|
|
Í
Chương II:
CHÂN LÝ SỐNG CỦA LOÀI NGƯỜI KHÔNG PHẢI LÀ
TÔN GIÁO
VÀ TRIẾT HỌC
|
|
Ø
TRIẾT HỌC, TÔN
GIÁO
VÀ
CHÂN LÝ
uốn sống được “Đức Từ Tâm”, trước hết chúng ta phải hiểu và phân biệt cho rõ ràng về tôn giáo, triết học và chân lý của loài người.
Trước
khi học đạo đức thương mình thì các
bạn
cần nên hiểu biết về chân
lý
sống của con
người. Nói đến chân lý thì xin các bạn đừng hiểu lầm
chân lý là triết lý, là tôn giáo, là khoa
học, v.v...
Chân lý là một điều đã xác định được bản chất sự sống của loài người một cách
cụ thể và thực tế, không cần phải thêm bớt, dù bất cứ ở thời nào nó cũng hợp thời, chứ không có lỗi
thời. Những điều nói ra đúng như thật mới
được
gọi là
chân lý, còn chưa đúng như thật thì
không
được gọi là chân lý. Loài người điên
đảo vì
những nỗi thống khổ của kiếp người,
nên có
nhiều nhà trí thức hiểu biết phát minh và đưa ra nhiều
triết thuyết
như: triết thuyết này, triết
thuyết kia; tôn giáo
này,
tôn giáo
kia. Mục đích đưa ra là để mưu
cầu hạnh phúc cho loài người. Nhưng họ không ngờ là đã bị lầm
lạc,
vì những
triết thuyết
và
những tôn
giáo
của
họ
là tưởng tri chứ không phải liễu tri. Họ
tưởng rằng những triết thuyết và tôn giáo của họ sẽ đưa con người đi đến một cuộc sống hạnh phúc, an vui, nhưng nào ngờ nó đi ngược lại. Đi ngược
lại, nên các triết
thuyết và tôn giáo thường hay
sửa
đổi và thêm bớt.
Khi
đã đưa ra
bao
nhiêu triết thuyết, bao nhiêu
tôn giáo, thì loài người bị phân chia ra nhiều ý thức hệ,
nhiều phe nhóm,
nhiều tôn
giáo, v.v...
Từ
đó, con người chấp chặt trên phe
nhóm của mình, chấp chặt trên ý thức hệ tư tưởng triết lý về đời sống và về tôn giáo
của mình. Từ sự chấp chặt đó, họ lại giày xéo, chà đạp lên nhau và đôi khi còn giết hại lẫn nhau.
Giày xéo, chà đạp, giết hại lẫn nhau bằng ngôn
ngữ, bằng
mưu
mô thủ đoạn xảo trá, bằng vũ lực để bảo vệ ý thức
hệ;
để bảo vệ tôn giáo; để bảo
vệ
quyền lợi
phục vụ giai cấp của
họ, v.v... như trên chúng tôi đã nói.1
1-
Trải qua một thời gian dài
lịch sử của loài người, đã chứng minh những điều chúng tôi nói
trên
đây là một sự thật về tôn giáo và triết học, chứ không phải chúng tôi có ý chỉ trích tôn giáo và triết học, xin quý các bạn hiểu cho. Đó là một sự thật hiển nhiên mà không
thể
phủ nhận được.
Từ đó, đạo
đức nhân bản - nhân quả đã bị
đánh mất. Ý thức hệ tôn giáo tranh chấp này càng ngày càng gay gắt hơn. Do đó, họ lấy bản thân của họ để làm lá chắn, làm vật hy sinh cho
ý thức hệ triết học và tôn giáo của
họ, để luôn
luôn chống đối lại ý thức
hệ
và tôn giáo của người khác.
Trước
cảnh
phân chia,
tranh chấp, đấu tranh
tôn giáo và các hệ tư tưởng triết học, khiến cho con người
đã
khổ đau lại còn khổ đau hơn, nên có một số người
muốn
hoà giải những sự tranh
chấp ấy. Họ dung hợp những điểm tương đồng
và
bỏ lờ qua những điểm sai khác của các
triết học và tôn giáo,
để
hoà đồng lại các
hệ tư tưởng triết học và tôn giáo thành một khối. Lấy mục đích đỉnh cao của mọi tôn giáo và triết
học học cho rằng: chỗ cuối cùng đều giống như nhau,
không khác.
Việc làm
này cũng chẳng đi đến đâu, mà lại
sinh ra một loại tôn giáo mới: “Hoà Đồng
Tôn
Giáo”. Với một cái tên...
nghe rất kêu. Nhưng
sự hoà đồng tôn giáo, sự
thống nhất các hệ phái
cũng chẳng giải quyết những nổi khổ đau của con người.
Đó cũng chỉ là cách hoà giải làm giảm bớt sự căng thẳng chống đối giữa các tôn giáo và giữa các hệ phái, để thực hiện những giấc mơ an ủi tinh thần trong thế giới siêu hình, chứ kỳ thực con người vẫn
khổ và khổ mãi mãi.
Trên cuộc
đời này, lịch sử loài người về tôn giáo và triết học đã chứng
minh cho chúng ta biết, những cuộc đấu tranh đẫm máu vì
tôn giáo và tư tưởng triết học rất là thảm khốc,
mà
con người
nhiều lần từng phải gánh chịu. Thật là đau lòng! Phải không hỡi các bạn?
Nhìn chung về
tôn giáo hay
về triết
học, thì
chưa có một tôn giáo nào hay một triết học nào là hoàn hảo, đúng đắn, để đưa sự sống của con
người và muôn loài thoát khổ.
Tham vọng của con người quá to lớn, lợi dụng tư
tưởng
tôn giáo này hay triết học kia rồi chắp vá, manh mún, để chia chẻ ra nhiều tôn
giáo, ra nhiều hệ phái, ra nhiều ý thức hệ triết học, triết lý khác nhau, để thoả mãn danh lợi cá
nhân bản thân họ. Nhưng nào ngờ, với việc làm này thì tai hoạ sẽ giáng xuống đầu của loài
người và muôn loài vạn vật. Bởi vì con người
hiện giờ chỉ còn biết ý thức hệ và tôn giáo của mình là
trên
hết, như trên chúng tôi đã nói. Nên cuộc chiến tranh hận thù huỷ diệt loài người
cũng sẽ xuất phát từ nơi những tư
tưởng hận thù
ấy.
Từ những ý tốt để phục vụ sự an lành
hạnh phúc cho loài người, nhưng kết quả thực tế đã ngược lại, tức là đem đến sự đau khổ cho loài người nhiều hơn. Cho nên các nhà tôn giáo, các nhà triết học phải sáng suốt nhận định cho đúng
đắn, đừng vì danh, vì lợi mà thành lập tôn giáo
này, tôn giáo nọ, hệ phái này, hệ phái nọ, triết học này, triết học nọ, mà gây chia rẽ, làm đau thương cho loài người.
Tôn giáo và triết
học chưa hẳn là chân lý của
loài người. Xin các bạn hãy nghiên cứu lịch sử
về
tôn giáo và triết học của loài người thì các bạn sẽ hiểu rõ hơn.
Vì lợi ích
cho
loài người, chúng ta là những nhà tôn giáo, là những nhà triết
học, mỗi lần chúng ta muốn đưa ra một giáo pháp, một
giáo
điều, một triết lý nào đó, thì chúng ta cần phải có đầy đủ kinh nghiệm và thấu suốt về bản chất
đời sống của con người, có áp dụng vào đời sống của họ được
hay không? Nếu được thì giáo pháp, giáo điều và triết
lý
ấy sẽ không bị phản ứng ngược trở lại, không bị sống trong ảo tưởng,
trừu tượng, mơ hồ hoặc không bị trở thành mê tín, dị đoan, v.v... Do đó, nó đem lại sự an vui
hạnh phúc cho loài người thật sự, thì
giáo
pháp, giáo điều và triết lý đó là chân
lý. Còn nếu chưa áp dụng được như vậy thì giáo
lý, giáo điều và
triết lý đó
không
phải là
chân lý. Cho
nên,
chúng ta cần phải cân nhắc kỹ lưỡng rồi mới
đưa
ra, nếu đưa
ra thiếu
sự
cân nhắc kỹ lưỡng là
tai
hại rất lớn, và làm
cho
loài người khổ đau
nhiều hơn.
Các nhà làm tôn giáo và các triết gia đừng
lấy con người làm
thí nghiệm cho giáo lý, giáo
điều và triết lý của mình. Con người vốn sinh ra đã quá khổ đau,
mà
lại bị nhồi nhét thêm
những loại tư tưởng tôn giáo, triết lý mơ hồ,
ảo
giác, khiến cho nền đạo đức của con người bị mất đi. Vì thế, cuộc sống của
con người càng
khổ thêm thì rất tội cho họ. Biến đời sống của
họ
trở thành
một
đời
sống mơ mộng,
trừu tượng,
ảo
tưởng, sống không thực tế, sống mất tự chủ, sống chỉ nhờ vào tha lực của thần quyền ảo giác,
thì rất uổng phí một đời người mà chẳng có lợi ích
gì
thiết thực cả. Khổ đau lại càng chồng chất
khổ đau hơn.
Triết lý
và tôn giáo chỉ
là những
phương thuốc mới chế tạo, mới đem ra thí nghiệm, nó
chưa
phải là một thứ thuốc đặc trị bệnh khổ đau của loài người. Vì thế, loài người uống nhầm
thuốc thí nghiệm
này, đã không hết bệnh mà lại bệnh nhiều hơn (bệnh ảo tưởng, bệnh mê
tín). Còn chân lý mới thật sự là
một
phương thuốc
thần dược
trị
bệnh của nhân loại. Cho nên, muốn trị bệnh loài
người thì phải biết rõ bệnh
và thuốc trị của loài người. Loài người thường hay
bị bệnh gì? Và thuốc gì để trị?
Tóm lại, những giáo lý của các tôn giáo là những triết lý, nó chưa phải là chân lý. Do đó,
nó
chưa phải là một loại thuốc đặc trị bệnh khổ của con người. Vì thế, con người khi muốn ra
khỏi sự đau khổ của kiếp người thì không nên
vội tin chúng, cần phải quan tâm
nghiên cứu tường
tận các
tôn giáo và
triết học. Chúng không phải là chân lý của con người,
có nghĩa
chúng chưa phải là sự thật và cũng chưa đáp ứng được
những nhu cầu
tinh thần bình an và hạnh phúc cho loài người.
Vì
thế, muốn dùng
thuốc triết học và tôn giáo thì phải cân nhắc kỹ lưỡng, đừng để “tiền mất tật
mang”.
|
|
Í
BỐN SỰ THẬT CỦA
CON NGƯỜI
ể thực hiện “Đức
Từ Tâm”, chúng ta hãy
xem
xét cho tận cùng và xác định thực chất,
thiết thực, đúng đắn kiếp sống của con người trên
chân
lý
nào? Nhờ thấu rõ chân
lý
chúng ta mới
xây
dựng nền tảng đạo đức nhân bản - nhân
quả trên đó. Có được
như vậy mới đem lại cho con người một cuộc sống an vui và hạnh phúc chân thật.
Trong cuộc sống của con người có bốn chân
lý, tức là có bốn sự thật. Vậy, bốn sự thật của loài người
như thế nào? Bốn sự thật của
loài người gồm có:
I/ CHÂN LÝ THỨ NHẤT
Chân lý thứ nhất, “Khổ”: Gồm tất cả các loại khổ, gọi chung là khổ. Làm người
không ai
là
không khổ,
không khổ điều này thì khổ điều khác.
Nhưng
không ngoài bốn sự đau khổ chính:
sanh, già, bệnh, chết. Đó là một sự thật của
đời
người.
Đã sinh ra làm người thì không ai thoát ra khỏi bốn sự đau khổ này, ngoại
trừ
những bậc tu chứng theo đúng lộ trình Phật giáo “Bát Chánh
Đạo”, còn nếu tu tập không đúng lộ trình
này thì cũng chỉ hoài công
vô
ích mà thôi.
Khổ đau vẫn
hoàn khổ đau.
II/ CHÂN LÝ THỨ HAI
Chân
lý
thứ hai, “Nguyên Nhân”: Nơi tập
hợp sinh ra những sự đau khổ. Đó là “lòng ham
muốn của con người”. Lòng ham muốn của con người là một sự thật. Làm người không ai
mà không có lòng ham muốn, đến như loài cỏ cây còn có
sự
ham muốn (ham muốn sống).
III/ CHÂN LÝ THỨ BA
Chân lý thứ ba, “Cuộc sống với Tâm Thanh Thản, An Lạc, Vô Sự”: Đó là trạng thái của
một
con
người hết khổ đau. Cuộc
sống với tâm
hồn thanh thản, an lạc và vô sự là một sự thật.
Bởi
vì con người ai cũng nhận ra được
những
trạng thái này của tâm, khi các ác pháp không tác động vào được nó.
IV/ CHÂN LÝ THỨ TƯ
Chân lý thứ tư, “Tám Phương Cách”: Tám
phương cách rèn luyện đạo đức không làm khổ
Tröôûng Laõo THÍCH THOÂNG
LAÏC
mình, khổ người. Tám phương cách gồm có:
1- Cách nhìn vào một
sự kiện khiến tâm
mình, tâm người khác không khổ đau.
2- Cách suy nghĩ vào một sự việc khiến tâm mình và tâm
người khác không khổ đau, phiền
não.
3- Cách dùng lời diễn tả một sự việc
không
làm
khổ mình, khổ người.
4- Cách chọn lấy hành
động
và nghề
nghiệp sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh
5- Cách thức nuôi mạng sống của mình
không làm
khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.
6- Hằng ngày phải siêng năng
thực hiện năm phương cách này thì cuộc sống sẽ được an vui hạnh phúc.
7- Thường đẩy lui các chướng ngại pháp trên
mọi cảm thọ nơi thân, tâm của mình, để đem lại sự thanh bình, an vui cho cuộc sống.
8- Thân tâm bất động trước các pháp và các
cảm thọ.
Tám phương cách này áp dụng vào đời sống
của con người thì mọi người ai cũng làm được, và cũng được sự
an ổn, hạnh phúc như nhau
không có khó khăn, không có mệt nhọc. Còn
nếu có khó khăn, có mệt nhọc là do lòng còn ham muốn ảo ảnh vật chất thế gian chưa từ bỏ. Cùng một sự
việc, một
hoàn cảnh trong cuộc sống của con người, luôn
có hai cách nhìn:
1/ Nhìn theo lối thông thường thì mọi người ai cũng biết, đó là
cái nhìn mang đến sự khổ đau
cho mình, cho người và cho tất cả chúng sanh.
2/ Nhìn theo tám
phương cách sống như thật
trên đây. Đó là cái nhìn mang đến sự an vui, hạnh phúc cho mình, cho người
và cho tất cả
chúng sanh.
Tám cách nhìn trên đây là một sự thật của
con người, chứ không phải là triết lý, giáo điều, kinh tạng, chú thuật, v.v... Tám cách
nhìn trên
đây
là tám cách nhìn
thuộc về đạo
đức làm người không làm khổ mình,
khổ người, khổ
chúng sanh.
Trên
đây
là bốn sự thật
đã
xác định cụ thể về
cuộc sống của con người, để con người biết cách
khắc
phục mình bằng đạo đức nhân quả; để con
người vượt ra khỏi mọi sự khổ đau của
kiếp làm
người; để mọi người sống một đời sống đạo đức
không làm khổ mình,
khổ người và tất
cả chúng sanh;
để
mọi người mang lại cho nhau một tình
thương yêu
rộng lớn vô bờ bến.
|
|
Í
Ý NGHĨA
CỦA MỖI CHÂN LÝ
ậy, mỗi chân lý mang theo ý nghĩa đối với kiếp sống của loài người như thế nào?
I/ CHÂN LÝ THỨ NHẤT: “Khổ”
Khổ là chân lý thứ nhất của
loài người. Sống trên đời này không ai là không khổ. Đó là một sự thật chắc chắn không thể có ai nói khác được.
Vậy
trạng thái khổ như thế nào?
Trạng thái khổ đau của con người gồm có bốn khổ gốc: sanh2, già, bệnh, chết.
1- Sanh khổ:
Sanh nghĩa là
gì? Sanh là cuộc sống của chúng ta, nhưng nói đến cuộc sống thì cần phải
2-
Sanh là cuộc sống, đời sống, chứ không có
nghĩa sanh đẻ
nói đến những vật chất như: thực phẩm, y phục,
nhà ở, đồ đạc, tiền bạc, đất đai, ruộng vườn, v.v... Những vật này để phục vụ cho đời sống.
Những vật chất này làm
ra phải do sức lao động bằng chân tay
hoặc bằng trí óc. Do sức lao động
bằng trí óc hay tay chân
làm ra vật chất thì phải chịu nhiều vất vả, cực
khổ, nhọc nhằn, gian nan,
v.v... Vả lại, đời sống còn cần phải xã giao và giao tiếp với mọi người, mọi vật, nên có lắm
điều sinh ra
nghịch ý, trái lòng, bất toại nguyện,
v.v... Đó gọi là sanh, sanh là một sự khổ như thật, không thể có ai chối cãi và phủ nhận đời
sống con người là không khổ. Do mọi người đều
chấp nhận nó là sự thật, nên nó là chân lý.
2- Già khổ:
Già khổ là như thế nào? Già khổ là cơ thể suy yếu, đi đứng không vững vàng, tay chân run
rẩy, thường mệt nhọc, khó thở, tâm trí lẫn lộn
hay
quên, muốn làm việc gì cũng làm
không
được,
ngồi một mình thì cô đơn buồn khổ, v.v...
Đó
là già khổ như thật, không ai chối cãi và phủ nhận
được.
Già khổ là một sự thật hiển nhiên mà mọi
người đều phải chấp nhận. Do mọi người đều chấp nhận nó là
sự
thật, nên nó được gọi là chân lý
của con người.
3- Bệnh khổ:
Bệnh
khổ là
gì? Bệnh khổ là cơ thể bệnh tật, đau nhức khó chịu như: đau bụng, nhức đầu,
ngứa
ngáy,
mệt mỏi, bất
an, nóng, lạnh, tê,
chóng
mặt, v.v... Đó là bệnh
khổ như thật, không ai chối cãi và phủ nhận được.
Bệnh khổ là một sự thật hiển nhiên mà
mọi người đều phải chấp nhận. Do mọi người đều chấp nhận nó là
sự
thật, nên nó được gọi là chân lý
của con người.
4- Chết khổ:
Chết
khổ là gì? Chết khổ là sự dừng hơi thở,
nhưng trước khi dừng hơi thở thì con người phải
thọ lấy những sự khổ đau tận cùng của thân và
tâm. Tâm thì lo âu cho những người thân: anh,
chị, em, con,
cháu... lo
lắng những việc làm
chưa xong còn bỏ dở... nuối tiếc
lúc phân ly hay
rất
sợ hãi trước cái chết... Còn về cơ thể bị bệnh đau nhức bất an, trăn qua, trở lại, vật vã người,
mệt
nhọc khó thở, v.v... cho đến
khi kiệt sức mới chịu dừng
hơi thở,
dừng
hơi thở tức là
chết... Đó là chết khổ như thật, không ai chối cãi và phủ nhận
được.
Chết khổ là một sự thật hiển nhiên mà mọi người đều phải chấp nhận. Do mọi người
đều
chấp nhận nó là sự thật, nên nó được gọi là chân lý
của con người.
Bây giờ,
quý bạn đã hiểu
sanh, già, bệnh, chết là một sự khổ như thật. Vì thế, nó thuộc về chân lý khổ. Khi đã xác định kiếp
làm người là phải chịu khổ như vậy, có nghĩa là làm con
người thì không ai ra khỏi qui luật này. Ngoại trừ những người nào đã tự
xây dựng cho mình một nền đạo đức
nhân bản - nhân quả trên thân tâm
của họ, thì qui luật ấy không còn tác động vào thân tâm họ được.
II/ CHÂN LÝ THỨ HAI: “Nguyên nhân sinh ra khổ”
Nói đến những hiện tượng đau khổ: sanh, già, bệnh, chết thì không còn ai mà không biết,
nhưng nói đến nguyên nhân sinh ra khổ đau thì
ít ai biết đến. Vậy nguyên nhân
nào sinh
ra sanh,
già, bệnh, chết?
Nguyên nhân sinh ra sanh, già, bệnh, chết,
chính là “lòng ham muốn” của con người.
Khi
sinh ra đời, không có người nào là không có
lòng ham muốn, ham muốn
nhiều hay
ham muốn ít, nhưng mọi người khéo che đậy, chứ
tâm ham muốn thì người nào cũng giống như
người nào, không có khác nhau.
Lòng ham muốn là chân lý thứ hai, nơi
sinh ra muôn thứ khổ đau, hay nói cách khác là
nguyên
nhân
tập hợp mọi sự khổ đau của kiếp làm người. Chân lý này đúng như thật, nhưng
con người không còn có một nguyên nhân nào khác hơn nữa, ngoài nguyên nhân này. Cho nên,
làm
con người thì không ai là không có lòng
ham
muốn. Vạn vật sinh tồn trên quả đất này đều có một nguyên nhân ham muốn này mà
thôi (ham muốn sống). Ham muốn sống là một chân
lý như thật, không còn có ai chối cãi được.
III/
CHÂN LÝ THỨ BA: “Tám phương cách”
Đó là phương cách để sống đạo đức nhân bản
- nhân quả. Đau khổ của con người là một loại
bệnh nghiệp, do hành động nhân quả của mỗi
con người tạo ra cho chính mình. Bệnh do chính
mình tạo ra
cho
mình, chứ không ai ban tai hoạ, giáng bệnh.
Vậy
có phương thuốc nào trị hết bệnh
nghiệp khổ đau của con người chăng?
Bệnh
nghiệp nhân quả do chính
từ
hành động
của mình mà có, nên con người cũng có một
phương thuốc bằng hành động của chính mình
đối trị và chuyển
hoá bệnh nhân quả rất là thần diệu. Nhờ đó mà con người hoàn toàn hết bệnh, hay nói cách khác là làm chủ mọi sự khổ đau
của kiếp người.
Đó là phương thuốc có tám vị hợp lại thành
một toa thuốc: “Đạo đức nhân bản - nhân quả
không làm khổ mình, khổ người”.
Trên cuộc đời này, kẻ nào sống không làm
khổ mình, khổ người là
kẻ
đã làm chủ được
bốn
chỗ đau khổ: sanh, già, bệnh, chết.
Cho
nên, phương thuốc đạo
đức
này, nếu ai chịu uống
thuốc thì bệnh khổ sẽ chấm
dứt. Còn ai không
chịu uống thuốc
này thì không có một
vị
thầy thuốc nào cứu mình được, dù là thần y, thánh dược cũng chỉ vô phương cứu chữa. Bởi vì bệnh
do
nghiệp nhân quả ác,
thì chỉ có phương thuốc tám
vị nhân quả thiện, tức là đạo đức nhân bản -
nhân quả mới
cứu được bệnh nhân. Nếu bệnh nhân không chịu
uống thuốc này
thì không có ông Trời,
ông
Thánh nào cứu được.
Bệnh nhân
quả ác là do chính mình tạo ra như trên chúng tôi đã nói, thì phải do chính mình
uống thuốc
nhân quả thiện mới trị được.
Phương thuốc đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, khổ người là chân
lý
thứ ba của đời người. Nó xác định và hoá giải sự khổ đau của
kiếp người, giúp cho con
người có một đời sống thanh thản, an vui và
hạnh phúc như thật. Những hành động đạo đức
cao
quý tuyệt vời này trên đời không thể lấy gì so sánh được.
Chính vì nó không làm khổ mình, khổ người,
luôn đem lại
sự an vui và
hạnh phúc
chân thật cho mình, cho mọi người, nên
mới
thật sự là chân lý cao quí và cao thượng.
Đó
là một chân lý như thật, không còn ai phủ nhận được.
thuốc đặc trị khác trị được
bệnh nghiệp khổ này,
thì chúng tôi căn cứ vào thời gian lịch sử của loài người mà xác định rằng: không có phương thuốc nào khác ngoài phương thuốc tám
vị đạo
đức
nhân bản
- nhân quả.
Tại
sao chúng tôi dám xác định được như
vậy?
Từ khi con người có mặt
trên hành tinh này,
đã
phát minh ra nhiều triết thuyết và nhiều tôn
giáo. Trong mỗi tôn giáo có giáo điều và giáo lý, nhưng không giải cứu được bốn bệnh khổ này. Nghĩa là con người
vẫn phải chịu qui luật nhân
quả: sanh, già, bệnh, chết.
Có bao nhiêu tôn giáo đã dạy con người tu tập
có thần thông phép thuật, có luyện thuốc trường
sanh bất tử. Nhưng cuối cùng, đến
ngày
nay con người vẫn chưa thoát ra khỏi qui luật
sanh tử, luân hồi...
Trên
hành tinh này có một người thoát khỏi
bốn chỗ khổ đau. Đó là
Thích Ca Mâu Ni, Ngài biết dùng loại thuốc đặc trị nhân bản - nhân quả này. Vì thế, loại thuốc này trở thành chân lý như
thật của loài người, mà không còn ai dám phủ nhận.
IV/ CHÂN LÝ THỨ TƯ: “Một trạng thái
Thanh Thản, An Lạc, Vô Sự
của Tâm”
Đó là một trạng thái thanh thản, an lạc và vô
sự của tâm. Một người
biết sống trong đạo đức
không làm khổ mình, khổ người, tức là biết cách
sống đúng như chân lý thứ ba, thì người ấy thân
tâm
thường có trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự. Luôn luôn lúc nào tâm hồn cũng bất động trước mọi chướng ngại pháp. Đó là chân lý thứ
tư
của con người.
Chân lý thứ tư xác định rõ ràng một cuộc sống đầy đủ trạng thái thân tâm trong sáng,
hồn
nhiên, thanh thản,
an lạc, thoải mái
và
dễ chịu rất là hạnh phúc. Một trạng
thái sống như vậy, là con người không ai mà không nhận ra
được nó, Cho nên nó là một chân lý như thật, không thể nào có ai nói khác được.
Trên đây là bốn chân
lý thật sự của kiếp
người.
Nó
không phải là triết lý mà
cũng không phải là tôn giáo. Cho nên, khi con người có mặt
thì
chân lý ấy cũng có mặt trên
hành
tinh này, và
đến
bây giờ chân lý ấy cũng không thay đổi. Dù
sau
này con người có sống đến vô lượng
thế kỷ,
thì chân lý ấy cũng vẫn như vậy. Mặc
dù
con người có nâng cao
trình độ kiến thức,
khoa học
và công nghệ có phát triển cùng tột đến đâu, thì chân lý ấy cũng không lỗi thời. Tại sao vậy?
Vì nó là chân lý của con người, con người còn là chân lý còn, con người mất là chân lý mất. Vì thế, không ai còn có thể thêm bớt một
điều gì vào trong chân lý đó được cả. Chính vì
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!