TÍNH CHẤT ĐẠO LUẬT
TRONG CÔNG LUẬT VŨ TRỤ
TRONG CÔNG LUẬT VŨ TRỤ
Người Thiên chúa quan niệm rằng những ai theo đạo
Thiên chúa giáo thì họ cho là nội đạo, là có đạo Thiên chúa. Còn tất cả những
người không theo Thiên chúa thì họ cho là ngoại đạo, là không trực thuộc Thiên
chúa. Đó là quan niệm của người Thiên chúa giáo, quan niệm ấy là mất tính công
luật vũ trụ. Vì sao? Vì tất cả loài người trên thế giới ai cũng được hít thở
oxy, khi đói ai cũng biết ăn, khi khát ai cũng biết uống và hệ thống cơ cấu máy
móc thân thể đều giống nhau, ý niệm tư tưởng giống nhau thì tại sao lại khác
Thiên chúa, khác Thượng đế? Đó là tính bảo thủ nghiệt ngã về ranh giới thuộc về
chi, tức họ muốn đem cái chi đó để thể hiện cái tổng và họ muốn loại trừ đời
sống của các phần khác trong lập địa đó. Đối với tinh thần công luật không thể
chấp nhận điều đó.
Quan niệm của người Công luật, là người ấy dù không
theo một tôn giáo nào nhưng bản chất họ trong đời sống luôn luôn làm lành,
không làm một điều gì dữ và luôn có một niềm tin tuyệt đối với trời đất, thì
chính họ vẫn có giá trị thực trong đời sống vũ trụ, họ vẫn được xứng đáng là
người con của vũ trụ và họ cũng được vũ trụ hóa cho họ. Một ngày họ qua đời
viên tịch thì họ vẫn được lẽ phải của tính công luật vũ trụ đến cứu họ trong
đời sống đó, chứ không phải một tôn giáo nào cả. Vậy, những con người ấy là con
người trực diện trong đời sống của Thống hóa vũ trụ. Vì họ đã làm được những
điều của vũ trụ đã làm và họ đã làm được những tiêu chuẩn nhất định mà công
luật vũ trụ đã cho họ. Đó là sự nhìn nhận, là quan niệm của người công luật có
tính khách quan.
Chúng ta phải học công luật cho sâu sắc để chúng ta
có một cái nhìn tổng thể tránh khỏi mọi bệnh tật của tâm thức về các sự bảo
thủ, kỳ thị và đối kỵ trong lĩnh vực tôn giáo. Để không làm mất đi tính công
bằng của công luật vũ trụ, như các tôn giáo đã đi qua.
Ví như, có những người trên đời này họ không theo
một tôn giáo nào cả mà chính họ ăn ở công bằng đối với mọi người, yêu thương
giúp đỡ ban cho và luôn luôn thể hiện lòng nhân ái đối với mọi người thì con
người ấy vẫn xứng đáng là hạt nhân của công luật vũ trụ, vì họ đã làm được công
bằng thì con người ấy vẫn được siêu hóa trong vũ trụ.
Lại nữa, có những người đang ở trong hình lập tôn
giáo, mang những chức bậc về sắc phẩm mà lại làm những việc phi nhân, vô đạo,
ngược lại với chính pháp thì những con người ấy sẽ bị sa đọa vào tam đồ chịu
luân hồi sinh tử. Vậy, không thể lấy hình thức tôn giáo để giải quyết về vấn đề
nội tại của tính chất và giá trị hạt nhân công luật. Vì thực thể của công luật
là thuộc về chân tâm chứ không phải thuộc về hình thức tôn giáo, cũng không
thuộc về hình thức màu da và sắc tộc, cũng không thuộc về y phục kiểu gì, đầu
tóc kiểu gì. Tất cả những thứ đó thuộc về lập ngoại, nó không thuộc về giá trị
nội tại của tính chất hạt nhân, hạt tâm công luật vũ trụ.
Hạt tâm công luật vũ trụ là dù cho người đó đứng ở
đâu, ngồi ở đâu, nằm ở đâu và đi ở đâu, trên bất cứ Châu lục nào mà làm đúng
trọng tâm công luật, mặc dù người ấy không theo bất cứ một tôn giáo nào nhưng
họ vẫn xứng đáng là hạt tâm công luật vũ trụ.
Nếu họ là những hạt tâm lớn, có tính chất siêu xuất
thì họ cũng có thể đại diện để dẫn đường chỉ lối cho những người khác. Tính
công luật là tính bình đẳng đối với các phạm trù cho các hạt nhân đã được thăng
hoa trong tính công luật vũ trụ.
Hình thức tôn giáo chẳng qua là trường lớp, là nơi
giáo thị, là nơi dẫn độ và thiết lập để tạo chiếc cầu cho bất cứ ai có nhân
duyên hướng về công luật vũ trụ.
Tất cả những hình thức, những nghi thức là phương
tiện mặt bằng cho chúng ta tiến hóa. Nhưng nếu hình thức và nghi thức ấy không
đúng với chính pháp thì nó cũng là sâu bọ hoặc là những con rối làm cho chúng
ta rối ren thêm mà thôi.
Hỏi: Thưa Cha: Đạo luật và
Vận luật tuần hoàn chu kinh (VLTHCK) có khác nhau không?
Đạo luật và VLTHCK thật ra nó tuy hai nhưng là một,
tuy một là hai. Bởi vì đạo luật là chủ thể, mà VLTHCK nó là hoành tác, nhưng
hoành tác từ chủ thể ra, nên tạm phân ra giữa chủ thể và hoành tác, vì vận luật
tuần hoàn là luôn hoạt động để chuyển hóa tinh hoa vạn pháp. Nhưng đạo luật thì
lại chứa nhóm cái sức mạnh của tinh hoa mà không cho tinh hoa phân biến. Cho
nên tuy hai là một, tuy một là hai. Nhưng nếu chúng ta không đưa ra cái VLTHCK
thì sẽ không thấy được sự chuyển hóa và trao đổi chất tinh hoa để kết tinh và
hình thành những giá trị tinh hoa cho chúng ta đi đến cao cấp.
Như vậy đạo luật là một thể tròn, còn vận luật thì
nó chuyển động cho đến ngạ quỷ, có như vậy thì nó mới biến đổi ngạ quỷ tiến lên
cấp người được. Cho nên giá trị tuần hoàn là nó nằm trong vạn hữu, trong vạn
thể. Bởi vì khi có sự sống là có VLTHCK và có sự sống là có quỹ tích giá trị
đạo luật tổng thể. Có quỹ tích giá trị đạo luật tổng thể là có tinh hoa, có
tinh hoa là phải có sự chuyển động để kết tinh tinh hoa. Thì VLTHCK là sự
chuyển động để kết tinh tinh hoa và chuyển hóa tinh hoa vạn pháp.
¯ Tại sao nói công luật cửu kinh minh triết là đại
hóa toàn khai?
Thường thì con người có cái bản chất bảo thủ của
nhân bản bản ngã. Như, người tu theo pháp môn tịnh độ thì bảo thủ tịnh độ là
hay nhất, người tu thiền thì lại bảo thủ thiền là hay nhất. Đó là tính nông cạn
của con người khi đạt được cái gì là bảo thủ cái đó và cho đó là hay nhất. Đối
với chúng ta là người công luật đi trên con đường công luật là không bị kẹt
trong các giáo điều và pháp môn. Như tâm vật hội tụ kinh thì trong đó đã là hai
chiều song tụ rồi. Nếu dùng song tụ để trở về chiều cao nhất của trung tâm hội
tụ Thống hóa thì lại gồm có 3 kinh. Như vậy trong giá trị công luật đó không
đóng khung trong giáo điều. Thứ nhất là nói được cửu kinh minh triết. Và cửu
kinh minh triết không đóng khung trong pháp môn. Pháp môn là con đẻ của cửu
kinh minh triết, nên minh triết là ánh sáng dẫn đường có tính chất cự nhật đại
quang. Vì hàng trăm ngàn ánh sáng trong không gian này, không có ánh sáng nào
qua ánh sáng mặt trời, thì tính minh triết nó cũng vậy. Còn cửu kinh là bao hàm
tất cả tổng tinh hoa của các giáo điều và pháp môn. Dù cho có bao nhiêu thánh
kinh, bao nhiêu thừa tạng, bao nhiêu phương pháp, chương trình giáo cũng không
ra ngoài cửu kinh. Dù họ có giáo kiểu nào cũng không ra khỏi âm dương vạn tỏa,
cũng không ra khỏi trung tâm vạn năng, cũng không ra khỏi tổng thức chân quang
vũ trụ quan, cũng không ra khỏi vận luật tuần hoàn; dù họ có giáo kiểu nào cũng
không ra khỏi Duy ngã vạn pháp kinh và tâm vật hội tụ kinh. Tức là họ có nói
kiểu gì trong các giáo điều cũng đều nằm trong cửu kinh cả, nhưng họ không rõ
bày được tính hệ thống cửu kinh một cách mạch lạc, thì họ bị biên địa của giá
trị trung tâm. Như vậy là họ bị đóng khung trong giáo điều và đối lập các giáo
điều khác; làm cho xã hội này các giáo điều chồng chất lên nhau và các pháp môn
lấn áp lẫn nhau. Chính vì vậy mà xã hội rất nhiều tôn giáo và xảy ra nhiều cuộc
thánh chiến, hoặc là đánh giặc miệng với nhau, tức là tôn giáo này nói xấu tôn
giáo kia là do giáo điều xảy ra. Còn về thần thông và bảo thủ quyền phép cũng
chỉ tranh nhau mà không giải quyết được gì. Vì vậy mà tất cả không giải quyết
được tính toàn diện của cứu cánh. Trở về công luật để học cửu kinh minh triết
là giải quyết tất cả những vấn đề mâu thuẫn trong đời sống của nhị nguyên và
thiết lập nhị nguyên cơ bản của hệ thống tổng trì. Đi trên sức mạnh của nhị
nguyên tổng hợp ấy, không phân chia ra tất cả những gốc độ giáo điều và các gốc
độ của lập hình và đối kháng các lập hình, thì đó là tính công luật đại hoá
toàn khai.
CÔNG LUẬT PHỦ
CHIẾU TOÀN DUY
(Tháng 03 năm 2006)
Định hướng về nền văn minh của Bà la môn giáo, là
hướng dẫn con người đi theo con đường đạo luật mang tính thần linh. Đây là nói
về vấn đề tôn chỉ chứ không nói về chuyên môn. Như vậy cái tôn chỉ của người Ấn
Độ là đi theo Vệ Đà, đi theo Bà la môn, là đi theo Tam Thần hợp nhất tức là
Thần sáng tạo, Thần bảo tồn và Thần hủy diệt. Mãi cho đến thời của đức Phật
Thích Ca ra đời, mới đem kho tàng kinh điển ra để mà diễn nói. Và sau đó 500
năm thì Đức Ki Tô ra đời lại nói về vần đề độc thần, tức là nói về Thượng đế
sinh ra muôn loài. Thay vì không nói theo kiểu của Vệ Đà, Bà la môn mà nói theo
kiểu Đấng tạo hóa, Thượng Đế sinh ra muôn loài. Còn nền văn minh của Trung Hoa
thì có đức Lão Tử nói về dịch lý pháp, thì đó là những tôn chỉ đã qua và còn
nhiều nữa như: duy tâm, duy linh, duy vật, duy lý v.v…
Về duy linh có hai loại là duy linh bá thần và duy
linh độc thần, duy linh bá thần thì cái gì cũng có thần. Còn duy linh độc thần
thì duy chỉ có Thượng đế thôi. Các tôn giáo khác sau này ra đời như Ma Ho Met
cũng mang tính duy linh độc thần. Còn duy vật của Mac – Lenin là chối bỏ nguồn
gốc tâm linh. Như vậy về tôn chỉ thì giữa duy linh, duy tâm và duy vật ở đây
cũng chưa giải quyết được gì. Tất cả đều tồn tại trên thế giới này một sự rối
ren mà chưa giải quyết được.
Hôm nay tôi muốn nói về Công Luật vũ trụ, Công Luật
tổng trì đó sẽ phủ chiếu trên các tôn chỉ, các vị hãy lắng nghe. Bởi vì Công
Luật là dùng hệ thống minh triết, kho tàng minh triết để giải quyết về tính
Công Luật vũ trụ, dẫn đến sự kết tinh của đấng Thống hoá thì cũng không phủ
định về giá trị chân tính của Thống hoá mà lại mang tính khoa học đại ngã. Nó
khác duy tâm của nhà Phật mà ta hiểu lầm ở chỗ này. Nếu cho rằng tâm sinh ra
vạn pháp, nhưng tâm hạ làm sao sinh ra đất nước gió lửa được. Mình tưởng đất nước
gió lửa được, nhưng mà sinh ra đất nước gió lửa thì không phải cái tâm mình
sinh ra được. Mà cái tâm của trung tâm vũ trụ sinh. Tức là duy tâm thượng trung
tâm vạn năng.
Chúng ta không nên suy nghĩ theo kiểu tư tưởng ý
niệm mà có thể sinh ra vạn pháp. Cái đó là vọng thức chứ không phải là nguồn
gốc sinh ra vạn pháp, mà trung tâm vạn năng mới sinh ra vạn pháp, sinh ra tất
cả muôn vật, muôn sự ở trên đời này. Như vậy nếu ta đặt tinh thần trung tâm vạn
năng sinh ra vạn pháp, cũng giống như là sự tin nhận Thượng đế sinh ra muôn
loài vậy. Vì đó là những vấn đề thuộc về tối thượng, nó quá cao mà chúng ta
không thể lấy tư tưởng để mà suy nghĩ cho hết được. Cho nên chúng ta phải đi
trở về con đường Công Luật học, chúng ta mới giải quyết được nhiều cái mâu
thuẫn giữa duy tâm, duy linh và duy vật. Còn nếu chúng ta không học về Công
Luật vũ trụ và hệ thống kho tàng minh triết của vũ trụ thì chúng ta sẽ bị mắc
kẹt ở các tôn chỉ và làm giới hạn tính tổng thể của vũ trụ đi.
Nhiều
khi chúng ta lại đặt về đức tin nhiều hơn, như trên lĩnh vực thánh kinh của đức
Ki Tô chẳng hạn, chúng ta lại đặt niềm tin nhiều hơn qua những lời răn, còn kho
tàng minh triết để làm sáng tỏ cho nhân loại thì lại không có. Vì có lẽ trong
thời kỳ đó Ngài không thể nói minh triết được. Vì sự tiến hoá của nhân loại lúc
bấy giờ cũng không cao. Ngay đức Phật Thích Ca Mâu Ni Ngài cũng nói rõ, là thời
kỳ đó không thể mở ra xa lộ Phật đạo được, bởi vì nhân loại lúc đó trình độ còn
kém, còn thấp. Nên Ngài phải đưa phương tiện vừa đủ trong điều kiện của nhân
loại trong thời kỳ đó thôi. Cho nên khi Ngài giới thiệu về Duy Ngã Vạn Pháp
Kinh, Ngài nói: “Thiên thượng
thiên hạ duy ngã độc tôn” Ngài chỉ giới thiệu thôi chứ Ngài
không nói về bộ kinh duy ngã. Nhưng trong kho tàng kinh điển thì có Duy Ngã Vạn
Pháp Kinh. Như trong các kinh: Hoa nghiêm, Pháp hoa, Kim cương, Hoàng kim đều
có Duy Ngã Vạn Pháp Kinh cả. Bởi trong đó có những phần kinh về tiểu ngã, đại
ngã thì đó là duy ngã rồi. Nhưng giải thích tròn đủ về tính minh triết của duy
ngã thì lúc đó Ngài không nói. Vì vậy mà thời này chúng ta sẽ bắt đầu học
bộ kinh duy ngã đó.
Như vậy, bây giờ các vị phải hiểu là Công Luật phủ
chiếu các tôn giáo. Vì Công Luật nói được tổng thể, nói được tâm, nói được vật,
nói được cái tuyệt linh của đấng Thống hoá, nói được tính khoa học, nói được
tính biện chứng, để giải quyết được cái mâu thuẫn mê hoặc của thần linh và giải
quyết vấn đề đức tin không đích thực. Thí dụ như tin duy vật mà không tin là có
chân tính của duy vật, hoặc là tin duy tâm một cách cực đoan, coi thường vật chất
trong đời sống rồi lại vô trách nhiệm với xã hội, là không đích thực rồi.
Chính
vì những sự sai lầm đó mà Mẹ Quán Thế Âm, đấng Thống hoá và mười phương Như Lai
mới thiết lập hệ thống Công Luật để hoàn chỉnh hơn, làm sáng tỏ tất cả mọi tôn
chỉ đó. Như vậy trong chu trình Công Luật vũ trụ học thì đề tài kinh triết của
chúng ta là: Duy Ngã, Vật Thể, Tổng Thể Vũ Trụ Quan, Thống
Hoá. Như vậy trong bốn chiều đó, Thống Hoá là hàm chứa cả một
vấn đề tối linh rồi. Thì trong cái tinh thần duy linh độc thần ấy nó vẫn có
trong Thống Hoá. Nhưng Công Luật thì giải quyết khoa học hơn, có phần mềm mại
hơn, quyền biến hơn, siêu diệu hơn, chứ không phải xơ cứng như thần linh cho
rằng có một ông thượng đế trong không gian chạy ra thiết lập, nó khác ở chỗ
này.
Vấn đề duy vật, thì duy ngã vật thể tức là chi tiết
hoá, phân tích rõ ràng về vật chất từ cái cực vi hạt bụi, cho đến cái cực đại
của thiên hà, ngân hà, thái dương hệ. Vật chất là nói tất cả những cái gì thuộc
về sắc thể, thuộc về các thành phần hoá học. Vậy cơ cấu vật thể cũng được giải
thích một cách rõ ràng, có tính thuyết phục đối với duy vật.
Trong cái duy ngã cũng có phần duy tâm của nó tức là
siêu sắc thể chân tính thì nó thuộc về duy tâm rồi, nó có trung tâm linh quang
và hợp tụ ánh sáng tổng thể để mà hợp thành ra vạn pháp thì trong đó đã có duy
tâm rồi. Về duy ngã thì không thể tách rời cơ cấu vật lý, cái hệ thống cấu trúc
của toàn hữu của vạn pháp, tức là nó đã có vật chất rồi. Như vậy trong duy ngã
đã có tính thể dung thông, tâm vật được bảo hòa. Chính vì vậy cho nên học
thuyết Công Luật là phủ chiếu các tôn giáo. Vì các tôn giáo hiện nay họ vẫn còn
bảo thủ. Duy linh độc thần thì bảo thủ tối đa về độc thần, cho rằng độc thần
tức có hữu thần, còn các học thuyết khác là vô thần. Còn duy tâm thì hoàn toàn
đứng trên tính khách quan, có nghĩa là vũ trụ không có chủ thể, vũ trụ không có
thương đế, vũ trụ chỉ có tính khách quan của trung tâm vạn năng, tức là chất
chứa những giá trị siêu thể ánh sáng tự nhiên như vậy. Đó là những mâu thuẫn mà
chúng ta phải biết rõ để chúng ta đưa Công Luật vũ trụ vào giải quyết những mâu
thuẫn đó.
Tại sao chúng ta nói rằng Công Luật là phủ chiếu các
tôn giáo? Vì duy tâm chỉ nói duy tâm thôi, quan niệm vật chất là phương tiện,
chứ không có đích thực. Duy linh thì cho rằng toàn thể nhân loại vũ trụ đều duy
nhất là đấng Độc thần tạo ra, nếu thuận theo đấng Độc thần thì mới giải thoát,
mới sinh vào thiên đàng còn không thì vào địa ngục, nó đơn giản hoá như vậy.
Còn duy vật thì cực đoan, cho rằng không có thượng đế và cũng không có Phật, Phật
chỉ là sự bịa đặt ra thôi. Bởi vì cho rằng vật chất quyết định ý thức, vật chất
có trước, ý thức có sau. Khi nào mà vật chất hình thành thì nhân đó mà phát
sinh ý thức. Khi vật chất tiêu huỷ thì ý thức cũng nhân đó mà tiêu hủy theo.
Như vậy là không có linh hồn, không có thế giới bên kia, không có sinh về niết
bàn, thiên đàng gì cả. Vậy lỗi của người duy vật là đoạn kiến, lỗi của người
duy thần là quá độ trong cái độc thần, hoàn toàn ký gởi cho độc thần, không có
tính khoa học, minh triết ở trong vũ trụ. Còn duy tâm thì ôm chặt cái tâm cực
đoan rồi sinh ra tiêu cực. Vậy, nếu theo các duy đó thì chúng ta sẽ bị phân hoá
về sức mạnh tổng hợp của vũ trụ rồi. Làm cho chúng ta mất đi tính hội tụ và sức
mạnh tổng hợp tinh hoa của vũ trụ. Nó làm phân hoá giữa tâm vật, làm cho sự
nhìn nhận giữa các chiều khác nhau và tạo ra sự mâu thuẫn giữa các chiều đó. Vì
vậy Công Luật tổng trì ra đời, nhằm để hoàn bị cho những giá trị ánh sáng chung
đó không tách rời nhau.
Về
nguyên lý, chúng ta muốn tìm về đấng Thống hoá thì phải đi bằng đôi chân của
duy ngã. Vì đấng Thống hoá đã cho chúng ta đủ tất cả những tinh hoa, nên chúng
ta phải đi bằng cái thực thể của chính ta, chứ không phải đi bằng cái của Ngài.
Nếu đi cái của Ngài là đi bằng thánh khiết và những giá trị chân lý cao nhất,
đi bằng sự chân chính của Công Luật Duy Ngã, đi bằng công phu rèn luyện, tu
chính hoàn chỉnh nhất để đến với Ngài. Tức là đi cái đi không lầm lẫn.
Tôn
chỉ của đức Thích Ca Mâu Ni ra đời cách đây 2050 năm là một tôn chỉ đúng hay là
tôn chỉ của đức Ki Tô cũng là một tôn chỉ đúng. Nhưng quá trình lịch sử của
thời đại thì nó có thay đổi. Nó thay đổi là bởi vì cách đây 2000 năm nó không
phải giống như bây giờ và sau này 500 năm nữa cũng sẽ không giống như bây giờ.
Chân lý ánh sáng không bao giờ thay đổi, nhưng mà quá trình thay đổi của dân
trí trong thời đại văn minh thì nó có thay đổi. Cũng như tôi nói cách đây 3- 4
trăm năm làm gì có máy bay trên trời, làm gì có tàu thủy đi trên biển cả, làm
gì có chuyện con người đi lên không gian. Nhưng hôm nay chúng ta có thể tin
rằng đức Chúa sẽ làm những chuyện đó, đức Phật sẽ làm những chuyện đó, có tin
như vậy không? Thật ra thì các nhà bác học làm chứ đức Chúa hay đức Phật nào
làm đâu. Bây giờ những con người có khái niệm về khoa học họ sẽ cho rằng khoa
học giỏi hơn Chúa và Phật, vì chúng sinh chấp như vậy, vì chúng có thấy các
Ngài làm bao giờ đâu. Như vậy nếu ta xác định về tính Công Luật vũ trụ thì công
trình duy ngã là đúng nhất. Công trình duy ngã không phân biệt đức Chúa hay là
đức Phật. Nếu nói công trình của thần linh làm thì không đúng rồi. Công trình
của duy tâm làm cũng không đúng rồi. Còn trong cái hiện đại của khoa học ngày
nay thì công trình duy ngã của tính thể dung thông, của tâm vật hợp
chiếu nó làm, chứ
không phải đức Phật làm. Vậy thì đúng là thời kỳ này là thời kỳ của công trình
duy ngã, mà duy ngã thì không có phân biệt là Phật hay Thánh gì cả. Duy ngã là
sự phát triển của tính thể hợp chiếu, của tâm vật hội tụ, là lấy trí tuệ kết
hợp với vật chất để làm ra.
Bây giờ nói về biện chứng pháp thì tất cả những nền
khoa học hiện đại, chúng ta thấy không có đức Phật nào làm, cũng không có ông
duy linh nào làm. Vậy rõ ràng là trình độ văn minh của thời kỳ hợp chiếu tính
thể, tức là lấy trí tuệ tương tác vật chất, đó là công trình của duy ngã. Là
công trình sức mạnh của tinh hoa hội tụ. Giữa tri thức ánh sáng và vật chất
trong thời đại mà con người có nền văn minh tiến nhanh. Cho nên đối với học
thuyết Công Luật là học thuyết hiện đại, là để theo kịp với tiến trình dân trí
của thời đại. Bây giờ nếu ta đem vấn đề duy linh ta nói trong thời này thì nó
không giải quyết cho các hàng lớp trí thức và các học giả, không giải quyết cho
các hệ thống chuyên môn, các nhà khoa học được. Hay chúng ta đem lại những phần
kinh chuyên trì về tâm pháp, có tính chuyên môn hoá tâm pháp thì cũng không
thích nghi với thời kỳ này. Còn nếu đem chương trình duy vật thì nó cũng hoàn
toàn không đúng, bởi vì nay đời sống nhân sinh là đa quan chứ không phải là duy
vật một chiều. Như nền văn minh phương Tây là nó tôn vinh các tôn giáo, tức là
nó vừa phát triển cả hai mặt, như vậy là duy ngã rồi. Con đường mà nhân loại
hiện nay đang đi tức sẽ trở về với sự nghiệp hội tụ, với sức mạnh của tổng tinh
hoa chứ không phải phân hoá bởi thần linh hoặc là duy tâm, duy vật hay duy thần
cực đoan. Mà nó sẽ trở về với một trung tâm duy ngã khoa học, tức là trở về với
tính Công Luật vũ trụ. Như vậy con đường mà nhân loại đang đi là đi trên con
đường khoa học Công Luật vũ trụ. Còn tôn giáo chỉ giải quyết từng phần chứ
không có tính toàn phần. Mà xã hội thì đòi hỏi tính Công Luật của vũ trụ, nó
đòi hỏi về học thuyết, về minh triết Công Luật.
Trong
Công Luật thì có nhị minh khoa, tức nền khoa học thực nghiệm và nền khoa học
Đại Ngã. Cho nên công việc mà hiện nay con người đang phát triển tức là những
công trình của duy ngã. Tuy rằng họ không nói, họ không tuyên xướng về công
trình duy ngã, nhưng mà thực chất giá trị nó là những công trình duy ngã chứ
không phải công trình duy tâm và thần linh. Nếu công trình của thần linh thì nó
phải hoá phép, hô biến một cái là có hòn núi, hô biến là có kim tự tháp, còn
công trình duy tâm lấy cái tâm để mà làm, nếu không có vật chất trong quá trình
phát triển đó thì làm sao nó gọi là công trình duy tâm, như vậy thì
ý niệm duy tâm chứ không phải công trình duy
tâm. Còn nếu lấy vật chất làm mà không có tri thức trí tuệ thì
biết đâu mà làm. Bây giờ, ngay cả kinh tế cũng gọi là kinh tế tri thức. Kinh tế
tri thức cũng gọi là phi vật chất. Phi vật chất mà nó làm ra vật chất, làm cho
vật chất được phồn vinh thì rõ ràng nó thuộc về chân tính rồi, thì đó chính là
công trình duy ngã vậy.
Như
vậy, đề tài “duy ngã, vật
thể, tổng thể vũ trụ quan, thống hoá” là một nhân sinh quan
mới, là một vũ trụ quan hoàn toàn đúng. Đó là một đề cương, là một minh triết
hoàn bị cho những giá trị mà nhân loại đang phát triển, đang có một tiến trình
dân trí cao nhất trong thời đại và chắc chắn sẽ đi đến công trình duy ngã. Rồi
từ duy ngã đi đến đại ngã. Như vậy, không còn các tôn chỉ như duy tâm, duy
thần, duy linh gì nữa mà trở thành hiện thực của sự tổng hợp mang tính
duy ngã quốc tế, mang tính duy ngã nhân loại, mang tính duy ngã vũ trụ quan và
Công Luật vũ trụ quan. Vì nhân sinh quan nó là duy ngã, thì vũ
trụ quan nó là đại ngã, chứ không thể có gì khác hơn được. Nói đến duy ngã và
đại ngã là nói đến tính tổng hợp, tính dung trãi, tính minh triết, tính chứa
nhóm của tổng tinh hoa tính thể. Vậy chúng ta phải hiểu được chỗ đó để khi nói
về Công Luật, thì chúng ta phải biết Công Luật là một học thuyết phủ chiếu trên
toàn duy của các tôn chỉ, làm sáng tỏ về các cực đoan của các tôn chỉ, như tôn
chỉ duy thần, tôn chỉ duy tâm, tôn chỉ duy vật, tôn chỉ duy lý và còn nhiều tôn
chỉ khác nữa, nó còn nằm ở ngoài rìa chứ chưa vào Công Luật vũ trụ. Tức là chưa
học được Công Luật vũ trụ, còn chúng ta thì đang đi trên con đường Công Luật vũ
trụ mang tính toàn duy, chứ không phải là một khía cạnh của một học thuyết. Vậy
tất cả những công trình của nhân loại đang có, là công trình không phân biệt
Phật Thánh Tiên gì hết, mà công trình của duy ngã không còn tôn chỉ nữa, mà trở
thành hiện thực của sự tổng hợp mang tính duy ngã quốc tế, mang tính duy ngã
nhân loại, mang tính duy ngã vũ trụ quan và Công Luật vũ trụ quan. Vì nhân sinh
quan nó là duy ngã thì vũ trụ quan nó là đại ngã chứ không thể có gì khác hơn
được.
Đây là chân lý vô cùng khách quan, một khi ta nói
chân lý khách quan, là ta đã thể nhập cái thực của chính ta vào trong đại chúng
rồi và đại chúng có cái thực đó thì ta và đại chúng trở thành Phật. Còn nếu
giữa ta và đại chúng không có cái thực. Một học thuyết đưa vào đại chúng không
có cái thực thì học thuyết đó không thể phát triển được. Như vậy nếu là Phật
đạo thì phải là Phật đạo Công Luật, nếu KiTô giáo thì cũng phải đi vào Công
Luật và tất cả đều đi vào Công Luật. Bởi vì Công Luật Đấng Thống hóa mười
phương Như Lai đã nói rõ, những khởi điểm đầu tiên của tính chuyển động là
nguyên tắc, mà nguyên tắc là luật. Cái gì mà thuộc về chuyển động thì cái đó là
nguyên tắc, là nguyên nhân gọi là định lý, nguyên lý tất yếu của sự chuyển động
thì đã là luật rồi, nên tất cả đều là luật. Ở trong thế giới nhị nguyên còn sự
tương tác, hỗ tương thì không thể nào ta tách cái luật đó ra được. Nếu tách nó
ra thì nó sẽ bị phân hóa liền, nên phải đi trên con đường Công Luật đó.
Vậy duy tâm, duy lý, duy linh v.v… không phải là sai
mà đúng ở giá trị lịch sử theo thời gian và không gian đó, chớ không phải đúng
cho một quá trình chuyển động tổng hợp, để đi đến một thời kỳ mà dân trí phát
triển cao nhất.
Ví dụ: ngày xưa Đức Thích Ca Ngài ví đại thừa pháp
ta như xe trâu, xe voi thôi chớ Ngài không thể ví như tàu lửa, máy bay được, vì
lúc đó nhân loại không có thứ đó. Thì thời kỳ này đại xa lộ Phật pháp phải mở
ra, nếu không thì Phật pháp sẽ lùi dần theo thời gian chớ không thể tiến triển,
vì chúng sanh nó tiến mà Phật pháp không tiến theo chúng sinh, thì làm sao
chúng ta có thể dẫn độ chúng sanh. Cho nên Phật pháp y cứ theo quá trình phát
triển của nhân loại và dân trí, mà Phật pháp luôn luôn đi trước, thì chính cái
Công Luật Phật đạo hôm nay là đã nói lên tính đi trước của nó. Vậy thời kỳ mà
công án đức Di Lặc ra đời, thời kỳ vạn pháp toàn duy ra đời, nó mới tương ứng,
lại vừa đáp ứng, để tương xứng với giá trị phát triển của nhân loại trong thời
đại mới. Chớ còn chúng ta đưa những học thuyết thấp hơn, thì thời đại đó sẽ bị
trục hãm. Tức là dân trí đi trước học thuyết đi sau, thì dân trí sẽ không đồng
bộ với học thuyết, nên học thuyết phải đi trước, dân trí đi sau, hoặc là học
thuyết và dân trí cùng gặp nhau để mà đi.
Vậy trong quá trình lịch sử biến đổi, mà các vấn đề
học thuyết ấy đều bị biến đổi, làm cho xáo trộn dân trí, như vậy thì học thuyết
đó không có tính cơ bản. Vì những học thuyết đó không đáp ứng được cho nhân
loại, là không có tính cơ bản. Ví dụ như duy vật không đáp ứng được cho nhân
loại là không có tính cơ bản; duy linh không đáp ứng được cho nhân loại là
không có tính cơ bản; duy tâm không đáp ứng được cho nhân loại là không có tính
cơ bản. Nhưng duy ngã đáp ứng được cho nhân loại là có tính cơ bản, có đúng
không? Vậy chúng ta phải học Công Luật để đem Công Luật làm sáng tỏ cho những người
duy tâm cực đoan, duy vật cực đoan, duy thần cực đoan. Chúng ta phải có trách
nhiệm làm sáng tỏ, chớ không phải là đập đổ những học thuyết của họ.
Giống như anh làm ra một cái bánh chỉ có một chất
thôi, nhưng muốn ăn cho đủ bốn chất thì phải chế cái bánh đủ bốn chất. Vì cái
bánh bốn chất sẽ được đầy đủ tất cả mọi tiềm năng và dinh dưỡng cơ thể, còn cái
bánh một chất thì làm sao đủ được. Nên phải mua cái bánh duy linh, mua bánh duy
tâm, mua bánh duy vật, mua bánh duy lý. Bốn cái bánh đó ăn một lượt mới có đủ
bốn chất đó. Còn người Công Luật người ta có cái bánh đủ bốn chất đó rồi, khỏi
cần phải mua nhiều thứ bánh.
Người ăn bánh thì lại thường bảo thủ, chỉ ăn cái
bánh của mình mà không chịu ăn bánh của người khác, nên bị thiếu chất sinh ra
nhiều thứ bệnh hoạn. Như vậy cái bánh Công Luật là cái bánh của bốn chất trong
đó có đạm, có béo, có vitamin, có những hàm lượng vi chất và tất cả những tổng
chất mà cơ thể chúng ta cần, chúng ta ăn cái bánh đó sẽ được khỏe mạnh. Còn ăn
cái bánh một chất thiếu ba chất kia thì phải bệnh, bị phản ứng và suy yếu vì nó
không đủ tiềm năng của sự phát triển. Thật ra vũ trụ không phải là một chất, mà
là một tổng hàm tinh hoa, nếu nói theo hoa nghiêm thì chúng ta không thể nào
dùng tư tưởng để nghĩ hết hoa nghiêm thượng tầng của vũ trụ.
Như vậy thì chúng ta phải thấy rằng, Công Luật mà
chúng ta đang đi là toàn duy, toàn chiều nhưng mà không mâu thuẫn của toàn
chiều, tức là về trung tâm để điều ngự các chiều chớ không chạy riêng ra các
chiều làm lũng đoạn và mâu thuẫn hóa các chiều đó. Vậy chúng ta về trung tâm để
điều hợp các chiều, làm cho các chiều được xoay theo một quy trình thượng, để
phát triển đồng nhất trên con đường của tâm vật mà không tạo sự mất cân đối.
Chúng ta đến với Thống hóa một cách dễ dàng không có gì khó khăn, còn một khi
chúng ta làm lệch cân rồi, đến với đấng Thống hóa rất là khó, đến với ánh sáng
vô cực tròn đủ những giá trị sức mạnh, để chúng ta vĩnh viễn không còn phải bị
trầm luân nữa thì rất khó. Vì đi trong cái đi không cân bằng thì khó mà đến
đích. Từ xưa đến giờ nhân loại đi cái đi bị nghiêng lệch, chớ không đi vào
trung tâm để điều hợp. Vậy, đường Công Luật đưa ta trở về trung tâm điều hợp,
mà điều hợp tức là sự tổng hợp của toàn duy ấy. Như vậy, sách kinh đã rõ ràng,
và cửu kinh minh triết là nói về cái thật của một hệ thống. Như vũ trụ có trung
tâm, thì chúng ta phải nói có trung tâm. Vũ trụ có sức mạnh của oai âm dương,
thì chúng ta phải nói âm dương. Vũ trụ có hoạt động, có vận chuyển, có tuần
hoàn và tất cả những cái mà chúng ta nói đó hoàn toàn vũ trụ có, chúng ta không
phải nói thêm, mà cũng không được nói bớt. Như vậy là nói cái thực rồi Vì nói
thêm tức là viễn tưởng hóa sự thật, nói bớt tức là làm mất đi cái sự thật của
tinh hoa và giá trị sống của nó, hai cái đó đều nguy hiểm cả. Mà nói đủ nói tròn,
tức là sự an toàn của giá trị thực mà chúng ta đang đi trên con đường Công Luật
học.
Như vậy, khi chúng ta ra đời nói về Công Luật học,
nói về cửu kinh minh triết, thì thứ nhất là chúng ta không nên đối kháng, cho
học thuyết này là tốt, học thuyết kia là xấu mà chúng ta phải lý giải và làm
sáng tỏ, gia tăng cái tổng hợp về sức mạnh của Công Luật vào đời sống của mỗi
chúng sinh, mỗi tôn chỉ và làm hài hòa các tôn chỉ đó. Sự tôn vinh các tôn chỉ,
có nghĩa là chúng ta làm cho các tôn chỉ đó được sáng tỏ, chớ không phải là
chúng ta bác kích các tôn chỉ đó, thì nhất định đường Công Luật chúng ta đúng.
Như vậy chúng ta có thể nói về lịch sử khách quan, chúng ta tôn vinh các đấng
cứu thế ra đời, lúc đó phải làm như thế để phù hợp với dân trí, phù hợp với thổ
nhưỡng, với châu lục, vùng miền. Vì các chủng tộc trên hành tinh này có những
đặc thù khác nhau, nên các đấng cứu thế ra đời tùy theo điều kiện năng lực,
hiểu biết, cơ duyên mà hóa đạo, hóa duyên.
Thực hiện công trình duy ngã nhằm để thăng hoa trong
chánh thiện, trong chân thiện mỹ, công trình đó là công trình chân thiện mỹ,
công trình của chân ngã. Tức là từ công trình duy ngã đi đến công trình chân
ngã. Cái sức mạnh đem lại sự hạnh phúc của toàn tâm, toàn lực ấy mà nhân loại
được hưởng là công trình tổng hợp. Còn tất cả những gì không thực phải bị khuất
phục trước sự thật. Bởi vì do sự phân hóa cắt xén mà không thực, do sự phản ứng
các chiều hướng khác nhau mà không thực. Chính thế giới đang đi ở gốc độ, mà
không đi con đường trung đạo của tổng hợp, không đi con đường Công Bản của hóa
pháp. Chính vì vậy mà làm cho nhân loại bị phân hóa, phân hóa tâm vật, phân hóa
tính thể và phân hóa của cái thượng và hạ, làm cho cầu nối ánh sáng của trung
tâm đối với chúng ta bị tách ly ra, không tụ lại được. Chính vì không tụ lại
nên sức phát triển của nhân loại bị yếu, cũng như hiện nay sự phát triển của
nhân loại là khoa học, chứ không có nghĩa gì đến Công Luật hết, chỉ biết cái
chuyên môn hóa. Nếu là bác học thì nghề bác học mà làm, chuyên môn thì cứ
chuyên môn mà làm, chớ không biết định hướng của nhân bản hóa về cứu cánh đi về
đâu? Thật ra, có những người họ sống như một công cụ thôi, chính họ đang ở
trong đời sống của công cụ, họ không có cứu cánh, vì họ sống mà họ không biết
mai này chết rồi họ về đâu. Họ đuổi bắt dòng nghiệp, hay dòng nghiệp đuổi bắt
họ, họ cũng không hề biết được. Còn đối với Công Luật thì rất rạch ròi về giá
trị cứu cánh, và cái cứu cánh của hiện thực trong đời sống của xã hội, cái cứu
cánh của sự siêu hóa của đời sống tâm pháp, tức là Công Luật sẽ thực hiện được
những công trình hiện hữu thấy trước mắt, và sau đó người ta thỏa mãn được những
công trình hiện hữu đó trong giá trị chính vị của họ, mà họ có một lối thoát
rất rõ ràng cả hai mặt. Đời sống thì họ dùng sức mạnh của tâm đức và tài năng
để mà hóa pháp. Cho nên cái kết quả của sự hóa pháp đó lại hội tụ về cho họ
thành sức mạnh của sự hưởng phúc, sức mạnh của sự công trình và sức mạnh của sự
giải thoát.
Chúng ta phải thấy rằng, tất cả muôn vật thể trong
vũ trụ này đều có trung tâm. Như trung tâm của hành tinh là hồng cầu. Nói về
mặt bằng của trung tâm hành tinh là quỹ đạo tuyến chia cầu. Nói về nền văn minh
của hành tinh thì trung tâm có thể là nước Mỹ. Như vậy, trung tâm là sức tập
hợp tổng thể tinh hoa để phát ra cường độ và hình thành vạn pháp.
Vũ trụ có trung tâm vạn năng, có âm dương vạn tỏa và
sức uy lực của âm dương vạn tỏa đại thế chí, là muốn nói sức ấy phát huy cường
độ trên mọi cường độ và phi vượt cả thời gian và không gian để chuyển động tổng
thể tinh hoa ấy mà thiết lập hệ thống vật chất. Như vậy, vật chất không thể
tách rời sức mạnh của tổng thể âm dương mà có.
Thống hóa là gồm có Thống thức chân quang kinh,
Trung tâm vạn năng kinh và Oai âm dương vạn tỏa kinh mới hình thành ra vận luật
tuần hoàn. Và chính từ siêu sắc thể mới hình thành ra sắc thể lập thành tinh
hoa tổng thể mới có chúng ta. Như vậy, duy ngã vật thể là đại diện cho tổng thể
vũ trụ.
Nếu chúng ta duy vật, duy tâm hoặc duy linh là tổng
thể duy ngã bị chia cắt, mà chân lý của sự thật bị chia cắt là mơ hồ, là mê tín
có thể làm cho giá trị tổng thể ấy bị sụp đổ thì quá trình tiến hóa của nhân
loại bị sụp đổ. Chúng ta trở về tổng thể để tạo thành một sức mạnh cho duy ngã
đại thể đi lên chân ngã.
Duy ngã đại thể là mặt bằng hóa chân ngã. Một khi
chúng ta hình thành được chân ngã thì chúng ta cũng có nghĩa là bác học, cũng
có nghĩa là siêu nhân, cũng có nghĩa là các danh từ cao nhất được đặt ra ở giá
trị cấp thượng. Vì một khi chúng ta hóa được chân ngã thì ánh gương minh của
tâm đức sẽ phát chiếu như mặt trời. Như vậy, trung tâm thái dương hệ là mặt
trời. Vì tất cả những hành tinh đều quay theo mặt trời để tồn tại, nhờ sức dẫn
quang ấy mà phát triển.
Chỉ có minh triết kinh triết mới vạch định con đường
cho chúng ta đi và tránh khỏi những vấn đề viễn tưởng mơ hồ và ảo vọng. Vì
chúng ta trở về học minh triết là khai thị được nội lý, sáng tỏ được nội tâm,
nhập được thần định và phát minh về trí huệ. Đó là cường độ và sức tổng hợp của
minh triết đã an bày cho chúng ta.
Một khi chúng ta kẹt trong giáo điều là chúng ta
không làm sáng tỏ tổng thể đó. Nên lấy minh triết để giải quyết những giáo điều
và không bị vấp ngã trong giáo điều ấy. Thì minh triết là cự nhật đại quang, là
ánh sáng soi chiếu của mặt trời. Vì khi mặt trời mọc lên thì muôn vật chúng ta
đều thấy rõ, nhẫn đến cây kim sợi chỉ, con đường, cái nhà, hòn núi, con sông và
cả biển cả bao la mênh mông cũng thấy được hết.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!