Đến tri kiến
giải thoát thứ sáu,
chúng ta
hãy lắng
nghe đức Phật dạy: “Tri
kiến giải
thoát thứ sáu: Và này, các tỳ- kheo, như
thế nào là tỳ-kheo không biết chỗ nước có thể lội qua? Ở đây,
này các tỳ-kheo, tỳ-kheo thỉnh thoảng có đến
gặp những tỳ-kheo
đa văn được
trao cho truyền thống giáo
điển, những bậc trì Pháp, trì Luật, trì matika (các bản tóm
tắt) nhưng không
hỏi, không trả lời
các vị ấy:
“Thưa Tôn giả,
điểm này là thế nào? ý nghĩa này
là gì?”. Những bậc Tôn giả ấy không làm cho hiển lộ những điều chưa
hiển lộ, không
làm cho rõ ràng
những điều chưa được
rõ ràng, và đối
với những nghi vấn
về Chánh pháp, các vị ấy không
đoạn trừ nghi vấn. Như vậy, tỳ-kheo
không biết chỗ nước có thể lội
qua”.
Tri kiến giải thoát thứ sáu là tri kiến giải trừ
mọi tâm nghi ngờ nó giúp cho mọi người
không còn nghi
ngờ Chánh pháp của
Phật.
Đạo Phật dạy tu tập sẽ
làm chủ bốn sự
đau khổ: SINH,
GIÀ, BỆNH, CHẾT, nhưng
có người không
tin cho rằng lời dạy
này là lường gạt
người chớ làm gì
mà làm chủ được sự sống chết.
Khi gặp trường hợp như vậy chúng ta giải thích
cho họ hiểu biết
cách thức làm chủ như thế nào.
Làm chủ
SINH tức là làm chủ cuộc sống, làm chủ cuộc
cuộc sống là
làm chủ tâm mình. Ví dụ có người
chửi mắng mình, mình không chửi mắng lại
mà tâm vẫn an
vui không giận
hờn oán ghét
người đó. Muốn được tâm như vậy
thì chúng ta phải hiểu: Trong cuộc sống
hằng ngày của chúng ta đều do nhân quả tác thành, vì thế những ác pháp đến với
chúng ta là do trước kia chúng ta đã
mang nhân quả
ác đến với những người khác, bây giờ phải trả quả do
nhân đời trước đã làm. Hiểu nhân quả được như vậy là tâm chúng an vui mà không
tức giận phiền não. Hiểu được như vậy tức là tri kiến giải thoát chúng ta đã
có.
Trên đời người
ta hay tự
làm khổ mình bằng
cách NGHI NGỜ, người
ta nói xấu mình,
người ta hại
mình v.v... Do sự
nghi ngờ
này mà làm chúng ta rất đau khổ tâm không được an vui.
NGHI NGỜ là
một ác pháp chúng ta hãy cố gắng khắc phục và diệt trừ cho hết tâm NGHI NGỜ. Hết
tâm NGHI NGỜ là được giải thoát.
Tri kiến giải thoát thứ sáu là tri kiến dẹp trừ
tâm NGHI NGỜ, phá vỡ tâm NGHI NGỜ. Nếu chúng
ta có tri kiến
giải thoát thứ sáu là chúng ta
không còn tâm NGHI NGỜ. Vì vậy
chúng ta luôn
luôn hãy sống với
tri kiến giải thoát
thứ sáu để cứu mình ra khỏi tâm NGHI NGỜ.
Tri kiến
giải thoát thứ bảy là tri
kiến thông suốt
pháp và luật của đức Phật.
Vậy
chúng ta
hãy lắng nghe đức
Phật dạy: “Tri kiến giải thoát thứ bảy: Và chư tỳ- kheo, thế nào là tỳ-kheo
không biết rõ chỗ nước uống? Ở đây, này các tỳ-kheo, tỳ-kheo, trong khi Pháp
và Luật do Như Lai tuyên thuyết được giảng dạy, không chứng đạt nghĩa
tín thọ, pháp tín thọ, không
chứng đạt sự hân
hoan liên hệ đến Pháp. Như vậy, này các tỳ-kheo, là tỳ-kheo
không biết chỗ nước uống”.
Tri kiến giải thoát thứ bảy là tri kiến pháp tu tập
làm chủ sinh, già, bệnh, chết và giới luật đức hạnh
của Phật. Đó
là tri kiến rất cần
thiết cho một người
tu theo Phật giáo. Vì không hiểu giới luật và pháp tu
tập làm chủ sinh già, bệnh, chết của Phật giáo, cho nên
tri kiến giải thoát thứ
bảy này đã xác định được ai là đệ tử Phật và ai là đệ
tử của ngoại đạo.
Khi chúng
ta có tri kiến
giải thoát thứ bảy
thì ngoại đạo
không lường gạt chúng ta được. Bởi vậy kinh sách phát
triển và Thiền Tông
chỉ gạt những
người không có tri kiến thứ bảy. Khi chúng ta đã học đến
tri kiến thứ bảy đã
làm chúng ta sáng suốt về Phật
giáo hơn nữa.
Tri kiến giải
thoát thứ tám là một
tri kiến giúp
chúng ta hiểu
rõ đường lối tu
tập của Phật giáo.
Vậy chúng ta
hãy nghe đức Phật dạy: “Tri kiến
giải thoát thứ tám: Và này các tỳ-kheo, thế nào là tỳ- kheo không
biết về con đường. Ở
đây, này các tỳ-kheo, tỳ-kheo không như
thật biết con đường Thánh
đạo Tám ngành. Như vậy,
này các tỳ-kheo,
là tỳ-kheo không biết đến con đường”.
Đến với
đạo Phật là đến với
con đường BÁT CHÁNH ĐẠO, chỉ có đạo
Phật mới có con đường này. Cho nên tri kiến giải thoát thứ tám
xác định cho chúng ta biết.
Người đến với đạo Phật mà không hiểu BÁT CHÁNH
ĐẠO là không
có tri kiến giải thoát thứ tám. Khi có tri kiến giải thoát thứ tám thì tà
giáo ngoại đạo không thể lừa đảo được. Tà giáo ngoại đạo không thể có con đường
BÁT CHÁNH ĐẠO.
Khi có tri kiến giải thoát thứ
tám thì Đại Thừa và Thiền
Tông không thể lừa gạt chúng ta được
mặc dù chúng mạo
nhận BÁT CHÁNH
ĐẠO nhưng chúng chẳng rõ phương pháp và cách tu tập.
Ví dụ:
1- Lớp CHÁNH
KIẾN là phải học tri kiến giải thoát thứ
nhất thấy SẮC
là bốn duyên hòa hợp mà thành.
2- CHÁNH
TƯ DUY là sự suy
tư không làm khổ
mình khổ người
và khổ tất cả chúng sinh.
3- CHÁNH
NGỮ là lời
nói phải ôn tồn nhã nhặn nhẹ nhàng êm ái khiến người
nghe được an vui, không buồn rầu tức giận.
4- CHÁNH
NGHIỆP là tất cả hành động thân
miệng ý đều
phải thực hiện những điều lành và luôn luôn ngăn những
hành động làm những điều ác.
5- CHÁNH MẠNG
là nuôi mạng sống bằng những thực phẩm không có giết hại chúng sinh, không
có sự đau khổ,
không có kêu la thảm thiết.
Trong năm lớp
này toàn là học tập GIỚI LUẬT ĐỨC HẠNH mà đức Phật
đã dạy trong kinh Phạm Võng.
6- Lớp CHÁNH
TINH TẤN thì chúng ta tu tập pháp môn TỨ
CHÁNH CẦN hằng ngày ngăn ác và diệt ác pháp.
7- Lớp CHÁNH
NIỆM thì chúng ta tu tập pháp môn TỨ NIỆM
XỨ.
8- Lớp CHÁNH
ĐỊNH thì chúng ta nhập các loại định như: SƠ THIỀN, NHỊ THIỀN, TAM THIỀN, TỨ
THIỀN và thực hiện TAM MINH đến
đây là con đường
tu tập của Phật giáo là xong.
Tri kiến giải thoát thứ tám là tri kiến hiểu biết
về BÁT CHÁNH ĐẠO.
Tri kiến
giải thoát thứ
chín là tri kiến
TỨ NIỆM XỨ, nếu cuộc đời tu
hành của chúng ta
mà không có tri
kiến này
thì không bao giờ chúng
ta tập làm chủ sinh, già,
bệnh, chết được.
Bởi vậy tri kiến
TỨ NIỆM XỨ rất quan trọng cho cuộc
đời tu hành của chúng ta.
Ngoài pháp
môn TỨ NIỆM XỨ
đạo Phật
không còn có một
pháp môn nào
tu chứng đạo cả. Cho nên
ngoại đạo không bao giờ tu chứng đạo vì không có pháp
môn TỨ NIỆM XỨ. Chúng hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Tri kiến giải thoát thứ
chín: Và này các tỳ-kheo, thế nào là tỳ-kheo không khéo
léo với các chỗ đàn
bò có thể ăn cỏ? Ở đây,
này các tỳ-kheo,
tỳ- kheo không như thật biết về Bốn Niệm xứ. Như vậy này các tỳ-kheo, là
tỳ-kheo không khéo léo với các chỗ đàn
bò có thể ăn cỏ”.
Như vậy pháp
môn TỨ NIỆM XỨ rất quan trọng cho con đường
tu tập của chúng ta
đi đến giải
thoát thì tri kiến giải
thoát thứ chín là điều chúng ta cần
phải học tập cho nhuần nhuyễn.
Khi tu tập pháp
môn TỨ NIỆM XỨ
thì phải tu tập cho đúng cách của pháp
môn TỨ NIỆM XỨ. Trong kinh TỨ NIỆM XỨ Phật
dạy TRÊN THÂN
QUÁN THÂN nhưng nếu ai chưa tu tập
TỨ CHÁNH CẦN mà vội tu tập TỨ NIỆM XỨ
thì ngay đó bị ức
chế tâm mà trở
thành bị tẩu hỏa nhập ma.
Cho nên tu tập TỨ NIỆM XỨ là tâm
phải hết hôn trầm thùy miên và loạn tưởng,
nếu còn hôn
trầm loạn tưởng thì không nên tu tập TỨ
NIỆM XỨ.
Cho nên trong
tri kiến giải thoát
nó đứng vào hành thứ chín như vậy người sơ cơ mới tu tập thì không nên tu tập mà chỉ biết trong học tập.
Tri kiến giải
thoát thứ mười là tri
kiến biết đủ
tức là tri kiến thiểu dục tri túc.
Vậy
chúng ta
hãy lắng nghe đức
Phật dạy: “Tri kiến giải thoát thứ
mười: Và này các tỳ-kheo, thế nào là tỳ-kheo vắt sữa cho đến
khô kiệt? Ở
đây, này các tỳ- kheo, khi
các vị tại gia vì lòng tin cúng dường
các vật dụng,
như y áo, đồ ăn khất
thực, sàng tọa,
dược phẩm trị bệnh, tỳ-kheo không biết nhận lãnh cho
được vừa
đủ. Như vậy,
này các tỳ-kheo, là Tỳ-kheo vắt sữa
cho đến khô kiệt”.
Người tu sĩ
Phật giáo mà không biết đủ, không thiểu dục tri túc là không phải là người tu
sĩ Phật giáo mà là người tu sĩ của ngoại đạo. Người tu sĩ ngoại đạo tham danh tham
lợi ham mê của cúng
dường của đàn na thí
chủ.
Tri kiến giải thoát thứ mười xác định cho
chúng ta
biết làm tu
sĩ Phật giáo
thì phải buông xả tất cả vật chất
xuống hết, đời sống chỉ còn ba y một
bát, lúc nào cũng xin ăn ai cho gì
ăn nấy không
nên khen chê. Ăn mặc bằng vải thô xấu, vá víu mới đúng
hạnh người tu sĩ ra khỏi cuộc đời.
Được nghĩ và
sống như vậy
là người đã thực
hiện tri kiến giải
thoát thứ mười,
tri kiến buông
xả, tri kiến thiểu
dục tri túc mà người
tu sĩ cần phải thực
hiện không thể việân cớ này hay cớ
khác.
Tri kiến
giải thoát thứ mười một là tri kiến
tôn kính tôn
trọng những bậc tu
hành chân chánh giới luật tinh nghiêm. Không được khinh khi những bậc trưởng lão trong hàng tu sĩ mặc dù
họ không lãnh chức vụ gì trong
giáo hội, nhưng
họ là những người đã tu tập lâu năm chúng ta là những
người hậu học nên phải cung kính tôn trọng
họ. Khi gặp họ phải biết
nhường chỗ ngồi chỗ
tốt cho họ hoặc
giúp đỡ họ
khi họ đi đứng không vững vàng.
Hành động biết kính trên
nhường dưới
là tri kiến giải
thoát thứ mười
một mà một người
tu sĩ như
chúng ta rất cần
học hỏi để trở
thành một thói
quen cung kính và
tôn trọng mọi
người. Vậy chúng ta hãy lắng
nghe đức Phật dayï:
“Tri kiến giải thoát
thứ mười một:
Và này các tỳ-kheo, thế nào là tỳ-kheo,
đối với những Thượng tọa trưởng lão, xuất gia đã lâu
ngày, bậc tôn túc
trong Tăng giới, bậc lãnh đạo trong Tăng giới, không có sự
tôn kính, sự tôn trọng
đặc biệt? Ở đây, này các tỳ-kheo,
đối với Thượng tọa, trưởng lão, xuất gia
đã lâu ngày, bậc tôn túc trong Tăng giới, bậc lãnh đạo
trong Tăng giới,
không có thân nghiệp đầy lòng từ
đối với các vị ấy, trước mặt
và sau lưng,
không có khẩu nghiệp đầy lòng từ
đối với các vị ấy, trước mặt và sau lưng,
không có ý nghiệp đầy lòng từ đối với các vị ấy, trước mặt
và sau lưng.
Như vậy, này các tỳ-kheo, là tỳ-kheo đối với những Thượng tọa,
Trưởng lão, xuất
gia đã lâu ngày, bậc tôn túc
trong Tăng giới, bậc lãnh đạo trong Tăng giới, không có sự tôn kính, sự
tôn trọng đặc biệt.
Này các tỳ-kheo, tỳ-kheo
nào không đầy đủ
mười một
pháp này, thì không
thể lớn mạnh, tăng thịnh, thành
mãn trong Pháp, Luật này”.
Mười một
tri kiến giải thoát này
nếu ai biết áp dụng vào đời sống hằng ngày của mình cũng đã thấy tâm BẤT ĐỘNG chớ đâu cần phải
tu tập nhiều
pháp đâu. Mười một
tri kiến này tu tập cũng đủ cho
chúng ta ly dục ly bất thiện pháp. Bởi vậy đạo Phật đâu có ngồi thiền nhiều để ức chế ý thức mà chỉ có xả
tâm thành tựu đạo giải
thoát. Thiền của Phật giáo
là TÂM BẤT ĐỘNG trong việc xả tâm ly dục ly bất thiện pháp chứ
không phải tâm BẤT ĐỘNg bằng cách ức
chế ý thức không cho niệm khởi như kiểu Thiền Tông Trung Quốc.
Đọc qua bài
kinh này chúng ta phải nhớ lấy mười một
tri kiến này để
chúng ta tu tập
không sai đường
lạc lối và
cũng không pháp môn nào của ngoại đạo lừa gạt mình được.
Một người tu
theo đạo Phật mà
không biết
các quả tu
trong Phật giáo
thì
cũng giống
như người đi đường mà
không biết những chặng đường đến đâu.
Ví dụ: Đường từ Trảng
Bàng về
TP Hồ Chí Minh phải đi qua bao nhiêu chặng đường:
1- Chặng đường
thứ nhất từ Trảng
Bàng đến Suối
Sâu.
2- Chặng đường
thứ hai từ Suối Sâu đến Suối Cụt.
3- Chặng
đường thứ ba từ Suối Cụt
đến Củ Chi.
4- Chặng đường
thứ tư từ Củ Chi đến
Tân Phú
Trung.
5- Chặng đường
thứ năm từ Tân Phú
Trung đến
Hóc Môn.
6- Chặng đường
thứ sáu từ Hóc Môn đến Trung Chánh.
7- Chặng đường
thứ bảy Từ
Trung
Chánh đến Bà
Quẹo.
8- Chặng đường
thứ tám từ Bà Quẹo đến Tham Lương.
9- Chặng đường
thứ chín từ
Tham
Lương đến ngả
tư Bảy Hiền.
10- Chặng đường
thứ mười từ Bảy
Hiền đến chợ
Bến Thành.
Con đường tu
tập theo Phật giáo cũng vậy mỗi chặng đường
tu tập đều có kết quả. Cho nên người
tu sĩ tu tập phải
nhận biết điều này để khi
tu tập tới
đâu mình đều biết, nếu không biết giống như người mù rờ voi. Vậy
chúng ta hãy lắng nghe lời đức Phật dạy: “Này các tỳ-kheo, tại Magadha
có người chăn bò vô trí, vào cuối tháng mùa mưa, trong
mùa gặt hái, không quan
sát bờ bên này
sông Hằng, không quan sát bờ bên
kia sông Hằng,
đuổi đàn bò qua bờ bên kia tại Suvideha, tại chỗ không có thể lội
qua được. Này các tỳ-kheo, những
con bò xô
nhau tụ lại giữa dòng sông Hằng và gặp tai nạn tại nơi đây”.
Một ví dụ đức
Phật đã giúp chúng ta thấy rất rõ
ràng vì vô trí của người chăn bò mà bầy
bò gặp tai nạn giữa
dòng sông Hằng. Cho nên người tu
hành để tìm cầu sự làm chủ
sinh, già, bệnh, chết
thì phải biết tất
cả các quả chứng trên đường tu tập.
Vậy
chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy tiếp:
“Cũng vậy, này các tỳ-kheo, có những Sa-môn
hay Bà-la-môn không khéo biết đời này, không khéo biết đời
sau, không khéo biết ma giới, không khéo
biết phi ma giới, không
khéo biết tử thần
giới, không khéo
biết phi tử thần giới, những ai nghĩ rằng cần phải nghe, cần phải tin những
vị này, thì họ sẽ gặp bất hạnh đau khổ lâu dài”.
Trên đường
tu tập tìm cầu sự làm chủ sinh,
già, bệnh, chết
thì phải rõ đời sống hiện tại, đời sống về tương lai có nhiều điều làm đau khổ
và có nhiều điều
không làm đau khổ,
có nhiều điều xảy ra chết chóc, nhưng
có nhiều điều không
xảy ra chết chóc.
Do những điều đó khiến
cho chúng ta quá sợ
hãi nên dễ
tin theo những người ngoại
Ba La Môn họ nói
ma, nói quỷ,
nói linh hồn người chết
hiện ra chỗ
này chỗ khác. Cho nên chúng ta đừng
nghe theo và cũng đừng tin ai cả. Vì tin và nghe theo thì cũng giống
như người chăn
bò vô trí nên bầy
bò gặp tai nạn giữa
dòng sông Hằng. Còn
ngược lại người
chăn bò có
trí cho những con bò già đi trước
thăm dò đường và
những con bò
con đi sau cùng nhờ đó
mà bầy bò được an toàn qua sông.
Muốn cho con đường
tu tập được đến nơi
đến chốn thì
chúng ta hãy lắng nghe đức
Phật dạy: “Ngày
xưa, này các
tỳ- kheo, tại Magadha có người chăn bò có trí, vào
cuối tháng mùa mưa,
trong mùa gặt hái,
sau khi quán
sát bờ bên này sông Hằng, sau
khi quán sát bờ bên kia sông Hằng,
đuổi đàn bò qua bờ bên kia tại Suvideha, tại chỗ có thể lội qua được.
Người đó đuổi
bò cho đi đầu
những con bò đực già, những con đầu đàn. Những con
này sau khi lội cắt ngang
dòng sông Hằng, qua bờ
bên kia một cách
an toàn. Rồi
người đó đưa qua những con bò đực lớn mạnh, những con
bò đực có được
huấn luyện. Những con này
sau khi lội cắt ngang
dòng sông Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn. Rồi người đó đuổi qua
những con bò đực con, lớn, những
con bò cái con, lớn.
Những con này
sau khi lội
cắt ngang dòng sông Hằng, qua bờ bên
kia một cách an
toàn. Rồi người
đó đuổi
qua những
con bò con nhỏ, những
con bò con còn bú. Những con này
sau khi lội cắt ngang
dòng sông Hằng,
qua bờ bên kia một cách
an toàn. Này
các tỳ- kheo thời xưa ấy có con
bò còn nhỏ mới sanh, con bò
này nhờ chạy theo
con bò mẹ, vừa chạy, vừa
kêu, sau khi lội cắt ngang
dòng sông Hằng,
cũng qua bờ bên kia một cách an toàn”.
So sánh bầy
bò do người chăn
bò có trí mà bầy bò qua sông Hằng
được an toàn cũng như
các con đã tu chứng
đạo nên chỗ nào
tu bị ức chế tâm chỗ nào bị tưởng
họ đều biết rất rõ cho nên họ sẽ hướng dẫn những người
tu hành đến
đến chốn mà không còn sợ sai lạc.
Những điều
tu hành ở đây không phải dẹp vọng tưởng mà
hãy xem tâm mình còn bị ác pháp tác động hay không?
Nếu tâm
không bị ác pháp tác động được thì đó là chứng đạo chứ không phải chứng đạo là
tâm không còn vọng niệm. Đức Phật
đã dạy: “Ngăn
ác diệt ác
pháp sinh thiện tăng trưởng thiện
pháp”. Như vậy rõ ràng là
tâm còn vọng niệm
nhưng vọng
niệm thiện
chớ không còn vọng
niệm ác. Cho nên kẻ nào
tu tập ức chế ý thức hết vọng niệm là sai. Phật không có dạy tu tập như vậy.
Muốn biết rõ
những điều này chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy:
“Này các tỳ-kheo, ví
như những con bò đực
già, đầu đàn, chúng đã lội cắt
ngang dòng sông Hằng và qua bờ bên
kia một cách an
toàn. Cũng vậy, này
các tỳ- kheo, các tỳ-kheo là những
bậc A-la- hán, đã đoạn trừ các lậu hoặc,
tu hành thành mãn, các việc nên
làm đã làm, đã
đặt gánh nặng xuống,
đã đạt được mục đích, các hữu kiết
sử đã hoàn toàn bị đoạn diệt, đã được giải thoát nhờ chánh trí. Những vị này,
sau khi lội cắt ngang dòng
sông của Ma vương, đã qua bờ bên
kia một cách an toàn”.
Những người
tu hành đoạn trừ các lậu hoặc, các kiết
sử đã đoạn diệt
cho nên không có
ác pháp nào
tác động đến
tâm họ được, họ là người giải thoát hoàn toàn cũng giống như các con bò đực lớn mạnh và được điều khiển
chúng đã lội qua dòng
sông đến bờ bên kia được bình an.
Trên đây là
những vị tu hành đã đoạn trừ các lậu hoặc và các hữu kiết sử đã chứng quả A La
Hán họ đã đạt được mục đích tâm bất động thanh
thản an lạc và vô sự. Đạo Phật tu tập đến đây đã hoàn thành không còn tu
tập một pháp môn nào nữa cả.
Đây là chặng đường
thứ nhất được vào
Niết Bàn nếu
ai quyết tâm tu
tập diệt trừ các lậu hoặc và các
kiết sử.
Chặng đường
thứ hai cũng được vào Niết Bàn. Vậy chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy:
“Này các tỳ-kheo,
ví như những con bò đực lớn mạnh,
những con bò đực có huấn
luyện, sau khi lội
cắt ngang dòng sông Hằng, qua bờ bên
kia một cách an toàn. Cũng vậy,
này các tỳ- kheo, những tỳ-kheo sau khi
đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa
sanh, ở tại đấy nhập Niết-bàn, không
còn phải trở lại thế giới
này nữa. Những
vị ấy, sau khi lội cắt
ngang dòng sông Ma vương sẽ qua bờ bên kia một cách an toàn”.
Tu theo Phật
giáo nhập vào Niết Bàn không phải khó.
Cho nên những
bậc đã
chứng quả A La Hán vào Niết bàn được thì như
lời Phật dạy ở trên
chỉ cần diệt
trừ được năm hạ phần kiết sử thì khi chết vẫn nhập vào Niết Bàn rất dễ dàng.
Năm hạ phần kiết sử gồm có:
1- Thân kiến
kiết sử.
2- Nghi kiết sử.
3- Giới cấm
thủ kiết sử.
4- Tham kiết
sử.
5- Sân kiết
sử.
Chỉ cần diệt
trừ năm hạ phần kiết sử này thì chết
cũng vào Niết Bàn một cách dễ dàng
không thua gì một bậc
đã tu chứng quả A La Hán.
Trên
đây là
quả thứ hai của những người được vào Niết Bàn.
Dưới đây là
quả thứ ba của những người tu theo Phật giáo chỉ cần diệt trừ ba kiết sử
và làm muội
lược tâm tham,
sân, si thì cũng
nhập vào Niết
Bàn cũng không phải
khó khăn. Vậy ba
kiết sử
gồm có như
sau:
1- Thân kiến
kiết sử.
2- Nghi kiết sử.
3- Giới cấm
thủ kiết sử.
Đây là chặng
đường vào Niết Bàn thứ ba. Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy chặng đường vào
Niết Bàn thứ ba: “Ví như, này các tỳ-kheo,
những con bò đực con, lớn, những con bò
cái con, lớn, những con bò này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, đã qua bờ
bên kia một cách an toàn. Cũng vậy,
này các tỳ-kheo, những Tỳ-kheo đã diệt trừ
ba kiết sử, làm
giảm thiểu tham,
sân, si, chứng quả
Nhất lai, sau
khi trở lại đời này một
lần nữa, sẽ diệt tận khổ
đau. Những vị ấy,
sau khi lội
cắt ngang dòng sông Ma
vương sẽ qua bờ bên
kia một cách an toàn”.
Đúng vậy chỉ cần diệt trừ ba
kiết sử và làm giảm thiểu
tâm tham, sân,
si thì cũng vào Niết Bàn dễ dàng.
Chặng đường
vào Niết Bàn thứ tư chỉ cần diệt trừ ba kiết sử:
1- Thân kiến
kiết sử.
2- Nghi kiết sử.
3- Giới cấm
thủ kiết sử.
Chúng ta
hãy lắng nghe
đức Phật dạy: “Ví
như, này các tỳ-kheo, những con bò con, nhỏ, những con bò con còn
bú, những con này
sau khi lội
cắt ngang dòng sông Hằng, đã qua
bờ bên kia một
cách an toàn.
Cũng vậy, này các tỳ-kheo,
những tỳ-kheo diệt trừ ba
kiết sử,
chứng quả Dự
lưu, nhất định không còn đọa vào ác đạo, đạt đến chánh giác. Những vị
này lội cắt ngang dòng sông Ma
vương và sẽ
qua bờ bên kia một cách an toàn”.
Chặng đường
thứ tư chỉ cần diệt
trừ ba kiết sử thì chúng ta cũng
nhập vào Niết bàn
một cách dễ dàng
sau khi bỏ xác
thân này.
Dưới đây
là chặng đường
thứ năm, nếu chúng ta hành đúng pháp là chúng ta cũng vào Niết
bàn không có khó khăn. Vậy chúng ta hãy lắng nghe đức
Phật dạy: “Ví như,
này các tỳ-kheo,
con bò con
còn nhỏ, mới sanh, con bò này nhờ
chạy theo con bò mẹ, vừa chạy, vừa kêu, sau khi lội cắt ngang
dòng sông Hằng,
đã qua bờ
bên kia một cách
an toàn. Cũng vậy,
này các tỳ-kheo, những tỳ-kheo
tùy pháp hành, tùy tín
hành, những vị nầy sau khi lội
cắt ngang dòng
sông của Ma Vương sẽ qua bờ bên kia một cách an toàn”.
Chặng đường
thứ năm này tùy theo pháp thiện hay
ác mà giữ
gìn tâm thanh thản an lạc thì cũng vào Niết Bàn một cách dễ dàng
không có khó
khăn. Chặng đường thứ năm đức Phật dạy chúng ta không diệt
trừ tâm tham, sân, si, mạn, nghi và kiết sử nhưng chỉ có giữ gìn tâm thanh thản, an lạc thì cũng vào Niết Bàn.
Như vậy Phật giáo
tu tập vào Niết
Bàn đâu có khó khăn mệt nhọc chỉ cần biết sống thanh thản, an lạc là vào Niết bàn rồi. Đến đây quý
vị có thấy điều dễ dàng này không?
Chặng đường
thứ sáu đức Phật dạy chỉ
có lòng tin nơi đức Phật mà khéo đối xử với mọi
người mọi hoàn cảnh, không
làm mình khổ người
khác khổ và khổ tất
cả chúng sinh thì
mình cũng vào
Niết Bàn không có
khó khăn. Chúng
ta hãy lắng
nghe đức Phật
dạy: “Này các tỳ-kheo, nay Ta khéo biết đối với đời này, khéo biết đối với đời sau,
khéo biết đối với ma giới, khéo biết đối với phi ma giới, khéo biết đối với tử thần giới, khéo
biết đối với phi tử thần giới.
Những ai nghĩ rằng,
cần phải nghe,
cần phải tin
nơi Ta, thì họ sẽ
được hạnh phúc,
an lạc lâu dài”.
Chỉ cần tin nơi
lời Phật dạy, biết
đối xử với mọi người không làm khổ mình
khổ người và tất cả
chúng sinh thì
khi bỏ thân này cũng vào Niết Bàn một cách dễ dàng
không có khó khăn.
Bởi đạo Phật
có sáu chặng đường vào Niết Bàn chúng ta muốn đi chặng nào cũng được chỉ tùy vào sức lực, vào khả năng của
mình mà chọn lấy nẻo vào Niết Bàn.
Xét qua sáu
chặng đường tu tập này chúng ta mới thấy đạo Phật tu
hành tùy theo căn cơ
và trình độ của mỗi
người, nhưng người nào cũng được vào Niết Bàn.
MỤC LỤC
Lời nói đầu..............................................................................................................5
Bảng tóm lược
sơ đồ 37 cửa vào đạo......................17
Bài pháp thứ
nhất - Ngũ
căn...........................................21
Bài pháp thứ hai - Ngũ lực..................................................26
Bài pháp thứ
ba - Tứ Vô Lượng Tâm...................42
Bài pháp
thứ tư - Niệm Phật tứ bất hoại
tịnh...................................................................................................................................47
Bài pháp thứ
năm - Tứ Chánh Cần........................51
Bài pháp thứ
sáu - Tứ Niệm Xứ ...................................56
Bài pháp thứ
bảy - Thất Giác Chi............................60
Bài pháp thứ
tám - Tứ Như Ý
Túc...........................63
Bài pháp thứ
chín - Căn cứ vào đâu mà biết
37 phẩm trợ
đạo là của Phật giáo.............................67
Thất giác
chi...................................................................................................71
Tứ niệm xứ.........................................................................................................76
Ba thiện hạnh..............................................................................................79
Pháp thân
hành........................................................................................84
Pháp như lý
tác ý...................................................................................87
Lòng
tin...................................................................................................................91
Tâm bất động,
thanh thản, an lạc............................95
Pháp
môn tác
ý.......................................................................................103
Thân cận thiện
hữu tri thức.............................................106
Tu tập chín
giai đoạn...................................................................109
Ông A
Na Luật thực
hiện 37 phẩm
trợ đạo..................................................................................................................................113
Chứng đạo mới
được dạy người tu tập………………130
Sống độc cư,
sống một mình............................................150
Mục đích tu
chứng đạo là tâm vô lậu...............169
Mười một tri
kiến giải thoát............................................185
Các quả tu
chứng trong Phật giáo.........................221
HẾT
GIỚI THIỆU SÁCH
1. Đường về xứ Phật (Mười tập, bộ mới).
2. Những lời gốc Phật dạy (Bốn tập, bộ mới).
3. Văn hóa Phật giáo truyền thống (Hai
tập).
4. Đạo đức làm người (Tập I, II...).
5. Giới đức làm người (Hai tập).
6. Cẩm nang tu Phật (Hai tập).
7. Thiền căn bản.
8. Hành thập thiện & Tứ vô lượng tâm.
9. Những chặng đường tu học của người cư sĩ.
10. Thời
khóa tu tập trong thời Đức Phật.
11. Diễn đàn
Chơn Như (tức Giáo án tu
tập cho người
cư sĩ vì chánh Phật pháp) (Tập I - VII).
12. Giáo án
rèn nhân cách lớp Ngũ Giới:
Đức Hiếu
Sinh (Tập I, II, III).
13. Giáo án
rèn nhân cách lớp Ngũ Giới: Đức Ly Tham (Tập I...).
14. Giáo án
rèn nhân cách lớp Ngũ Giới:
Đạo Đức Gia Đình
(Tập I...).
15. Mười Đức
Thánh Sa Di (Tập I, II).
16. Giới đức
Thánh Tăng, Thánh Ni.
17. Định niệm
hơi thở.
18. Phật
giáo có đường lối riêng biệt.
19. Pháp môn
niệm Phật tứ bất hoại tịnh
20. Nghi thức
thọ trai.
21. Muốn chứng
đạo phải tu pháp môn nào (mới).
22. Những lời
tâm huyết...
23. Mười hai
cửa vào đạo.
24. Tạo
duyên giáo hóa chúng sinh (mới).
25. Lòng yêu
thương (mới).
26. Linh hồn
không có.
27. Lịch sử
chùa Am.
28. Ba mươi
bảy phẩm trợ đạo (mới).
Trang mạng toàn cầu của các phật tử có đăng tải
sách của Trưởng
Lão Thích Thông
Lạc:
http://www.chonnhu.net
http://www.chonlac.org
Ước mong mọi
người sẽ cùng nhau sống không làm khổ mình,
khổ người và khổ chúng sinh.
PHẬT TỬ
XIN ẤN TỐNG KINH
“BA MƯƠI BẢY
PHẨM TRỢ ĐẠO”
Sách do Phật
tử Thích Thanh Đức, công ty cổ phần An
Phước - Hà nội, thành tâm ấn tống cúng dường.
BA MƯƠI BẢY
PHẨM TRỢ ĐẠO
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
.....................................................
NHÀ XUẤT BẢO
TÔN GIÁO
53 Tràng Thi
- Hoàn Kiếm - Hà Nội
ĐT: (04)
37822845 - Fax: (04) 37822841
Chịu trách
nhiệm xuất bản: Nguyễn Công Oánh Biên tập: Trần Xuân Lý
Bìa &
Trình bày: Nguyễn Thị Thái
Sửa bản in:
Nguyễn Thị Thái
Đối tác liên
kết: TU VIỆN CHƠN NHƯ
Điệnthoại:
0979-520-554
Email:
chonnhu.info@gmail.com
Số lượng in:
3.000 bản, khổ: 13 x 20,5 cm
In tại Cty
TNHH 1 thành viên in Phương Nam
(160/12 Đội
cung P.9, Q.11, TP.HCM) Số xuất bản: 310-2010/CXB/48-34/TG
In xong và nộp
lưu chiểu Quý II năm 2010
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!