Nếu đứng trên tính chủ quan thì xác định Trung Tâm Vạn
Năng là Thượng đế thì hoàn toàn mang tính Thần học. Mà Thần học là chỉ biết Thượng
đế sinh ra muôn loài theo tinh thần tối linh hoặc độc thần. Nếu xác định như vậy
thì mất đi tính khoa học. Còn nếu xác định Trung Tâm Vạn Năng theo giáo lý nhà
Phật là “vô minh sinh ra hành”. Thì vô minh là đơn vị gì, là hệ thống gì và giá
trị nguồn cội thuộc về thứ gì mà sinh được hành?
Nếu đặt vấn đề của Phật học thì vô minh là đen thẳm tối tâm, nếu đứng trên
khách quan là không có chủ thể, mà không có chủ thể thì sẽ rơi vào quy trình độ
của Phật đạo. Có nghĩa là Phật đạo là chủ thể chứ không phải Trung tâm vạn năng
là chủ thể. Chính vì đó Thiên chúa giáo bẻ gãy Phật giáo chỗ này. Và họ cho Phật
giáo là mất chủ thể vì không thừa nhận Thượng đế và không thừa nhận chỗ tối
linh của vũ trụ, mà chỉ biết có Phật thôi thì rõ ràng đã mất gốc. Vì thế mà các
đức giáo hoàng đã từng cho rằng: Phật giáo không thuộc về tôn giáo.
Còn Phật giáo thì đã kích Thiên chúa giáo quan niệm về chủ thể là Thượng đế,
thì hoàn toàn không phù hợp về sự nghiệp hóa. Nghiêng về phần khoa học thì Phật
giáo nhân ở bản chất khoa học ấy mà đã kích Thiên chúa giáo. Chính vì đó mà hai
tôn chỉ này họ có những trường phái nhất định để quan niệm về vũ trụ quan không
giống nhau và họ không thể gặp nhau. Thì đó là những mâu thuẫn giữa Thiên chúa
giáo và Phật giáo.
Nếu đưa thêm Duy vật vào nữa thì lại càng đảo lộn về một hệ thống và không chứng
minh được hệ thống ấy. Vì Duy vật chỉ biết về cơ cấu vật chất trên hệ thống lý
hóa và các năng lượng hoặc các đơn vị hóa học vật chất mà không chứng minh được
nguồn gốc của hệ thống vật chất thì trở nên mất gốc.
Như vậy đứng trên Công luật thì xác định ba phần này là ba phần hiểu biết về thế
giới quan thuộc về nhân sinh quan, thì nó có những cái đúng nhất định của nó,
nhưng cái đúng ấy không hoàn hảo và không trọn vẹn. Mà cái đúng có sự phân hóa
ngay trong đầu đời của thế giới nhị nguyên, chứ chưa nói gì đến nhất nguyên.
Như vậy về tính khách quan và chủ quan của Trung tâm vạn năng thì xác định như
thế nào để người Công luật không rơi vào những biên bìa, hoặc những sự phân biến
của ý thức, hoặc nhận lầm vũ trụ một cách sai lầm ghê gớm đó. Chính vì đó mà thế
giới nhân loại đã chia ra rất nhiều phân chi và cuối cùng sinh ra một hệ thống
lập thể của các nền tôn giáo kỳ thị với nhau. Rồi trở nên những sự xung đột
trong tri thức, hoặc xung đột trong ý thức hiểu biết. Nếu ta cho rằng đó không
phải là tri thức thì không được. Bởi vì họ đem cái biết để khai thác vũ trụ và
khai thác về thế giới loài người và đem cái biết để giải quyết những vấn đề thuộc
về sự sống.
Như vậy chúng ta xác định Tôn giáo cũng là sự sống, Duy vật cũng là sự sống,
nhưng sự sống ấy nó manh múng, nó phân chia đối đãi và nó làm cho tất cả những
sự sống không có sự sống thống nhất. Thì hôm nay chúng ta phải xác định về
Trung Tâm Vạn Năng. Như nói về Trung tâm vạn năng hóa Duy ngã, thì Trung tâm vạn
năng từ đâu hóa? Chủ thể của Trung tâm vạn năng là ở đâu? Để làm rõ vấn đề này,
nên ta đưa ra những bài học có tính chất như một sự khai thác để xác định về
Trung tâm một cách triệt để.
Ngôn ngữ là luôn luôn ở thềm tương đối thì lấy ngôn ngữ nào để giải quyết vấn đề
sâu xa, rộng lớn, vĩ đại và vô cùng tối linh này. Thì chúng ta vẫn chấp nhận những
ngôn ngữ tương đối ở một hệ thống minh triết để giải quyết vấn đề Trung tâm và
xác định về Trung tâm.
Câu thứ nhất là: “Trung tâm vạn năng tối linh sinh hóa”. Câu này chưa thể giải
quyết được tính trọn vẹn của Trung tâm vạn năng nên có câu thứ hai là: “Trung
tâm vạn năng bất sinh vô diệt”. Nhưng bất sinh vô diệt thì chúng ta hiểu ở một
mức độ giới hạn hoặc vô cùng về giá trị bản chất của Trung tâm vạn năng thuộc về
thứ gì mà có một cái quyền tối thượng như vậy. Nên có câu ba rằng: “Trung tâm vạn
năng chân tính vô cùng”. Chúng ta xác định về chân tính vô cùng của sự dung
trãi, chứa nhóm và có tính chất như không biến đổi, thì liền có câu bốn để xác
định đó là: “Trung tâm vạn năng thường trụ vĩnh hằng”. Ta thấy thường trụ và
vĩnh hằng là đề tài của Phật giáo, nhưng giá trị không thay đổi về quyền năng tối
thượng và mang tính độc thần mà không dựa vào đâu để hình thành ra vạn pháp.
Thì đó là điểm mà các tôn chỉ hướng về chỗ tột cùng ấy.
Về lý giải: Chúng ta xác định Trung tâm là Pháp tính ánh sáng vô biên, là không
có dựa vào đâu. Vì không dựa vào đâu nên mới có bản chất tối thượng. Bản chất tối
thượng đã thể hiện được tính quyền năng tối thượng và tối thượng của sự nghiệp
hóa. Nên câu đầu tiên nói rằng: Trung tâm vạn năng tối linh sinh hóa.
Ta đặt vấn đề tối linh sinh hóa là vì chỗ đó là chỗ tột cùng cao nhất và không
có chỗ nào cao hơn. Nếu bản chất ấy bị biến đổi, hoặc có một thứ khác sinh nó
ra thì nó không thuộc về tối linh sinh hóa. Nhưng bản chất sinh hóa ấy là bản
chất không sinh diệt. Vì Trung tâm vạn năng không bị sinh diệt thì mới có bản
chất tối linh sinh hóa. Nếu Trung tâm vạn năng mà chỉ cần có một chút biến đổi
về sự sinh diệt thì tối linh sinh hóa sẽ không bao giờ có ở giá trị lập thể.
Nên câu thứ nhất là đại diện cho hệ thống lập thể của tối linh năng, cùng đại
diện cho giá trị quyền năng của sự nghiệp hóa, là hóa không biên giới từ cực vi
đến cực đại và hóa một quy trình chuyển động hình thành trung tâm vô ngại hóa,
và có phép vô ngại trong sự nghiệp hóa lập thể để đi đến chỗ thành lập giá trị
đặc năng, đa năng và siêu năng.
Như vậy Trung tâm vạn năng là tối linh năng, mà tối linh năng rồi thì không có
một năng lực nào có thể sánh bằng với giá trị tối linh năng ấy. Tất cả đơn vị
năng lượng tổng hợp cũng chỉ là con cái thứ bậc của hệ thống tối linh năng và
không có một năng lượng nào vượt lên tối linh năng. Chính vì vậy mà chúng ta
xác định về hệ thống Trung tâm vạn năng là bất sinh vô diệt, vì nơi ấy không có
biến đổi để chịu những luật sinh diệt của hệ thống thuộc về hóa. Vì nơi ấy là
chủ thể của hóa, là tính chất nguồn gốc của hóa và nơi ấy là bất biến thể của sự
nghiệp hóa mà hóa được tất cả vạn loại.
Như vậy thì chúng ta đã được thông suốt về giá trị pháp tính của Trung tâm vạn
năng và pháp tính của tổng linh năng, vô cực năng. Nói đến năng lượng không giới
hạn ấy là chủ thể của những năng lượng giới hạn. Pháp tính ánh sáng vô biên là
chủ thể của các pháp và hình thành các pháp, để các pháp được tồn tại trong chủ
thể pháp tính ấy mà không bị loại trừ. Nếu ai kết tinh thì trở về với pháp tính
vô biên và thành lập được Trung tâm vạn năng trong giá trị pháp tính ánh sáng ấy.
Trung tâm vạn năng tối linh sinh hóa – Trung tâm vạn năng bất sinh vô diệt –
Trung tâm vạn năng chân tính vô cùng – Trung tâm vạn năng thường trụ vĩnh hằng.
Nếu ta xác định 4 câu này đều là thực tướng cả thì chúng ta không phát sinh ý
thức hoài nghi đối với Trung tâm vạn năng, mà chỉ khuất phục cuối đầu và thể nhập
ánh sáng của Trung tâm vạn năng trong sự nghiệp Công luật đại hóa. Như vậy bản
chất của Trung tâm vạn năng là mối chốt của Công luật đại hóa, là tổng năng lượng
của sự nghiệp đại hóa, là giá trị tính thể hợp chiếu, tâm vật hội tụ, và muôn sự
– lý trong đời mà không thoát khỏi ánh sáng Trung tâm vạn năng.
Như ở phần đại cương ta đã học và xác định trên đời này thứ gì cũng có trung
tâm. Con người có trung tâm, trái đất có trung tâm, thái dương hệ có trung tâm,
thậm chí tất cả mọi sự phát triển trong đời sống thế giới duy ngã cũng đều có
trung tâm. Như vậy thì vũ trụ phải có trung tâm, đó là Trung tâm vạn năng.
Ta thấy học thuyết Duy vật biện chứng nói “vô cơ sinh hữu cơ” thì không có
trung tâm. Vì họ không nói gì về trung tâm ở đây cả, còn hiểu theo diệu nghĩa
trung tâm thì rất là khó, vì không bày tỏ ngôn ngữ minh triết trong hệ thống
trung tâm, nên trở thành vũ trụ không có trung tâm. Còn nếu nói theo Thần học,
lấy Thượng đế làm trung tâm thì rõ ràng không sáng tỏ về giá trị trung tâm đối
với Trung tâm hóa vạn pháp. Còn nói theo Phật giáo “vô minh sinh ra hành” thì
cũng không có trung tâm. Như vậy các học thuyết hoàn toàn không thừa nhận trung
tâm, mà thừa nhận vũ trụ theo một kiểu khác. Một là Thượng đế, hai là vô minh,
ba là vô cơ, thế thì học thuyết trung tâm hoàn toàn không có trong các thế kỷ
trước, mà học thuyết trung tâm chỉ có từ thế kỷ 21 trở về sau.
Như vậy, chúng ta có quyền nói: Trung tâm vũ trụ ngân hà, Trung tâm vũ trụ
thiên hà, Trung tâm thái dương hệ… Thì tất cả những giá trị khổng lồ nhất ấy đều
có trung tâm. Và khoa học mới tìm ra là tất cả những trung tâm hóa sức mạnh phức
tạp và kinh khủng nhất, đó là những trung tâm lỗ đen khổng lồ ở trong các hệ thống
ngân hà và thái dương hệ, thế thì học thuyết khoa học đã thừa nhận có trung
tâm. Cho nên tất cả những nhà khoa học hiện đại nhất họ đã nói: phải chăng vũ
trụ đang tồn tại một Trung tâm vạn năng, điều đó hoàn toàn đúng!
Nếu ta đem cái đúng toàn diện về minh triết để có thể làm ra những bài toán vượt
lên những giá trị về thời gian và không gian, thì bài toán ấy là bài toán của
pháp tính vô biên, là bài toán vượt lên các hệ thống lập thể và không còn là
bài toán bình thường nữa. Mà đây là lý tất yếu của hệ thống toán học và vượt
trên các hệ thống toán học. Vì vậy nên tất cả những hệ thống toán học đều đưa
trung tâm vô cực vào sự nghiệp của toán học, để thể hiện giá trị vô cùng của hệ
thống toán học, mà không thể đưa Thượng đế vào để diện mặt trong hệ thống toán
học; hoặc là đưa các vô minh không có một cơ cấu hệ thống, không rõ bày được
tính vô cực vào hệ thống toán học. Như vậy hệ thống trung tâm được phép đi và đến
cùng toán học, vì chính trung tâm sinh ra toán học, sinh ra lý học, sinh ra
khoa học và chính trung tâm sinh ra vạn học từ tôn.
Như vậy, chúng ta sẽ khúc chiết được giá trị Trung tâm vạn năng hóa Duy ngã và
chúng ta làm sáng tỏ giá trị hóa Duy ngã một cách triệt để toàn diện, sâu xa, rộng
lớn và khắp cùng ở hệ thống ấy không có một sự đối đãi phân biệt nào để tính
toán về giá trị Trung tâm vạn năng hóa Duy ngã.
Ngài bảo ông Chơn Quốc Chính Thống luận về câu Trung tâm vạn năng tối linh sinh
hóa.
Ông Chơn Quốc Chính Thống: Kính thưa Cha và thưa toàn thể, Trung tâm vạn năng tối
linh sinh hóa, đó là đề tài cụ thể hóa trong hệ thống Cửu kinh minh triết mà
trước đây Cha đã khai thị cho chúng con là 3 kinh trục. Và từ 3 kinh trục ấy đã
chuyển động hình thành Duy ngã vạn pháp và cuối cùng phải trở về nguồn là Tâm vật
hội tụ. Và phải đi bằng nền tảng Tam thừa tạng của đức từ phụ Thích ca. Nên nếu
luận về hệ thống Cửu kinh thì không thể nào không luận về Tam thừa tạng, vì đó
là bước đi then chốt của chúng con.
Hôm nay Cha mới vừa khai thị về hệ thống trung tâm cụ thể hơn, thì nhân đây con
xin trình bày ngắn gọn về những mong muốn và tham vọng của nhân loại để tìm hiểu
về chủ thể và chủ tính của vũ trụ đã sinh hóa ra vạn pháp. Như Duy tâm người ta
cho rằng: “tâm sinh vạn pháp” mà chưa giải mã được cụ thể tâm đây là trung tâm
của vũ trụ, chứ không phải là cái tâm biến đổi vô thường của chúng sinh. Từ chỗ
đó mà cả một hệ thống Phật giáo sau này kế thừa kho tàng pháp bảo của đức Từ phụ
đã bị lệch lạc quá nhiều mới dẫn đến một hệ quả rất là mơ hồ và chưa có hệ thống.
Còn duy linh thì hoàn toàn đề cập đến tính chủ quan của Trung tâm vạn năng mà
không thấy được tính tối linh sinh hóa hoàn toàn mang tính khách quan. Nên Duy
linh cũng rơi vào tình trạng là cố chấp độc thần và áp đặt chủ tính chủ quan,
nên con người mất đi chủ tính khách quan.
Từ chỗ này nên nhân loại khao khát tìm ra mục đích cuối cùng đó là chủ tính để
sinh hóa ra vạn loại. Bắt đầu diễn trình tiến hóa ấy mới sinh ra hệ thức của
Duy vật biện chứng. Nhưng hệ thức này vẫn cắt đoạn gốc nguồn sinh hóa, cho nên
cũng rất là hầm hồ và hoàn toàn không hình dung ra được chủ tính, nên bị lần quần
trong thế giới vật chất vô tri mà sinh ra nhiều biến cố khủng khiếp cho nhân loại
đến ngày hôm nay.
Tuy nhiên trong hệ thống của trung tâm có đức Khổng và Lão mới hình dung ra được
hệ thống trung tâm, nhưng vẫn còn mơ hồ và đơn giãn. Có nghĩa là hệ thống của
Khổng dựa trên nền tảng của “nhất âm nhất dương sinh vạn loại”. Hoặc là “vô cực
nhi thái cực” nhưng hoàn toàn không hệ thống được cụ thể mang tính khoa học chủ
quan và khách quan của hệ thống trung tâm. Nên chỉ đi vào phần nhân thừa mà
thôi và không giải quyết được những vấn đề nhu cầu của nhân loại hiện nay.
Như vậy, chỉ còn có một trường phái là khoa học khách quan, thực tế nhất là họ
đã lần mò và đụng đến đáy trần của chủ tính vũ trụ bằng các công trình nghiên cứu
toán học để tìm ra cấu trúc thực tại cuối cùng của vũ trụ. Và cách đây gần 100
năm thì các nhà khoa học gia chân chính người ta đã tìm ra một phần nào về bản
chất của vật chất đó là phát hiện ra nguyên tử. Về khối lượng một nguyên tử,
thì họ đã tính ra bằng 1/1000 của 1cm. Thì trong 1 nguyên tử ấy mặc dù đơn vị rất
nhỏ nhưng nó đã có 1 khoảng hư không vô tận trong đó; Cũng như trong vũ trụ bao
la có những hành tinh như thế. Thì đó là khoa học khách quan đã tìm ra cái thực
tại cuối cùng của vũ trụ, là trong khoảng hư không vô tận của 1/1000 của 1cm
thì có một lỗ nhân, thì trong lỗ nhân ấy nó còn có những đơn vị vật chất li ti
bằng 1 phần ngàn tỉ tỉ của lỗ nhân ấy. Đó là nền khoa học hiện nay đã thực nghiệm
ra giá trị thực tại cuối cùng của vật chất. Nhưng một số nhà khoa học sau đó
người ta vẫn chưa công nhận và người ta còn tiếp tục đi tìm cái thực tại cuối
cùng sâu hơn nữa, là bằng trường pháp Siêu tơ trời và trường phái Siêu tơ trời ấy
người ta nhìn thấy vật chất bằng công thức toán học chứ không thể nào bằng hình
tượng được nữa.
Sau khi các trường phái đúc kết lại với nhau thì các nhà khoa học chân chính đã
nói rằng: Khi mà tìm lại cái thực tế cuối cùng của vật chất thì không còn hình
trạng vật chất nữa mà trở thành khoa học siêu khoa học. Nên khoa học thực nghiệm
hôm nay nó trở thành thần học và trở thành khoa học siêu đẳng chứ không còn
khoa học thực tế nữa. Và thực tại vật chất ấy cuối cùng người ta đã tìm thấy nó
bằng những làn sóng, những vi ba và những rung động chứ không còn là hình dạng
vật chất nữa. Nên từ lẽ đó mà Albert Einstein và các nhà khoa học chân chính họ
phải quỳ trước đền lễ và phải khuất phục trước Trung tâm vạn năng.
Như vậy thì cái cuối cùng của vật chất người ta đã tìm ra, nó trở thành những
làn sóng viba, những tần sóng rung động. Tức nó đã trở về Tính, chứ không còn ở
mắt thường có thể thấy được. Người ta đã đúc kết được trên thế giới này chỉ có
50 nhà khoa học đã tìm ra được điều đó và chứng minh vật chất bằng những công
trình toán học cao cấp. Thì đây là thực trạng cuối cùng của vũ trụ mà con người
đã chứng minh. Như vậy chứng tỏ rằng Trung tâm vạn năng này không phải là mơ hồ
trừu tượng, cũng không phải là ở chủ quan, mà hoàn toàn là công trình của khoa
học khách quan có chủ tính. Nếu nói về Trung tâm vạn năng thì không còn nói
khách quan hay chủ quan, mà 2 cái đó nó trở thành một khối thống nhất để hình
thành ra vũ trụ.
Như vậy đề kinh Cha vừa khai thị cho chúng con là Trung tâm vạn năng tối linh
sinh hóa, điều đó thì nhà khoa học người ta đã chứng minh.
Ngài dạy: Câu thứ nhất là câu đại diện cho giá trị khoa học đại ngã trong hệ thống
biện chứng pháp lập thể và hoàn toàn không đoạn giải giá trị công trình tối thượng
của hệ thống chân tính ánh sáng và không biến đổi tính trung tâm.
Ngài bảo ông Chơn Nhật Đàn Sơn luận về câu thứ 2: Trung tâm vạn năng bất sinh
vô diệt.
Ông Chơn Nhật Đàn Sơn: Thưa Cha, câu thứ 2 tiếp nối câu thứ nhất là nói đến hệ
thống cơ cấu của chủ thể. Chủ thể là đấng vô cùng, là đấng tối linh sinh hóa vạn
loại. Thì chính trung tâm này là biểu hiện cho sự vô cùng, chính vô cùng nên bất
sinh vô diệt. Và ở đây có thể biện chứng cho trung tâm vô cùng. Ví dụ trong những
hạt nguyên tử thì chính nhà bác Renon đã tìm ra trong lõi của nguyên tử có những
hạt điện tử âm và dương quay xung quanh lõi đó. Và tất cả âm điện tử và dương
điện tử ấy quay với một tốc độ khác nhau và không bao giờ va chạm nhau. Thì từ
đó người ta đã tìm ra thái dương hệ chúng ta là tất cả các hành tinh quay chung
quanh mặt trời và được sự dẫn quang của mặt trời mới có sự sống của hành tinh.
Như vậy thì 2 phần cực vi và cực đại đã chứng minh cho giá trị trung tâm sinh
hóa. Từ đó chúng ta có thể nghiệm ra Trung tâm vạn năng là bất sinh vô diệt.
Như vậy đã nói lên tính vô cùng của Trung tâm vạn năng trong sự nghiệp hóa. Nên
thấy rằng về tính khách quan của trung tâm đã có hiện bày trong thế giới quan
và nhân sinh quan. Thế thì chính Trung tâm vạn năng bất sinh vô diệt đó đã nói
lên giá trị vô cùng của Trung tâm vạn năng tối linh sinh hóa. Như vậy tối linh
sinh hóa là chủ thể của vạn loại trong sự nghiệp hóa và Trung tâm vạn năng bất
diệt này chính là hệ thống cơ cấu của chủ thể Trung tâm vạn năng tối linh sinh
hóa.
Ngài dạy: Chúng ta phải nói rõ về Trung tâm vạn năng bất sinh vô diệt là thể hiện
cái bản nguyên siêu hữu tổng thể của vô cực quang, và chân tính ánh sáng ấy là
mang tính siêu hữu hóa vô cực và vô cực hóa siêu hữu. Là pháp tính ánh sáng vô
biên, là không dựa vào đâu cả. Thì chính trung tâm là đại diện cho cái đó.
Như vậy Trung tâm vạn năng đã có bản chất đại diện về chân tính ánh sáng vô cực
và pháp tính ánh sáng vô biên là siêu hữu hóa giá trị hóa không đặt một vấn đề
đầu mối của giá trị hóa, mới gọi là Thống hóa. Nếu có bắt đầu từ đầu mối Thống
hóa thì làm sao có chủ thể hóa. Vì cái gì có bắt đầu là có sinh diệt. Như vậy
nơi mà sinh ra mọi sự sinh diệt thì nơi ấy không có sinh diệt.
Nếu chủ thể bị sinh diệt thì làm sao hóa sinh diệt cho vạn thể; vạn thể sinh diệt
để trở về giá trị không sinh diệt. Như vậy sinh diệt kia là giả, mà cái không
sinh diệt là thực. Thế thì Trung tâm vạn năng không sinh diệt nên mới có giá trị
thực tướng toàn diện của giá trị và hình thành sự nghiệp hóa vô ngại từ cực vi
đến cực đại và hóa vô ngại để thể hiện được tính không sinh diệt và bản chất vô
ngại của trung tâm.
Trung tâm vạn năng bất sinh vô diệt là thể nghiệm giá trị siêu hữu tổng thể của
vô cực quang và chân tính pháp tính vô cùng. Là vì không có chỗ dựa vào đâu. Nếu
có chỗ dựa vào đâu thì không gọi là pháp thân. Nên Như Lai có được pháp thân là
kết tinh được chân tính ánh sáng trung tâm và hoàn chiếu pháp thân vô biên của
giá trị kim cương bất hoại. Thì đó là chủ thể của tính ánh sáng vô biên và chủ
thể của ánh sáng vạn năng và được khép kín giá trị tổng thể để có sự nghiệp
hóa. Như vậy sự nghiệp hóa là hóa trong vô ngại tự tại và hóa trong giá trị bất
biến thể của trung tâm.
Nếu hóa mà bị biến thể thì trung tâm rơi vào đâu? Thứ nhất là rơi vào không có
chủ thể. Thứ hai là rơi vào biến đổi về hệ thống lập thể và chính trung tâm
cũng không có thực tướng. Vì vậy nên trung tâm đã có thực tướng toàn diện thì mới
hóa được giá trị lập thể cho chúng ta và hình thành giá trị kết tinh tinh hoa
pháp tính và kim tính. Như vậy không bị mâu thuẩn và hoài nghi ở hệ thống trung
tâm và Trung tâm vạn năng là chỗ tột đỉnh của giá trị hóa, thì không có một
chút sai biệt nào của trung tâm cả, mà chỉ có sự phân biệt của ý thức chúng ta
về mặt lập thể, về mặt não bộ thần kinh, về mặt 5 ấm: sắc thọ tưởng hành thức
và chịu các áp lực của sự nghiệp hóa, có thể sinh sự u khuất che chắn về các sự
khác biệt đó. Còn đối với Trung tâm vạn năng là hoàn toàn không có chuyện đó.
Vì Trung tâm vạn năng là một hệ thống tối thượng, nên hóa có hệ thống cơ cấu và
hóa vô ngại, hóa không biến đổi để đem lại các nguồn năng lượng vào sự nghiệp tổng
thể đối với sự nghiệp hóa. Thì chỗ này là chỗ cốt lõi của sự nghiệp Công luật
vũ trụ.
Ngài bảo ông Chơn Ngọc Biện Hộ luận trình về câu 3: Trung tâm vạn năng chân
tính vô cùng.
Ông Chơn Ngọc Biện Hộ: Thưa Cha cùng toàn thể. Cha đã khai thị cho chúng con những
đề kinh mang tính khẩu quyết, kinh quyết để khẳng quyết về sự nghiệp hóa của
Trung tâm vạn năng là tuyệt đối và vô cùng. Thì chúng con đã thấy được giá trị
đại diện của tính quyền năng tối thượng đối với đại ngã vô cùng của Trung tâm vạn
năng tối linh sinh hóa. Cũng như giá trị tổng hàm hoa của siêu hữu hóa hữu đối
với Trung tâm vạn năng bất sinh vô diệt, mới hóa được sinh diệt cho tất cả vạn
pháp. Và Trung tâm vạn năng chân tính vô cùng là bản chất của vô ngại hóa và bất
đoạn hóa trong sự nghiệp hóa hạt tâm lý tính tính ánh sáng. Chân tính ánh sáng
của vạn năng đã có mặt trong sự nghiệp hóa từ cực vi đến cực đại, từ 3 cõi, 6
đường cho đến các ngôi sao kinh điển cao nhất. Và dung trãi khắp cùng cả tam
thiên đại thiên thế giới mà không bao giờ tắc đoạn 1 sát na.
Chúng con thấy phần lập thể là sinh diệt tương tục vô tận nhưng tính chất ánh
sáng của hạt tâm không bao giờ biến đổi cũng như bản chất tinh hoa không bao giờ
bị mất. Vậy cái gì để bảo lưu cho giá trị đó? Thì đó chính là Trung tâm vạn
năng chân tính vô cùng và bất diệt.
Vì thế mà muôn loài vạn vật được tồn tại trong hạt tâm lý tính và hạt tâm lý
tính đã trở thành bất diệt, mặc dù ở trong trầm luân khổ đọa hay ở trong các
ngôi sao kinh điển thì hạt tâm lý tính ấy vẫn sáng và vẫn sống mãi không bao giờ
tắt mất. Đó là biện chứng hóa cho giá trị chân tính ánh sáng vô cùng của Trung
tâm vạn năng.
Trung tâm vạn năng chân tính vô cùng ấy là giá trị thường trụ bất biến đổi, là
nói đến cái tột đỉnh vô cùng của vũ trụ quang. Là nói đến pháp thân của Phật
quang thường chiếu bất đoạn mà Như Lai đã trở về chỗ đó để điều ngự và làm chủ
tất cả vạn pháp. Tính Phật quang ấy đã hóa thân trong khắp cùng vạn loại và đã
hiện thực hóa trong đời sống của Duy ngã đại thể mà chúng con đã thấy rõ. Đó
là: Tất cả những giá trị tổng hàm hoa đã được kết tinh trong chân tính ánh sáng
vô cùng đó. Hạt tâm lý tính đã trở về thành tựu giá trị chân tâm kim cương bất
biến. Thì Phật quang đã thường trụ tại đó. Phật quang là nói đến giá trị sự thật,
sự thật thực tướng của vũ trụ đã hóa thân trong tất cả muôn vật. Phật quang là
nói đến những giá trị bất biến của những định luật, qui luật tất yếu mà không
thể thay đổi. Phật quang được biện chứng trong mặt bằng Duy ngã đại thể, đó là
sự sống của hạt tâm lý tính đại thể, mà con người đều có ánh sáng chân tính thường
trụ bất biến, mà có thể gọi chung là Phật tính. Thì đó cũng biện chứng cho sự
nghiệp hóa vô cùng của chân tính Trung tâm vạn năng.
Như vậy, chúng con xác định về Trung tâm vạn năng là nguồn gốc, là nơi sinh hóa
ra tất cả muôn loài vạn vật. Thì chỉ có một con đường duy nhất là trở về với
Trung tâm vạn năng, bằng con đường của hệ thống Cửu kinh minh triết. Thì chúng
con sẽ được sống hạnh phúc trong giá trị thực tướng của nguồn ánh sáng Trung
tâm vạn năng.
Ngài dạy: Chúng ta đã xác định được như vậy thì sự nghiệp Công luật và bản chất
Công luật có trong muôn loài và hệ thống Trung tâm vạn năng hiện hữu trong muôn
loài, cùng tỉnh trạng giá trị hóa trong muôn loài và khép kín quy trình chuyển
động hình thành cực vi đến cực đại mà không có sự khác biệt về tỉnh trạng giá
trị hóa.
Chúng ta không có quyền phân biệt Trung tâm vạn năng và Ta là 2. Vì tất cả tính
sự sống Trung tâm vạn năng đối với muôn loài đã được thống nhất và thành lập
giá trị hóa một cách thống nhất. Như vậy tiến hóa để trở về với Trung tâm vạn
năng là tính thống nhất cao nhất.
Chối bỏ và quay lưng hoặc phân chia hệ thống Thống hóa, hoặc phân biệt vạn năng
khác biệt với muôn loài đều bị sụp đổ hệ thống vạn năng trong muôn loài ấy. Sụp
đổ là so sự đối đãi phân biệt, hoặc phân ra ngôi thứ giữa Ta và Trung tâm vạn
năng mà làm sụp đổ. Vì thế mà ông Bát Nhã ĐaLa đã nói với ông Đạt Ma rằng: Tôi
và ông cùng muôn loài đều ở một gốc mà ra. Vì nghĩa đó nên khi ông Đạt Ma hỏi:
“ông là ai?” thì ông Đa La trả lời: “Tôi là ông và ông là tôi”. Như vậy đã đánh
sụp bản ngã riêng tư và đối mặt trong giá trị Trung tâm vạn năng đối với vạn
pháp hóa bằng một câu kinh: “Tôi là ông và Ông là tôi” để nói lên chung một nguồn
cội, một sự nghiệp chung mà Trung tâm vạn năng đã cho chúng ta.
Thế thì nhân loại đều có tính của Trung tâm vạn năng, hay nhân loại đều có tính
của Phật tính. Phật tính là đại diện tính chung của vạn năng thì chúng ta có
quyền nói: Ta có Phật tính. Bởi vì đức Phật là đại diện cho tính Trung tâm vạn
năng và Ngài là giá trị hóa thành lập của Trung tâm vạn năng và thành tựu của
Trung tâm vạn năng, thì đức Phật có quyền nói tất cả đều có Phật tính.
Như vậy tất cả đều có Phật tính thì tính ấy đều giống nhau, thế thì Trung tâm vạn
năng đã có trọn vẹn chân tính hóa và tối linh năng đều có trong giá trị hóa đối
với vạn loại và không có một loại nào không có. Tùy theo thăng bậc của sự nghiệp
tiến hóa mà dẫn đến chỗ vô cùng.
Chúng ta thấy tính quyền biến vô song và sức mạnh đặc năng trong các loài, có
thể nói có những đặc năng như một thần lực, đặc năng như một quyền biến, đặc
năng như một thần thông và đặc năng như những giá trị mà tất cả những nhà sinh
học đã nghiên cứu về các loài và thấy các loài có một đặc năng vô cùng kỳ diệu.
Các loài có những quá trình chuyển hóa và hình thành theo giá trị đặc năng, đa
năng và siêu năng đều trở nên sự kinh ngạc và kỳ diệu của sức mạnh vạn năng đã
cho nó.
Người ta có thể chia ra từ một cú đấm của một con tôm, một cái húc của một con
cua; vậy mọi sự va đập hùng mạnh trong giá trị hóa của các loài đều trở nên những
giá trị sức mạnh và thể hiện tính năng động trong giá trị vạn năng đều có thể xảy
ra trong hệ thống của các loài.
Như vậy, muôn loài đã đại diện được tính vạn năng và thể nghiệm được tính vạn
năng, đồng thời có quyền khai thác và thể nhập tính vạn năng một cách tuyệt đối
để đi đến thành tựu Phật quang.
Phật quang ở đây đã bày tỏ giá trị tối linh năng, tối siêu năng, tối vạn năng
và Trung tâm vạn năng đã hiệp thông thường chiếu ánh sáng bất đoạn trong giá trị
hóa vô ngại pháp.
Chúng ta được sâu thẩm, được tôn vinh và trọn vẹn trong giá trị hóa vạn pháp.
Chúng ta được thành đạt trong giá trị hóa vạn pháp đều từ Trung tâm vạn năng mà
ra.
Hôm nay chúng ta làm sáng tỏ về Trung tâm vạn năng hóa Duy ngã một cách triệt để
về sức mạnh của sự nghiệp hóa mà đối với hệ thống Thống hóa đã hình thành trong
vũ trụ quan và nhân sinh quan.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!