ĐỜI SỐNG HIỆN THỂ VÀ SIÊU THỂ
Chân lý
của sự thật, của Công Luật vũ trụ, của tổng tinh hoa, của chân tính, là sức
mạnh lớn nhất của vũ trụ. Bản chất giá trị ấy là sự thực đã có trong chúng ta
một cách tuyệt đối. Nếu không có trong chúng ta thì nhân loại sẽ không có trí
huệ uyên bác và không có vĩ nhân, siêu nhân. Đại diện cho giá trị siêu thể là
Thánh nhân, là Phật nhân, là tất cả các vĩ nhân.
Giữa siêu
thể và hiện thể khác chỗ nào?
Thực ra
hai đời sống ấy nó tròn đủ hết chứ không khác, nhưng chỉ khác một điều là còn
bị mắt kẹt mà thôi. Mắc kẹt cho nên mới có hiện thể và siêu thể. Chứ thực ra
bản chất giá trị siêu thể chúng ta đã có. Khi mà chúng ta trả lại tất cả những
thứ đã mượn là chỉ trả lại phần thô, trả lại phần tập khởi thôi. Cho nên khi
trở về siêu thể, nếu chúng ta đạt được giá trị tổng thể thì hoàn toàn đầy đủ,
giống như đời sống của chúng ta hiện nay, mà còn cao hơn gấp tỉ lần hiện nay.
Vì đời sống siêu thể là đời sống tròn đủ, mà đời sống hiện thể là còn bị mắc
kẹt thân ngũ ấm, mắc kẹt ý thức khởi, mắc kẹt vọng niệm, mắc kẹt tương tác giữa
thức và trần. Nếu chúng ta không còn mắc kẹt những thứ đó, là tức khắc đời sống
siêu thể sẽ đến với chúng ta. Thì chuyện bỏ thân này và không bỏ thân này đều
giống nhau, tuyệt đối như vậy.
Đối với
các Tổ đã thành tựu được chỗ siêu thể, thì các Tổ dù đang sống trong đời sống
hiện thể, mà đời sống siêu thể vẫn hiển nhiên trong hiện thể đó. Như đức Duy Ma
Cật, đức Ca Diếp hay đức Đại Trí Văn Thù Sư Lợi, hoặc những vị trong Tứ Quả
Thánh là họ đã có đời sống siêu thể trong hiện thể. Như vậy, việc bỏ thân hay
không bỏ thân là không quan trọng, dùng thân để làm việc, hay không dùng thân
mà làm việc một kiểu khác thì đều giống nhau. Bởi vì các vị ấy hiện được tất cả
các pháp đầy đủ nghĩa là không bị gián đoạn, còn chúng ta bị mắc kẹt, nên không
đạt được điều đó thôi. Chứ thật ra đời sống siêu thể nó đã có trong chúng ta.
Chỗ này là bí quyết, chỗ này là hoàn chỉnh nhất của sự nghiệp Công Luật tổng thể
mà tất cả Dòng Chơn phải đạt được điều đó. Khi chúng ta đạt được điều đó thì
việc sinh tử đối với người Công Luật không còn là quan trọng nữa. Bởi vì có mất
gì đâu mà quan trọng, vì khi các dòng nghiệp không còn trói buộc nữa, thì đời
sống siêu thể đã có ngay trong chúng ta, thì cái chuyện diệt độ, hay bỏ thân là
bỏ phần thô thôi, còn phần tinh chất không bỏ. Vì nếu bỏ phần tinh chất thì
siêu thể không còn nữa, mà siêu thể không còn nữa thì chân lý vũ trụ này có
nghĩa lý gì đâu.
Chúng ta
không thể làm triệt tiêu phần siêu thể của vũ trụ được, vì phần siêu thể của vũ
trụ đã hằng hữu vô tận, vô cùng đã có trong chúng ta rồi. Một khi chúng ta hoàn
chỉnh phần siêu thể đó thì làm sao mất, ngay cả quá khứ, hiện tại, vị lai cũng
không còn quan trọng nữa. Vì quan trọng ở đây là quan trọng của nhân thừa, của
các động nghiệp báo ứng thôi, chứ đối với các bậc siêu thể thì quá khứ, hiện
tại, vị lai đều là phương tiện hóa; đều là tính công bằng, tính dung chứa và
trãi rộng giá trị pháp thân đó, để hoàn chỉnh sự nghiệp siêu thể trong vạn thể
chứ không mất cái gì hết.
Cho nên ở
trong chính lý đã nói rõ về vấn đề không thể nào tan biến tri thức ánh sáng, vì
tri thức ánh sáng là cái biết. Nên không ai bị tiêu biến cái biết trước khi
chết và sau khi chết cả, đó là phần siêu thể không bao giờ tan biến, thì làm gì
có cái mất. Còn và mất là sự phân biệt của thô cấu, của những tạp chất biến đổi
về phần thô, phần hiện hữu, chứ còn phần tinh chất thì đâu có mất, nên không có
còn mất.
Như vậy, phần hiện thể là phần thô, phần siêu
thể là phần tinh hoa. Đời sống hiện thể là chúng ta đang
sống trong phần thô, tức là cái mượn của thân tứ đại và thân ngũ ấm là phần thô và kết tập tất cả hữu vi là phần thô. Nhưng
trong phần hiện thể có phần siêu thể, là phần tinh hoa đã được kết tinh, nó
không có thời gian và không gian của sự sống và chết. Như vậy, cái
nền của hiện thể là để hóa thân trong siêu thể và siêu thể hóa hiện thể.
Các căn
nguyên trong phần hiện thể về phần tướng khi mà mất phần thô lập thì tất cả
những giá trị của phần siêu thể ấy không mất. Bởi vì như tôi đã nói có tánh
thấy mới lập căn nhãn, có tánh nghe mới lập căn nhĩ, có tánh hương tích mới lập
căn tỉ, có tánh thu hút tinh hoa và thọ nạp tất cả những tinh hoa mới lập căn
thiệt, có pháp thân mới lập căn thân. Như vậy, tất cả có cái gốc mới ra cái
ngọn. Tức là ra hình căn, mà hình căn là phần hiện thể, nhưng khi trở về siêu
thể, thì tất cả căn nguyên của tính chất ấy không bị mất, mà phần siêu thể vẫn
đầy đủ của thấy, nghe, biết… Cho nên mới gọi là chết không mất thứ gì, chết chỉ
làm biến đổi phần hóa thân và thị hiện thôi chứ không mất phần tính.
Trở về siêu thể là trở về với chân bản ánh
sáng tổng thể, là trở về với tổng tinh hoa, không còn các hoặc lậu và các
nghiệp thức, không còn dính mắc và bị kẹt trong các căn nữa. Vì vậy, Đức Phật
ngài nói rằng: Giữa hiện thể và siêu thể nó khác ở chỗ là: người bị các nghiệp
thức chuyển động và người đã thắng phục được các nghiệp thức chuyển động. Vậy
muốn có đời sống siêu thể thì chúng ta phải dẹp được tất cả các giặc loạn của
tâm thức, các nghiệp thức không còn nữa. Chúng ta thắng phục các nghiệp thức,
tròn đủ tất cả những công hạnh
và tròn đủ một chân tâm, thì đời sống siêu thể sẽ có trong đời sống hiện thể.
và tròn đủ một chân tâm, thì đời sống siêu thể sẽ có trong đời sống hiện thể.
Đời sống
hiện thể là báo thân, còn siêu thể là gốc của pháp thân. Vậy hiện thể là đời
sống huân tập của cái ngọn. Đời sống siêu thể là đời sống của cái gốc. Cái gốc
không bị biến đổi, nên gọi là thường trụ, mà thường trụ thì đâu còn biến đổi
của quá khứ, hiện tại, vị lai. Vậy quá khứ, hiện tại, vị lai vẫn là đời sống
của siêu thể và hóa thân trong hiện thể để độ sinh, đó là theo Công Luật của Bồ
tát, Thánh nhân. Như vậy, mất đời sống hiện thể, mà được đời sống siêu thể, thì
đời sống siêu thể lớn hơn gấp tỷ lần đời sống hiện thể, vì đời sống siêu thể là
đời sống của gốc, còn hiện thể là đời sống của ngọn.
Cho nên có
nhiều người họ đã chứng biết rồi họ muốn đi cho sớm, họ muốn diệt độ bỏ thân
cho mau. Nhưng nếu họ uống thuốc độc chết thì phạm tội sát sanh, mà phạm tội
sát sanh thì mất đời sống siêu thể. Còn nếu mong cho ai đó họ đến đánh giết
mình, để mình đi cho sớm, nếu nghĩ như vậy thì cũng cố ý phạm tội sát sanh. Vì
vậy nên cứ sống, cứ sống trong đời sống hiện thể để quyết công luyện, công phu,
để thành đạt đời sống siêu thể trong hiện thể đó.
Bài hôm
nay là bài nhấn mạnh giá trị hiện thực, của sự sống hiện thể và siêu thể có
thực trong sự trọn vẹn đầy đủ nhất, không thêm bớt của vũ trụ quan, của Đấng
Thống hóa, của khắp cùng chân tính ánh sáng bao la, đã có trong chúng ta một
cách đầy đủ như vậy. Có điều là chúng ta phải rèn luyện, phải công phu, phải
huân tập để chúng ta trở về với giá trị thực, để ta có một đời sống siêu
thể một cách tròn đủ mà không còn bị giới hạn của thời gian và không gian.
SIÊU
HÌNH VÀ HỮU HÌNH
(Ngày
20/04/07, Động Bạch Ốc)
Siêu hình
trong hữu hình và hữu hình trong siêu hình, hay còn gọi là sự nghiệp vũ trụ hóa
siêu thể trong hữu thể và hữu thể trong siêu thể. Thật ra điều này hoàn toàn
không có tính mâu thuẫn nghĩa siêu thể và hữu thể. Như vậy cái gì siêu hình
trong hữu hình và cái gì hữu hình trong siêu hình?
Bây giờ chúng ta rút thái dương hệ chúng ta
ra để nói, thì chúng ta thấy rằng: Không có hành tinh nào quay theo mặt trời mà
không có lẽ sống tất yếu của nó, đó là giá trị đặc thù riêng của chính nó, vì
trong hữu hình có siêu hình và trong siêu hình có hữu hình. Nếu thoạt đầu ta là
một bác học, ta ở quen trong thế giới hữu hình có siêu hình như thế giới hành
tinh này. Chúng ta qua Kim Tinh là một trong những hành tinh gần mặt trời nhất,
ở nơi đó không có loài người, nhưng không có nghĩa là không có giá trị sự sống
của các loài khác. Như vậy, nếu thân trung ấm sống trong Kim Tinh mà thuộc về
các loại quỷ, thì sự nóng đốt và bức phá của nó không cần hữu hình. Vậy, nếu
một bác học thẩm định về giá trị của cõi thế có hữu hình, đến với cõi Kim Tinh
ấy thì trong hữu hình lại có siêu hình. Thế thì không có một hành tinh nào
mà không có giá trị sự sống nhất định của nó và tính đặc thù của nó.
Nên đức Như Lai nói: Trong hữu hình có siêu hình và trong siêu hình có hữu
hình.
Thế nào là
trong siêu hình có hữu hình? Như thân trung ấm cũng có thể tạm gọi là thân siêu
hình, nhưng nó có hữu hình là nó có chu trình quay của lực năng âm dương vạn
tỏa để nó tiếp thu, tiếp dung giá trị hóa thân trung ấm mà sống trong cõi đất
thế giới Kim Tinh đó. Nếu không có lực quay chuyển động của sự hợp nhất âm
dương thì thân trung ấm sẽ bị tan biến sao? Vì vậy có thế giới vô hình của thân
trung ấm thuộc về các loài A tu la và ngạ quỷ.
Về tài
liệu mật của Nga và Mỹ sau khi đến được mặt trăng. Khi đến được mặt trăng người
ta cứ tưởng là ở đó không có một loài gì sống cả, nhưng đột biến có các loài
xuất hiện và tan biến tức khắc làm cho tất cả những phi hành gia đều ngạc
nhiên, đó là trong hữu hình có siêu hình và trong siêu hình có hữu hình. Như
ngay trong Mạch Rồng chúng ta đang sống là thế giới hữu hình, nhưng đêm về tự
nhiên lại hiện ra những hình thể kỳ dị, mà người ta cho là thần linh hoặc ma
quỷ khiến người ta hoảng sợ. Tức trong hữu hình có siêu hình. Như vậy đặc tính
của công luật không có một hành tinh nào mà không có giá trị, thậm chí những
loài kết nghiệp quá nặng nề mà người ta gọi là ma tà, quỷ quái, nó có thể nương
những chỗ dơ bẩn nhất nó ở và nó nhận nơi đó làm nhà của nó, mà người ta gọi là
ông năm, bà bảy; ông lên, bà xuống hay gọi là mắc đàng dưới đó.
Trong thế
giới siêu hình có hữu hình, như Kim Tinh là không có đời sống nhân loại như
chúng ta, mà nó có hữu hình đó là Kim Tinh và các loài A tu la, ngạ quỷ phát
triển, chính nó mới sống được với Kim Tinh chứ con người như chúng ta lên Kim
Tinh là bị cháy mất. Vậy người ta cho rằng trong chính thái dương hệ ấy, có một
vài hành tinh có loài người và các loài, còn bao nhiêu không có loài người.
Vậy, không có loài người thì có loài ngạ quỷ, không có loài người thì có loài A
Tu La, không có loài người thì có loài địa ngục, chi vi, thống khổ sống trong
quỹ đạo đó. Nó vượt trên khoa học biện chứng, mà nó là siêu khoa học thuộc về
giá trị của tính và thể, của siêu thể và siêu thể hóa thể.
Như vậy
trong thế giới hiện hữu có siêu hữu như Kim Tinh, và trong thế giới chúng ta là
hữu hình nhưng đồng thời cũng có siêu hình. Siêu hình đây là trạm trung chuyển,
chưa gởi vào những quỹ đạo mới hoặc là thoát sinh vào quỹ đạo siêu hoặc đọa.
Trung chuyển là chờ đợi theo cộng nghiệp chuyển hóa để sinh vào những cấp
thượng, hoặc sinh vào những cấp hạ.
Ma thì có người gặp, có người lại không, đó
là thuộc về nhân duyên, có duyên thì gặp không duyên thì không. Thực ra ma và
Phật là phát sinh từ tâm, vì tâm là giá trị tổng hợp của sự sống, tâm
thượng sinh ra Phật, tâm hạ sinh ra ma quỷ. Như vậy ma hay Phật
cũng từ một tâm mà ra, nó chỉ khác biệt là do sự giảm trừ của tất cả những phúc
âm, giảm trừ những năng lượng ánh sáng mà hóa ra đen tối. Chính cái đen tối đó
là ma, chứ ma không phải là một loài khác, mà ma từ một sự sống nhất định về
giá trị của tâm linh bị biến đổi và mất chất về giá trị ánh sáng mà trở thành
ma nghiệp. Thì nghiệp đó nó dẫn chúng ta đi làm những chuyện ma. Như vậy, phật
phật, ma ma để bảo trì cho giá trị kim tính, tức giới thiệu về tính kim tính,
mà kim tính thì mới có cung kim và tây
phương cực lạc trong chúng ta.
QUY
LUẬT NGŨ HÀNH
Kim, mộc,
thủy, hỏa, thổ cùng tổng tinh hoa vũ trụ đã sinh ra tâm can tì phế thận. Cụ thể
là:
Thủy là
nền, là bản chất chính sinh ra thận, cùng kết hợp tổng tinh hoa khác.
Hỏa là bản
chất chính sinh ra tim, cùng kết hợp tổng tinh hoa khác.
Kim là bản
chất chính sinh ra phổi, cùng kết hợp tổng tinh hoa khác.
Mộc là bản chất chính sinh ra gan, cùng kết
hợp tổng tinh hoa khác.
Thổ là bản
chất chính sinh ra bao tử, cùng kết hợp tổng tinh hoa khác.
Vậy nhân
tố chính quyết định về thận là thủy, nhân tố chính quyết định của tâm là hỏa,
nhân tố chính quyết định của bao tử là thổ, nhân tố chính quyết định của gan là
mộc, nhân tố chính quyết định phổi là kim. Thì trong quy luật ấy không thể sai
chạy, vì các bộ phận chức năng ấy có liên quan đến hệ thống ngũ hành.
Chẳng hạn
như gan là hệ thống bài tiết, thì mộc là các loại cây có hệ thống bài tiết
trong sinh thái thiên nhiên. Còn phổi là có liên quan đến kim, tức tính chất
của kim và oxy có trong hư không ấy. Bao tử là chứa nhóm tất cả mọi thứ, thì
bản chất chính là đất, tức thổ là trung hòa tử địa đại chứa nhóm mọi thứ.
Nói về lý
tương ưng và tương khắc thì: hỏa sinh thổ tức hỏa là biểu trưng cho ánh sáng.
Thì phải có cái tâm trước rồi mới lập địa sau. Cũng như mọi sự va đập của thiên
thạch để hình thành ra hồng cầu lửa, từ đó mới tạo lực hút vô lượng vi trần và
sinh ra hành tinh trái đất. Thổ sinh kim, kim sinh thủy, thủy sinh mộc, mộc
sinh hỏa. Về thủy sinh mộc chúng ta xác định về tính khoa học, nếu như không có
nước thì tất cả các loại cây trên mặt đất phải bị triệt tiêu; còn đối với đất
chỉ là sự ký gởi, mà nước thì mới đem lại sự sống chính cho cây.
Còn về
tương khắc thì mộc khắc kim, vì cây mà bị đốn ngã là do sắt, hoặc là trong lòng
đất mà có sắt thì cây mọc không được. Như hỏa thì khắc thủy, vì lửa cháy lên mà
ta đem nước tưới vào thì lửa tắt. Nên Đức Phật nói, nếu đem cực thủy và cực hỏa
với trọng lực bằng nhau mà hiệp lại thì nó sẽ làm tung nổ và bị triệt tiêu. Còn
thủy khắc thổ, như chúng ta dùng đất để đắp bờ ngăn nước vậy.
Vậy trong
quy luật tương sinh và tương khắc ấy nó hoàn toàn đúng trong tính vũ trụ. Nhưng
đó là tính khách quan, còn về tính chủ quan về giá trị hóa của tương sinh và
tương khắc, thì đó là siêu đức hóa. Nếu chúng ta đứng về trung tâm ánh sáng của
siêu đức hóa thì chúng ta sẽ hóa được quy luật của tương sinh và tương khắc;
hóa được là vì đức thắng số. Nên Như Lai cùng các vị có chính vị đã ra khỏi
định luật tương sinh và tương khắc.
Vì vậy
những người còn nằm trong định luật ấy nếu có đức thì họ có thể hóa giải được
định luật tương khắc ấy. Vì đời sống của tử vi là đời sống gián tiếp, mà đời
sống của vật lý là đời sống của trực tiếp; vì vậy cho nên con người dùng đức để
hóa giải được tính gián tiếp ấy. Còn nếu như nó trực tiếp hoàn toàn giống như
nước và lửa; dụ như người đàn ông là cục lửa, mà gặp người đàn bà là thùng nước
thì sẽ không bao giờ ở cùng nhau được, vì nó là trực tiếp. Còn đây chỉ nói về
mạng hỏa và mạng thủy thì nó là gián tiếp nên mới dùng đức để hóa giải được.
Về quy
luật ngũ hành giữa tương ưng và tương khắc nó có trong tính khách quan và chủ
quan. Vì vậy nếu con người chúng ta tu chính đúng theo công luật thì có thể hóa
giải được ngũ hành ở tính chủ quan và khách quan đó. Nên người thiên chúa giáo
họ đã lấy tấm lòng tuyệt đối hướng về trung tâm, hướng về thượng đế; tức họ
dùng đức tin mang tính thánh kinh ấy cũng có thể vượt ra quy luật ấy. Nên họ
không quan trọng về ngày giờ và tuổi tác trong hôn lễ vợ chồng.
Trong đời
sống của người theo đạo Thiên Chúa thì họ vẫn có những cặp vợ chồng hạnh phúc
và cũng có những cặp tan rã; cũng có những cặp giàu có và những cặp nghèo khổ.
Cũng như đối với người Phật giáo cũng vậy hoàn toàn không có tuyệt đối. Như
vậy, đối với quy luật ngũ hành về tương ứng và tương khắc trong tính gián tiếp
thì có thể dùng đức để vượt qua.
Đức lão tử
thiết lập ngũ hành nhằm sắp xếp những trật tự đối với những hạt nhân, những
mạng lý chúng sinh còn ở trong yếu ớt của ngoại biên chưa có chủ thể, chưa có
nghị lực để vượt ra được. Còn những người có tâm tu tốt thì có thể vượt qua quy
luật tương khắc trong ngũ hành mang tính khách quan gián tiếp này.
Tóm lại,
về thể chất của ngũ hành thì chính nó chịu trực tiếp, còn nhân bản hóa thì chỉ
chịu gián tiếp mà thôi.
Trong định
luật ngũ hành cũng rất sâu sắc vì người ta chia ra rất nhiều loại. Ví dụ như
mộc, thì nhiều loại mộc, như cây mọc trên đá, cây mọc trên đất, cây mọc trên
đỉnh núi, cây mọc dưới chân núi, cây mọc dưới đồng bằng. Tại sao vậy, vì nó có
mọc nhiều chỗ nên người ta cho nó mọc nhiều chỗ. Hay vàng thì cũng có nhiều
loại, như vàng ở trong lòng đất, vàng ở trong núi, vàng ở trong cây kiếm…. Nói
chung là vàng ở khắp mọi nơi, lửa cũng thế, đất cũng thế, nước cũng thế. Chính
vì vậy mà có nhiều khi vàng và lửa vẫn cho gặp nhau, ví dụ như mạng kiếm phong
kim, mà kim khắc hỏa; nhưng người mạng kiếm phong kim đó có quyền lấy người vợ
là Sơn đầu hỏa, vì lửa trên đầu núi đối với cây kiếm kia không ảnh hưởng gì nên
có thể lấy nhau được. Hoặc có người mạng thiên hà thủy, là dòng sông trên trời;
nhưng nếu gặp thích lịch quả, là lửa sấm sét , thì có thể lấy nhau được.
Vậy trong
dịch lý này thì nó vẫn có cái tương đối của nó để chế hóa cùng nhau, nhưng đối
với người công luật thì chúng ta không nên đặt nặng điều đó.
16/11/Kỷ
sửu
ĐỒ
THƯ VÀ QUỸ CỰC
Đồ thư và quỹ
cực là rất hiện thực hóa trong đời sống của chúng ta thì hôm nay chúng ta sẽ
làm sáng tỏ về nghĩa lý của đồ thư và quỹ cực. Thường thì chúng ta hay nói trên
đầu môi là đồ thư quỹ cực nhưng về nghĩa lý của đồ thư và quỹ cực là như thế
nào?
Quỹ cực là
quỹ số từ trung tâm chiếu biến ra bên ngoài và đồng thời cũng quy chiếu trở về
trung tâm. Và nhân tính quỹ cực ấy mà có đồ thư. Vậy đồ thư là một hình đồ cụ
thể được trình bày có tính hoàn chỉnh bởi âm dương, bởi ngũ hành cũng như tất
cả mọi hệ thống quy chiếu từ lớn cho đến nhỏ cũng nằm trong hệ thống của đồ
thư. Cho nên nếu chúng ta cấu trúc đồ hình mà không đúng theo quy trình của đồ
thư thì nó sẽ không được hoàn chỉnh về mặt kiến trúc cũng như về mặt nghệ
thuật. Nên buộc phải có hệ thống đồ thư và quỹ cực. Nếu hạt tâm lý tính mà định
chiếu thì sẽ thực hiện được hoàn chỉnh về hệ thống ấy. Và từ đồ thư quỹ cực ấy
nó hỗ trợ cho cuộc sống của chúng ta phát triển về hạt tâm lý tính.
Ngài hỏi
ông Chơn Hoàng Quang Quân: thế nào là đồ thư quỹ cực?
Ông Chơn Hoàng Quang Quân: Thưa
Cha, về mặt toán học thì đồ thư tức là đồ thị của một hàm số trong một hệ thống
quy chiếu đã được xác định, mà con người duy ngã đại thể dựa vào đó để thực
hiện tất cả những công trình mang tính cao cấp và cũng có thể dựa vào đồ thị
của hệ quy chiếu xác định đó mà đoán biết được về tương lai.
Như thánh trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm hoặc Cao
Biền… Như vậy, tính chất của quỹ cực là quỹ tích của các điểm cực từ trục trung
tâm Thống hóa đã định sẵn, còn đồ thư là đồ thị được chiếu ra từ quỹ cực đó.
Ngài bảo
ông Chơn Luân Thương Bang trả lời.
Ông Chơn Luân Thương Bang: Thưa
Ngài, đồ thư là những hình đồ được cấu trúc từ nguyên lý của trung tâm, và tất
cả những hình đồ đó được chuyển động trong quỹ đạo bất biến mang tính hỗ tương
và đúng định luật. Nếu hình đồ đó cấu trúc và chuyển động sai lệch khác với quỹ
cực đó thì hoàn toàn bị phá vỡ. Đó là tính nguyên tắc từ nguyên lý của Thống
hóa. Vì vậy khi thiết lập đồ hình thì hoàn toàn căn cứ trên giá trị xác định
định chiếu của quỹ cực trung tâm.
Ngài bảo
ông Chơn Ngọc Biện Hộ trả lời
Ông Chơn Ngọc Biện Hộ: Thưa
Cha, đồ thư là những hình đồ được thiết lập từ trục của trung tâm thần kinh vũ
trụ. Nghĩa của quỹ cực là quỹ tích ấy chuyển động theo quỹ đạo của trung tâm.
Như vậy một khi mà muốn thiết lập một công trình gì chính xác thì phải trở về
trục trung tâm, tức là trở về trong chỗ định chiếu của hạt tâm lý tính. Thí dụ
như Cha đã thiết kế đồ hình quá phức tạp và xây dựng những công trình tròn đủ
của không gian ba chiều là cha đã trở về trục của quỹ cực trung tâm.
Ngài dạy,
đồ tức là đồ hình mà đồ hình ở cấp độ từ vi mô đến trung mô đến vĩ mô. Tất cả
những đồ hình ấy đều có sự chứa nhóm và tàng chứa những giá trị của tính chất,
mà tính chất ấy gồm có những nghĩa lý kinh điển sâu sắc nhất gồm có chiều cao,
chiều rộng, chiều sâu và không có chiều nào mà không chứa trong tàng thư ấy.
Chúng ta thấy tàng thư nó có thể trở thành mối chốt của sách lược, chiến lược.
Tàng thư cũng có thể là các mạch kinh rất là cơ bản trong đời sống của vạn đồ.
Thí dụ như về địa lý thì nó chứa cái lý tất yếu của giá trị tinh hoa dịch lý,
hoặc tàng thư dịch lý, hoặc vạn thù dịch lý. Hoặc chứa lý tất yếu của chiến
lược về địa hình và nghĩa lý của các chiều hướng trong đồ hình ấy. Như vậy đồ
thư là một trong đồ hình có nhiều hình đồ phức tạp. Nghĩa của đồ thư là trong
hình đồ ấy nó chứa nhóm thư tàng và chứa nhóm những lý tất yếu trong không gian
ba chiều và chứa nhóm tất cả những tính chất vô cùng trong đó.
Như vậy đồ thư luôn luôn đi đôi với quỹ cực,
vì có quỹ cực mới có đồ thư. Thí dụ vùng địa linh nơi đây, thì đồ thư là tổng
thể tam thanh, tứ lam, còn quỹ cực là Tu Di La Bảo hoặc là Bia Sơn Ngọc Thanh,
hoặc là Biển hồ thái thanh. Hoặc quỹ cực là đường kinh tuyến từ đông qua tây
như Bia Sơn và Tu Di La Bảo. Như vậy trung tâm đồ thư quỹ cực của vùng địa linh
ở đây là Tam Thanh hợp chiếu và thống nhất được kinh tuyến từ đông qua tây đó
là tính biện chứng. Như vậy cái bí hiệu của nó là:
“Dụng tướng bất nhiễm
tướng” nghĩa là hệ số, thông số chuyên môn
của tính tướng dung thông. Nên thường con người ta không thực
hiện được chuyên môn cao cấp là do bị nhiễm tướng. Mà một khi bị nhiễm tướng
rồi thì chỉ lo phân biệt và làm sai lệch về quỹ đạo nên khó mà thực hiện tiếp
được. Như vậy dụng tướng bất nhiễm tướng thì chúng ta mới có một thông số
chuyên môn của tính tướng dung thông.
Thí dụ như
một nhạc sĩ khi đã nhiễm âm thanh thì không thể nào phát được âm thanh cao cấp.
vậy muốn phát được âm thanh cao cấp và tối thượng cấp thì hoàn toàn không nhiễm
âm thanh; vì nhiễm tức nhiễu. Như vậy đứng trên khách quan của tính nhiễm thì
nó đã bị nhiễu; ví như những cái tivi khi bị nhiễm thì nó bị nhiễu từ nên màu
sắc mờ nhạt không được rõ ràng. Như vậy trong vạn thù đồ thư đã chất chứa không
biết bao nhiêu nghĩa lý kinh điển trong đó. Từ thấp cấp cho đến cao cấp, từ vi
mô cho đến vĩ mô đều có những quỹ đạo của nó, mà một khi ta nắm được trục quỹ
đạo thì ta sẽ hóa giải nó và ứng dụng các tướng pháp ấy hoàn toàn tự tại vô
ngại mà không bị nhiễm trước nó, thì chúng ta mới có thông số của chuyên môn.
Nếu căn cứ
về gốc thì chúng ta hoàn toàn không mất gốc của trung tâm vạn năng, và thực
tiễn về chuyên môn của trung tâm vạn năng đã có nơi ta rồi và chúng ta hiệp
thông cùng các đồ hình trong hiện thực hóa của đời sống về đồ thư quỹ cực. Và
sức mạnh của dung thông đối với tính thể mà chúng ta đã có đây để mà quyết định
về quỹ cực đó. Thí dụ như Cha đã quyết định chuyển được quỹ cực mà đức Mẹ Quán
Thế Âm đã phán lệnh từ năm 1975 tại Tu Di La Bảo, nhưng vẫn chưa đủ phải cho
đến mãi 2003 thì chúng ta đã hoàn thành được quỹ cực đó. Nếu chưa thông khai
thì cũng chưa mở được phố núi danh lam. Nghĩa là không thể thôn tính hết đồ thư
này để đi đến công trình vạn thù được. Vì khi đồ thư quỹ cực chưa nắm tức là
tính thể chưa dung thông, thiên mệnh và nhân mệnh chưa hợp nhất, hoặc thiên tài
và nhân tài chưa hợp nhất, hoặc địa linh và nhân kiệt chưa hợp nhất, hoặc là
vạn đại dung thân chưa hợp nhất.
Như vậy,
đồ thư quỹ cực là sức ánh sáng của tổng thể toàn diện ở trong các đồ hình và
các đồ hình chuyển động trong hệ thống tàng thư và các hệ thống tàng thư được
hình thành vững chải ở trong đồ hình ấy. Thí dụ như sau cuộc chuyển quỹ ở Tu
Di, thì tại A30 người ta đã dựng lên một đồ hình thuộc về sơ cấp. Thì đó cũng
thuộc về tính biểu trưng cho một công cuộc trên con đường chuyển hóa mang tính
lịch sử, nên họ đã cất giữ và đem triển lãm nó rất nhiều lần.
Như vậy,
quỹ cực ở đây là sức mạnh và ánh xạ quang minh của tính chất về địa linh và vận
luật, cũng như có liên quan đến mặt trời đối với chu trình hóa. Vì có liên quan
nên đức Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói: “Ngưu xuất lam điền nhật chính đông” là nói
ngay trên vùng đất thuộc quỹ cực của mặt trời mọc đầu tiên của nó.
Như vậy chúng ta muốn đạt được trình độ để
quyền biến đồ thư quỹ cực và thực hiện những công trình chuyên môn có tính đa
năng quan thì chúng ta phải đạt được câu “dụng tướng vô nhiễm tướng”. Là một sự
thông số về hệ thống chuyên môn của tính chất dung thông thì mới thiết lập được
những công trình cao cấp mà con mắt thường không thể nhìn thấy được nó.
Nếu quá
trình công phu học tập và rèn luyện của chúng ta thông suốt được cửu kinh và
đạt đến mức độ đưa ý thức chúng ta về chân tính thì đồ thư quỹ cực này không có
gì khó cả. Như các vị thiên sứ thần đức ngày xưa đã từng đưa quân ra trận, nếu
không thông đạt về đồ thư quỹ cực thì không thể thắng được quân giặc. Như Cha
trong những thời kỳ còn làm vua, Cha đã từng dẫn quân ra trận và đánh thắng
quân giặc rất nhiều và cũng có lần chỉ sai lầm một chút là bị chết sạch. Thậm
chí bỏ cả nước để chạy qua biên giới. Nói về quá khứ kiếp của Cha là quá thống
khổ, kể cả kiếp này nếu nghĩ lại thật là khủng khiếp; nào là bị đánh đập, lao
tù xiềng xích. Cho nên con người khi đã vào trong thế giới thì thiên vạn nạn nó
luôn vây quanh chúng ta chứ không có sự bình an. Nên các đức Bồ Tát và thánh
hiền từ tiểu vương thân đến đại vương thân đều hóa thân trong thiên vạn nạn và
thiên vạn nạn để hóa thân trong thiên vạn cực của sức mạnh hóa để kết tinh kim
cương chân tâm và thành tựu chỗ vô cùng của nó.
Một khi đã
mang thân làm con người thì từ dân cho đến vua cũng đều có nạn. Nên chư Phật có
một quan niệm là hóa thân trong thiên vạn nạn để thống nhất được thiên vạn
hình, nhằm thông đạt được thiên vạn cơ và thành tựu được chân tính ánh sáng,
làm chủ được vũ trụ. Như vậy đồ thư quỹ cực là sức mạnh toán xuất cho giá trị
bí sô đối với những hạt tâm lý tính thuộc về cấp chân mệnh. Như vậy ai muốn
được chân mệnh và rõ ràng trong sự nghiệp chân mệnh hóa thân thì đi vào đồ thư
quỹ cực. Để đem hết tất cả những tài đức của sức mạnh tải trọng giá trị đồ thư
quỹ cực và thu tóm đồ thư quỹ cực về trong hệ thống ấy để thực hiện những công
trình chuyên môn và thiết lập những công trình quốc độ của tứ siêu độ.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!