐỨC
Vậy Trí Đức nghĩa là gì? Trí Đức là những hành động
tâm ý thức
không làm khổ
mình, khổ người, gồm có những pháp sau đây:
7- Nhớ đến
các đời sống quá khứ sai biệt, như một đời, hai
đời và nhiều đời... Người tu sĩ
và người cư sĩ
nào thể hiện
được tâm thức (thức
uẩn) nhớ đến nhiều đời,
nhiều
kiếp của
mình trong quá khứ, là người ấy đang thể hiện
“Trí Hạnh2” Túc
Mạng Minh của mình,
như đức Phật đã dạy:
“Vị Thánh đệ tử
nào nhớ đến các đời sống quá khứ sai biệt, như
một đời, hai đời
... cùng với
các nét đại cương và các chi tiết,
như vậy thuộc về Trí Đức của vị ấy”. Ở
đây, chúng ta cần phải phân biệt cho rõ ràng. Trong thân chúng
ta có ba thức để hiểu biết, suy tư và ghi nhớ nghĩ:
1. Ý
thức thuộc về sắc uẩn,
có sự ghi nhớ, nhớ lại, suy tư và hiểu biết, nhưng
bị hạn cuộc trong không gian và thời gian.
2. Tưởng thức thuộc về tưởng uẩn có sự tưởng nghĩ,
ghi nhớ, nhớ lại không
bị không gian và thời gian hạn cuộc,
nhưng không được vô tận.
3. Tâm thức thuộc về thức uẩn có sự ghi nhớ, nhớ lại vô
cùng tận không
bị không gian
và thời gian
hạn cuộc. Trí Đức thứ nhất là Túc
2 -Trí Hạnh là
hành động của
Trí Đức, nên ở đây là
chỉ cho hành động Túc Mạng
Minh, chứ không phải là
Tam Minh, nhưng phải
hiểu Trí Hạnh là một hành động
trong Trí Đức, không thể gọi Trí Đức là Túc Mạng Minh được, mà phải gọi Trí Đức
là Tam minh
thì mới đúng nghĩa.
Mạng Minh do tâm
thức ghi nhớ lại nhiều
đời nhiều kiếp của mình.
Người tu
sĩ và người
cư sĩ nào thể hiện
thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết
rõ rằng chúng sanh người hạ liệt,
kẻ cao sang, người đẹp đẽ,
kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh... đều do hạnh nghiệp
của chúng, là người ấy
đang thể hiện “Trí Hạnh” Thiên Nhãn Minh của mình. Như đức Phật đã dạy: “Vị
Thánh đệ tử nào với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống
chết của chúng
sanh. Vị ấy biết rõ rằng
chúng sanh người
hạ liệt kẻ cao sang, người
đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may
mắn kẻ bất hạnh...
đều do hạnh nghiệp của chúng,
như vậy thuộc
về Trí Đức của vị ấy”.
Người tu sĩ
và người cư sĩ nào thể hiện với sự đoạn
tận các
lậu hoặc, tự
mình ngay trong hiện tại với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt
và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát là người ấy đang thể hiện
“Trí Hạnh” Lậu Tận Minh của mình. Như Đức đã dạy: “Vị
Thánh đệ tử nào với sự đoạn tận các lậu hoặc, tự mình ngay
trong hiện tại với thắng
trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm
giải thoát,
tuệ giải thoát như vậy thuộc về
Trí Đức của
vị ấy”.
Tóm lại,
đoạn kinh này đức Phật đã xác
định cho chúng ta thấy rằng Phật
giáo chỉ là một con đường đạo đức
dạy làm Người, làm Thánh chứ không có gì là thiền định huyền bí, cao siêu, vi diệu,
thần thông, pháp
thuật siêu việt như mọi người
nghĩ tưởng. Đạo Phật cũng không chấp nhận và cũng không nương tựa vào Thần,
Thánh, Tiên, Phật hoặc Bồ Tát, tà ma, quỷ
quái để cầu cạnh, van xin,
cúng bái, tế lễ,
v.v.. mà
chỉ là những
Đức Hạnh, Trí Hạnh
sống hằng ngày của mỗi
con người, ai cũng
có thể tu tập được, rất thực tế
và cụ thể.
Những Đức Hạnh, Trí Hạnh ấy
giúp cho loài người
có một đời sống an vui và hạnh
phúc. Những Đức Hạnh và Trí Hạnh đó được
gọi bằng
những danh từ rất
tuyệt hảo: “Minh Cụ Túc,
Hạnh Cụ Túc, Minh Hạnh Cụ Túc”.
Để kết
thúc đoạn kinh này, đức Phật đã chỉ thẳng giáo pháp của Ngài là nền đạo đức
bằng trí tuệ của loài người: “Như vậy này Mahanama, vị
Thánh đệ tử được gọi
là Minh Cụ Túc, Hạnh Cụ Túc,
Minh Hạnh
Cụ Túc”.
KINH BÁT
THÀNH
LỜI PHẬT DẠY
“Bạch Tôn Giả
Ananda, có pháp độc nhất gì do Thế Tôn, bậc Trí Giả, Kiến Giả, bậc
A La Hán,
Chánh Đẳng Giác tuyên bố, nếu có
Tỳ Kheo nào không phóng dật, nhiệt
tâm tinh cần sống
hành trì pháp ấy, thời
tâm chưa giải thoát của vị ấy được giải thoát, hay
các lậu hoặc chưa
được đoạn trừ,
đi đến đoạn trừ, hay
pháp an ổn khỏi
các ách phược, chưa được chứng đạt được chứng
đạt?”.
CHÚ GIẢI:
Đoạn kinh trên
đây do gia chủ Dasama hỏi
Tôn Giả Ananda
có một pháp
gì độc nhất của đức Phật được tu
tập để đi đến kết quả giải thoát hoàn
toàn chấm dứt tái sinh luân hồi không?
Như các bạn
đã biết, pháp của Phật có rất nhiều,
có đến ba mươi bảy pháp môn tu
tập từ thấp đến
cao. Thế mà, gia chủ Dasama lại
hỏi có một pháp độc nhất nào chỉ
tu tập pháp này sẽ đi đến cứu cánh, thì biết trả lời làm
sao các bạn nhỉ? Nhưng ông Ananda
đã thay đức Phật
trả lời
câu hỏi này:
“Không phải chỉ có
một pháp độc nhất mà có đến cả tám pháp độc nhất, pháp nào cũng tu tập
đi đến kết quả giải thoát
rốt ráo”. Cho nên,
bài kinh này được lấy tên
là Kinh Bát Thành
trong Trung Bộ Kinh, tập II,
trang 30.
Nhưng kinh Bát
Thành này đã bị người sau thêm vào Bốn Định Vô
Sắc. Bốn Định Vô Sắc là bốn loại định tưởng. Bốn loại
định tưởng thì không thể nào tu tập đi đến rốt ráo được, vì chính đức Phật đã nhập các loại định tưởng này còn phải bỏ
mà trở về
tu tập Bốn Định
Hữu Sắc mới thấy được sự giải thoát làm chủ sanh, tử chấm dứt luân hồi.
Bốn loại định
vô sắc này được cộng chung lại với tám pháp đầu tiên là 12 pháp, như vậy
bài kinh này đúng
ra phải có tên
là “Thập Nhị Thành”
chứ đâu gọi
là “Bát Thành” được. Đó là cái sai thứ nhất trong
bài kinh này, do các vị Tổ Sư kết tập kinh.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Cái sai thứ
hai là đoạn kết của bài kinh này: “Bạch Tôn Giả Ananda, như người tìm một kho
tàng cất dấu,
trong lúc tìm được
11 kho tàng
cất dấu. Cũng vậy bạch Tôn Giả, như ngôi
nhà người ta có đến 11 cửa, khi ngôi nhà bị cháy, thì chỉ do một cửa người ta cũng có thể thoát ra một cách an toàn. Cũng vậy, bạch Tôn Giả, chỉ
với một cửa bất tử trong 11 cửa bất tử
này, con có thể đạt được sự an toàn cho
con”.
Tựa kinh đề là
“Bát Thành” mà kết
luận là “Thập Nhất Thành”,
còn trong bài kinh này thì nêu ra 12 pháp tu tập. Kinh viết như vậy có
nhất quán không?
Các bạn nghĩ
sao về những việc làm của các bậc tôn
túc ngày xưa? Họ có thấy khi kết
tập kinh sách Phật
là một trách nhiệm với Đạo Phật và con người đời sau không?
Trong một
bài kinh Nguyên Thủy
mà còn thêm bớt, làm sai lệch như
thế này thì cả tạng kinh Nguyên Thủy hiện
có hẳn phải
còn sai biết bao nhiêu lần trong ấy.
Như thế, kinh sách Đại Thừa là
kinh phát triển làm
sao chúng ta tin được. Phải không
hỡi các bạn? Cho nên, đức Phật bảo: “Đừng có tin kinh tạng...”. Vậy mà các bạn
cứ gặp bài kinh nào nói Phật thuyết là
các bạn
tin ngay, tin một cách
mù quáng, mê mờ,
bị lừa đảo
mà không biết.
Thật đáng thương cho các bạn.
Qua kinh
nghiệm tu hành, chúng tôi xét thấy
trong bài kinh này
có nêu ra tám
pháp môn độc nhất tu tập đi đến cứu cánh hoàn toàn là đúng lời dạy
của đức Phật.
Tám pháp này gồm có:
THỨ NHẤT: SƠ
THIỀN LÀ PHÁP
ĐỘC NHẤT
TRONG KINH BÁT THÀNH
S Ơ THI
Ề N
“Sơ Thiền
này là pháp hữu
vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư
tác thành, thời sự vật
ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt”. Vị ấy vững
trú ở đây
đoạn trừ được các lậu
hoặc. Và
nếu các lậu hoặc chưa
được đoạn trừ, do tham
luyến pháp này,
do hoan hỷ pháp
này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được
hóa sanh, nhập Niết Bàn tại cảnh
giới ấy, khỏi phải
trở lui đời này.
Này Gia chủ như vậy
là pháp độc nhất,
do Thế Tôn, bậc Trí Giả, Kiến Giả, bậc A La Hán, Chánh
Đẳng Giác
tuyên bố ...”.
CHÚ GIẢI:
Đây là
pháp độc nhất
thứ nhất trong
tám pháp,
các bạn nên
lưu ý đó
là Sơ Thiền. Cho nên, chỉ cần nhắm
vào Thiền thứ nhất mà tu tập để tâm bạn
hoàn toàn ly dục ly ác pháp. Các bạn không
cần phải thay đổi pháp
môn nào khác, vì
nó là pháp độc nhất
đi đến cứu cánh. Nhớ lại năm xưa, chúng tôi cũng từ
pháp môn này mà
đi đến rốt
ráo. Vì lúc bấy giờ, chúng
tôi không được
ai hướng dẫn,
nên chỉ biết như lý tác ý ly dục
ly ác pháp và cuối cùng, chúng tôi viên mãn
công đức tu hành với pháp độc nhất
Sơ Thiền này.
THỨ HAI: NHỊ
THIỀN LÀ PHÁP
ĐỘC NHẤT
TRONG KINH BÁT THÀNH
NHỊ THIỀ N
“Thiền thứ hai này là pháp hữu
vi, do suy tư tác thành. Phàm
sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời
sự vật ấy là
vô thường chịu sự đoạn
diệt”. Vị ấy vững trú ở đây đoạn trừ được
các lậu hoặc. Và nếu các
lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan
hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được
năm hạ phần kiết sử, được
hóa sanh, nhập Niết Bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này.
Này Gia chủ
như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Trí Giả, Kiến Giả, Bậc A La
Hán, Chánh Đẳng
Giác tuyên
bố ...”.
CHÚ GIẢI:
Khi Sơ Thiền
đã nhập được
thì Nhị
Thiền không
còn có khó
khăn nữa. Ở
đây, chúng ta phải
hiểu pháp môn Nhị Thiền
mà đức Phật gọi là pháp môn độc nhất. Độc nhất ở đây không
có nghĩa là duy
nhất có
một pháp này tu từ đầu đến cuối
mà thành tựu đạo giải thoát. Nếu giới luật
chưa nghiêm chỉnh thì các bạn phải biết mình còn phải tu bao nhiêu pháp nữa thì giới
luật mới được
nghiêm chỉnh. Khi giới
luật được nghiêm chỉnh,
lúc bấy giờ
các bạn mới ôm một pháp độc nhất này. Cho nên, độc nhất ở đây
là một trạng
thái thân tâm thanh
tịnh trong giới
luật. Các bạn
có hiểu chưa? Vì tâm
có nghiêm chỉnh
trong giới luật thì pháp Như Lý Tác Ý mới có hiệu quả.
THỨ BA: TAM
THIỀN LÀ PHÁP
ĐỘC NHẤT
TRONG KINH BÁT THÀNH
TAM THIỀ N
“Tam Thiền này là
pháp hữu vi, do suy tư tác thành.
Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy
tư tác
thành, thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt”. Vị ấy
vững trú
ở đây đoạn
trừ được các lậu hoặc.
Và nếu các lậu hoặc
chưa được đoạn trừ, do
tham luyến pháp
này, do hoan hỷ
pháp này, vị ấy đoạn
trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết
Bàn tại cảnh
giới ấy, khỏi phải trở lui đời này.
Này Gia chủ
như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Trí Giả, Kiến Giả, Bậc A La
Hán, Chánh Đẳng
Giác tuyên
bố ...”.
CHÚ GIẢI:
Ở đây, các bạn
nên lưu ý đoạn kinh này:
“Vị ấy vững trú ở đây
đoạn trừ được các lậu
hoặc”. Vững trú có nghĩa là giữ gìn tâm ở trong trạng thái Sơ Thiền, Nhị
Thiền, Tam Thiền, v.v.. Bất cứ các bạn ở một trong
tám trạng thái này,
tiếp tục đoạn trừ
các lậu hoặc, nếu đoạn trừ xong thì các bạn liền chứng
quả A La Hán, chứ không phải còn tu tập pháp môn nào nữa.
THỨ TƯ: TỨ
THIỀN LÀ PHÁP
ĐỘC NHẤT TRONG
KINH BÁT THÀNH
TỨ THIỀ N
“Tứ Thiền
này là
pháp hữu vi, do
suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư
tác thành, thời sự vật
ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt”. Vị ấy vững
trú ở đây
đoạn trừ được các lậu
hoặc. Và
nếu các lậu hoặc chưa
được đoạn trừ, do tham
luyến pháp này,
do hoan hỷ pháp
này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được
hóa sanh, nhập Niết Bàn tại cảnh
giới ấy, khỏi phải trở lui đời này.
Này Gia chủ,
như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Trí Giả, Kiến Giả, Bậc A La
Hán, Chánh Đẳng
Giác tuyên
bố ...”.
CHÚ GIẢI:
Ở đây,
các bạn nên
lưu ý ở đoạn
kinh
này:
“Và nếu
các lậu hoặc
chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp
này, do hoan hỷ pháp
này”. Do tham luyến và
hoan hỷ trạng thái pháp này nên lậu
hoặc chưa đoạn trừ được. Trong trạng thái Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ
Thiền, v.v.. đều có trạng thái hỷ lạc, khinh an
khiến cho hành giả
thích thú quên ăn,
quên ngủ, quên tất cả.
Do tâm còn
ham thích nên lậu hoặc diệt không
sạch mặc dù trạng
thái khinh an, hỷ lạc
đó do ly dục và
định sanh. Pháp ly dục và định là pháp hữu vi nên các
pháp đó đều
vô thường chịu sự đoạn diệt. Các bạn hãy đọc lại đoạn kinh này
thì rõ: “Tứ Thiền này là pháp hữu
vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư
tác thành, thời sự vật ấy
là vô thường chịu sự đoạn
diệt”.
Cho nên,
các bạn còn
ham thích trạng thái của pháp ấy nên lậu hoặc không thể đoạn trừ được.
Chính thích thú trạng thái ấy là lậu hoặc.
Khi gặp bất cứ một trạng
thái nào dù đúng
hay sai các bạn cũng
nên xả bỏ thì
lậu hoặc mới đoạn trừ tận gốc.
THỨ NĂM: TỪ
TÂM LÀ PHÁP
ĐỘC NHẤT
TRONG KINH BÁT THÀNH
TỪ TÂM
“Từ tâm này là
pháp hữu vi, do suy tư tác
thành. Phàm sự vật gì
là pháp hữu vi, do suy tư
tác thành, thời sự vật
ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt”. Vị ấy vững
trú ở đây
đoạn trừ được các lậu
hoặc. Và
nếu các lậu hoặc chưa
được đoạn trừ, do tham
luyến pháp này,
do hoan hỷ pháp
này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được
hóa sanh, nhập Niết Bàn tại cảnh
giới ấy, khỏi phải trở lui đời này.
Này Gia chủ
như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Trí Giả, Kiến Giả, bậc A La
Hán, Chánh Đẳng
Giác tuyên
bố ...”.
CHÚ GIẢI:
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!