Thứ Bảy, 11 tháng 5, 2013

cửu kinh minh triết 15




BẢN CHẤT VÀ GIÁ TRỊ DUY NHẤT CỦA CÔNG LUYỆN ĐỐI VỚI THỂ ĐẠI HỎA

Trên thềm nhị nguyên ta thấy sức mạnh của oai âm dương vạn tỏa ở trong hệ thống của tứ đại và tứ đại tinh ròng của giá trị hóa, các tổng thể hóa được ở trong tứ đại ấy, nhưng chúng ta lấy mặt bằng của hỏa đại và tính khách quan của Công Luật.
Như thế nào là tính khách quan của Công Luật? Các mặt bằng của hóa được nhóm tụ trong địa đại, trong thủy đại, hoặc trong phong đại, đều là những tên khoa học của các đơn vị hóa và thành lập hóa học hóa. Vậy ta thấy rằng giá trị hóa được hợp thành ở trong thất đại hóa, ở thượng tầng, trung tầng và hạ tầng. Song tính duy nhất của hỏa đại là tính công luyện khách quan, vì sao? Vì tất cả mọi sự kết tinh từ thể lỏng qua thể rắn, nếu không có hỏa đại công luyện khách quan thì tất cả thể lỏng ấy không bao giờ kết cứng. Về độ nung đến tột cùng của giá trị các sản phẩm quí nhất trong đời sống của duy ngã đại thể, nếu không có lửa thì hoàn toàn không thể thành phẩm. Như vậy, tính công luyện khách quan của hệ thống Thống Hóa đã đưa lửa vào hệ thống công luyện như một vị thợ rèn khổng lồ nhất của đời sống duy ngã đại thể. Tất cả những sự rèn đúc để hình thành các tác phẩm, nếu không có hỏa đại thì hoàn toàn không có tác phẩm. Vậy bản chất của hỏa đại là bản chất duy nhất của tính công luyện và rèn đúc khách quan của giá trị hóa trong tổng thể hóa ấy.
Như vậy, đỉnh cao tột cùng của giá trị tri thức ánh sáng, vẫn không tách rời tổng tinh hoa hóa của hỏa để có một đời sống gọi là tam muội hỏa. Nên Như Lai nói chân tính tam muội hỏa là cực kỳ siêu xuất nhất ở trong đời sống của tổng thể. Nên giá trị kim cương pháp thân được kết tinh là nhờ tinh hoa hỏa, đó là hệ thống thượng tầng.
Các sản phẩm vàng, nhôm, đồng, chì, gan, sắt, thép…đều nhờ thể đại hóa của hỏa đã kết nung và hình thành giá trị kim sắc. Nếu không có hỏa thì hoàn toàn hệ thống kim sắc dù có mặt bằng tinh hoa cũng không thể hóa được.
Vậy ta rút tính chất công luyện khách quan của hỏa làm công luyện; thì đời sống tri thức ánh sáng tâm linh ở thượng đỉnh, lấy hỏa tam muội làm chỗ công luyện.
Đức Như Lai nói: “hãy triệt tiêu tất cả những hỏa của tầng thấp để được hỏa của tầng cao; triệt tiêu những sân cấu, cấu uế của sự nóng nảy, vi phạm đến giá trị hóa của tổng, thì chúng ta được chắt lọc giá trị cuối cùng của tinh hoa tam muội hỏa”. Đời sống tam muội hỏa là đời sống bất biến hóa và đã hóa thật sự trở thành kim cương chân tâm.
Kim cương chân tâm không thể tách rời tam muội hỏa để có, thì giá trị ngọc, vàng ở tầng dưới cũng không tách rời độ nung kết của lửa để có. Thì thể đại hóa của hỏa là tính công luyện khách quan của vũ trụ quan; thể đại chân tính của hỏa là thể chủ quan của hóa để kết tinh được chân tính kim tính.
Như vậy, tính chủ quan và khách quan đứng trên lĩnh vực của hỏa đại, thì hỏa đại vẫn là biểu trưng cho ánh sáng. Và chứng minh cho  giá trị ánh sáng tột cùng đó là tam muội hỏa; cũng là ánh sáng tột cùng của tính hợp nhất, thì hỏa vẫn là nguyên tử đặt trưng của giá trị duy nhất khách quan của công luyện.
Như trước đây những nhà quan niệm về thần học cũng lấy lửa làm chỗ đứng của giá trị ánh sáng về thần học cao nhất. Ngay như Đức Ca Diếp khi chưa gặp Đức Phật Thích Ca thì Ngài cũng lấy đại hỏa làm chỗ chủ sự giá trị ánh sáng đối với tính công luyện khách quan của đời sống nhân sinh và vũ trụ.
Về duy ngã đại thể tiểu cấp, khi nền văn minh đồ đồng bắt đầu phát sinh thì lửa cũng là chỗ công luyện khách quan để rèn đúc và lập thành các tác phẩm có liên quan đến kim loại.
Đối với tứ đại thì chức năng và giá trị của tứ đại đều bằng nhau, nhưng tính của hỏa là tính duy nhất khách quan của công luyện trong sự rèn đúc và kết tinh hình thành các sản phẩm và cuối cùng đi đến chỗ thành tựu viên mãn.



ĐỊA ĐẠI LÀ NÔI THAI TỔNG THỂ
CỦA HỆ THỐNG SINH HỌC VÀ HÓA HỌC

Về tính biện chứng cho chúng ta thấy địa đại kết hợp với nước để làm nôi thai cho hệ thống hóa tổng thể hóa học và sinh học. Thì chúng ta có thể nhân cách hóa hành tinh là người Mẹ, là biểu thị cho mẫu số. Vì hành tinh là chứa nhóm giữa đất và nước. Hai thể đại ấy đã trở thành một hệ thống cấu trúc trong tính chất và giá trị định luật bất biến. Thì đất là giá trị mẫu số của hệ thống nôi thai có tính tổng hòa, vì trong đất đã có đầy đủ tất cả những đơn vị hóa học mà không thiếu một chất liệu hóa học nào. Như vậy, tổng thể của địa đại là nôi thai của tổng thể hóa học hóa, cũng đồng thời là nôi thai của sinh học hóa.
Về nôi thai sinh học hóa, thì có hai đơn vị động vật và thực vật. Trong động vật và thực vật ấy thì nền của nó vẫn là tổng hóa học hóa. Nên con người mới khai thác các đơn vị hóa học ở trong thực vật và ở trong động vật.
Như vậy, người ta đã đặt tên rất nhiều về các đơn vị hóa học đó thì bản chất của nó đều có tính duy nhất trong hệ thống hóa và đồng thời nó đã tập lũy kết tinh trong hệ thống hóa của địa đại, để chịu lực từ trường chuyển động cực mạnh của hệ thống Thống Hóa mà kết tinh cho nó.
Vậy địa đại là mặt bằng của tổng hóa kết hợp với nước để làm nôi thai cho toàn thể tổng thể hóa học và sinh học. Như vậy, hệ thống sinh học là hoàn toàn nằm trong qui phạm của hóa, chứ không phải là thượng đế hà hơi. Nếu đứng trên khoa học đại ngã thì chúng ta thấy hệ thống của hóa học là mang tính siêu sắc thể, còn đứng về phần lập thể thì nó mang tính sắc thể. Thì chúng ta thấy trong tất cả các đơn vị hóa học đều có sắc thể và siêu sắc thể cả.
Định nghĩa về địa đại là mẹ của tất cả chúng ta, vì sao? Vì dù cho có thiết lập vô lượng hành tinh đi nữa mà không có mặt bằng của thái dương và hệ thống địa đại trong hành tinh ấy thì hoàn toàn sẽ không có một sự sinh sôi nãy nở nào cả. Chúng ta đã định nghĩa được địa đại là nôi thai của tổng thể hóa học và sinh học. Vậy địa đại là tổng thể hóa học được kết tinh giá trị hóa và hình thành các đơn vị tổng hợp có tính tương ưng trong môt qui phạm mà không thể khác được, cho nên đây là tính bất biến của định luật .
Bất biến có nghĩa là không sắp xếp cho nó một qui trình sai khác được, vì khi hệ thống ấy không có trật tự thì toàn bộ những giá trị sẽ bị phản ứng và không thể có những giá trị tương quan trong định luật trái nghịch đó.
Vậy trong kinh mà Đức Như Lai đã nói rõ, địa đại mà Ngài đã thiết lập bản kinh của Địa Tạng thì giá trị hóa cũng giống như bản kinh Địa Tạng vậy. Và địa tạng của siêu thể hóa trong đời sống tổng tinh hoa . Địa tạng tức là nói về âm, của đất và nước. Vì đất và nước là âm, cũng là sự chứa nhóm tổng thể giá trị hóa và luôn luôn nuôi dưỡng tất cả những hạt được hóa ở trong hệ thống âm ấy. Cũng như người mẹ đã ôm lấy bào thai nuôi con vậy.
Ngay trong thiết lập hệ thống hóa thì người cha đời đời không bao giờ đẻ con, mà người cha là có trách nhiệm gieo giống về hệ thống đơn vị hóa của bản hạt. Còn người mẹ có trách nhiệm ươm ngậm và giữ gìn hạt giống ấy theo một hệ thống tổng hợp của giá trị hóa ấy; thì người mẹ là biểu trưng cho sự sinh đẻ, thì địa đại cũng như thế.
Đối với nôi thai của duy ngã đại thể, qua hệ thống của nền y học thì chúng ta dễ thấy được. Nhưng nôi thai của hệ thống địa đại thì nó lại vô cùng phức tạp và chiều sâu rộng vô cùng của sự nghiệp hóa ấy đã trở nên phức tạp, mà Như Lai đã có những trí tuệ uyên bác mới nhìn thủng sâu vào hệ thống hóa ấy, mà thấy được sự rung chuyển nhất định của giá trị đó.
Trong hệ thống dịch lý của bản chất tương ưng, thì người ta đã đặt là hỏa sinh thổ, thì đây là qui trình thuận; vì nó sinh ra để làm mặt bằng cho nôi thai. Như vậy, tính dương của giá trị hóa về âm đã hoàn toàn khép kín giữa lửa và đất; thì đất là âm của sự che chở và trạng thái ổn định trong thế giới loài người và che chắn được nước, tức là địa khắc thủy.
Như vậy, giá trị của thủy vẫn là âm, nhưng nếu chúng ta rút hệ thống thổ ra khỏi đời sống của nôi thai hóa về tổng hóa học và sinh học, thì nước không đủ vai trò làm sinh học, cho nên nước phải kết hợp cùng đất để thực hiện những vai trò sinh học trong đời sống hóa. Như vậy, đất và nước hoàn toàn có tính chất liên quan trong hệ thống nôi thai vô cùng phức tạp của sự nghiệp hóa tổng thể sinh học và hóa học.


TÍNH BIỆN CHỨNG ĐƯỢC ĐẠI DIỆN QUA CÁC CON SỐ

Định nghĩa vô cực là vô cùng, trong vô cùng ấy có tụ chiếu quang minh. Vô cực là chân tính thì phải có trung tâm sức mạnh của chân tính ấy. Nếu vô cực không có sức mạnh của trung tâm thì vô cực sẽ bị tản mác trở thành con số không tuyệt đối; thì một hạt bụi cũng không có, trở thành hư không vô tận và không có thất đại hội hóa.
Thất đại hội hóa có thể là tổng thể tinh hoa nhưng tinh hoa mà đại diện cho thất đại hội hóa ấy là kho tàng của vũ trụ, là vô lượng giá trị kim tính, ngọc tính và vô lượng giá trị sinh thái, vô lượng giá trị muôn loại thì vạn pháp được hình thành trên con số 8 vậy con số 8 là đại diện cho giá trị tài nguyên kho tàng vật thể cao nhất của vũ trụ đã hình thành tổng thể tinh hoa ấy trên mặt bằng hành tinh, là ngọc, vàng và giá trị hệ thống sinh thái lớn nhất, cao nhất rồi từ đó hình thành con số 9 của duy ngã đại thể.
Con số 1 về tính biện chứng là luôn luôn đại diện cho tính nhất nguyên và đại diện cho tính duy nhất không bao giờ thay đổi tính duy nhất ấy, nên con số 1 rất quan trọng.
Con số 3 là con số tổng thành của giá trị hợp nhất trong sức mạnh của Âm Dương Vạn Tỏa cùng Trung Tâm Vạn Năng. Nhưng Âm Dương Vạn Tỏa là tính biện chứng để hình thành ra sức mạnh của vạn pháp.
Con số 5 là con số trung cung được đại diện cho Duy Ngã Vạn Pháp Kinh, là con số tập hợp và hình thành giá trị tổng thể tinh hoa.
Con số 7 là con số đóng vai trò dương quang rực rỡ nhất và thành lập giá trị tổng thể của sự nghiệp hóa. Là đại diện cho thất đại hội hóa, là nguyên tắc cấu trúc cơ bản để hóa, là bản chất tổng thể tinh hoa gồm có: Hư Không Đại, Trung Tâm Vạn Năng và Âm Dương Vạn Tỏa, cùng Đất- Nước- Gió- Lửa.
Con số 8 là biện chứng lập thể cao nhất, là con số tổng thành giá trị hóa của các loại kim tính ngọc ngà châu báu cùng tài nguyên sinh thái cao nhất trong sự sống, từ Thất Đại Hội Hóa hóa ra; là đại diện cho đại ngọc, đại kim cùng các loại vật thể cao nhất.
Con số 9 là mẫu số là con số tổng thành được hình thành trên giá trị tổng tinh hoa, là đại diện cho sự tiến hóa cao nhất, đó là duy ngã đại thể. Vậy duy ngã đại thể là đại diện con số 9. Thì hệ số 8 và số 9 là số mặt bằng của giá trị hành tinh và nhân loại.

GIẢI THÍCH VỀ CON SỐ 0

Nếu đứng trên lĩnh vực nhân sinh quan thì con số 0 là quĩ tích của hệ số tỉ, là con số dung chứa tất cả mọi con số. Nếu đứng trên lĩnh vực của vũ trụ quan thì con số 0 ấy là vô cùng của sự chứa nhóm tổng thể tinh hoa và không có biên giới, trong đó có siêu sắc thể và sắc thể.
Siêu sắc thể là biểu thị cho tính của dương và tượng sắc thể là biểu thị cho tính của âm. Thì ngay con số 0 vô cùng ấy là bản vị giá trị hóa của âm và dương rồi, là con số 0 của chung hữu và tuyệt hữu. Nếu đứng trên nhân sinh quan thì con số 0 là không bao giờ bị biến đổi, là đại diện cho số tỉ, có tính vô lượng vô cùng trong con số 0 ấy. Còn đứng trên vũ trụ quan là con số 0 dung chứa giá trị tổng tinh hoa, trong đó có cả Trung Tâm Vạn Năng và Oai Âm Dương Vạn Tỏa. Vì trong qui trình tất yếu của vũ trụ quan cũng từ vô cùng sinh ra 1 và 1 sinh ra tất cả.
Như vậy hai lĩnh vực nhân sinh quan và vũ trụ quan thì con số 0 đều có tính chủ thể. Chúng ta liền hiểu là không có ranh giới giữa đối thức của không và có, mà con số 0 là on số của một hệ số dung trãi và chứa nhóm trong vô lượng số. Như vậy số 0 là số của quĩ tích vô cực chứ không phải số 0 là không.
Còn đứng trên lĩnh vực toán học, nếu lập trình về các căn cao thì cũng không có một nguyên lý nào tách rời vô cực để thực hiện toán học. Như vậy chính con số 0 là trùm lên giá trị của toán học, vì nếu mất con số 0 thì toán học cũng có nghĩa là bị hủy diệt. Đứng trên nhân sinh quan con số 0 cũng là con số tất yếu, còn đứng trên vũ trụ quan thì con số 0 vẫn là con số của vô cùng, vì đó là con số 0 của chung hữu.
Nếu chúng ta đặt ra 0 là không có gì, mà không có gì của nhà Phật là không dính mắc về những giá trị vạn pháp và mang tính vô ngã hóa để thực hiện giá trị vô cùng của chân ngã, chứ không phải số 0 là không có gì. Thực tướng của vũ trụ không có cái không, chỉ có cái có của tương đối và chúng ta đứng từ cái có tương đối đó mà chúng ta phát triển đi đến tuyệt đối. Tức là cái có sinh diệt và cái có không sinh diệt, chứ hoàn toàn không có cái không.
Chúng ta cũng không nên chấp có, vì khi chấp có của sắc thể hữu tướng một cách tuyệt đối, đến khi cái có bị biến đổi, thì chúng ta cũng chết theo cái có đó. Vậy, minh triết của chúng ta là can thiệp vào chỗ không nên chấp không và không  nên chấp có. Mà trở về cái biết của trung tâm để biết rõ không và có là hóa, thì chúng ta mới có lưỡng toàn. Tức là ta ở trung tâm giữa không và có và ta là chủ thể giữa không và có, thì ta mới điều ngự được không và có; thì không và có không tác động và làm cho ta mất không và có. Tức là chúng ta đạt được toàn hữu và hóa siêu hữu, là chúng ta có toàn năng, toàn giác, toàn siêu, tức trong vũ trụ có cái gì thì chúng ta cũng được cái toàn ấy.
Chúng ta mất là vì lầm lẫn phân biệt mà mất, nếu chúng ta xa lìa sự lầm lẫn và phân biệt thì chúng ta sẽ không mất thứ gì hết cả.

9/5 nhuần kỷ sửu

HỆ THỐNG LẬP THỂ CỦA CHUYỂN THAI
VÀ THÀNH LẬP THAI

Hệ thống lập thể của chuyển thai và thành lập thai của 4 loài. Thật ra thành lập thai chỉ có một hệ thống là kết tinh giữa tinh và huyết, hoặc âm và dương, mà khoa học cho là y và x chẳng hạn. Đối với khoa học người ta chỉ nói về đơn vị hoá học của hạ tầng, còn cửu kinh Công Luật học thì thành lập thai là một việc quá vĩ đại, mà còn vượt trên cả vĩ đại và siêu đại để có hệ thống lập thai. Nó vô cùng phức tạp mà khoa học vẫn chưa giải mã được những sự phức tạp về hệ thống lập thai ấy.
Đối với khoa học chỉ lấy từ gốc của tế bào nhân bản ra hoặc sao chép nhái lại, như sản xuất ra người máy. Chứ hoàn toàn chưa có một sự sáng tạo và thiết lập có tính nguyên thể. Vậy quyền năng ấy không thuộc về con người, mà thuộc về hệ thống Thống hoá của chân tính hóa tinh hoa tổng thể. Và đặc thù của nó là không biến đổi tính duy nhất và tinh hoa tổng thể của hệ thống lập thai. Như vậy, hệ thống lập thai của nhiều đơn vị hóa và thành lập thai của nhiều loại thai trong bốn loài. Như thai con gà là cái trứng, thì vỏ trứng là nồi thai, nhưng giá trị hấp thụ trong tính chất hóa dù có đơn giản cở nào thì nguyên tắc giá trị hóa là không thể đi ngược giòng hóa để hình thành ra con. Về bản chất của nó là không thể thiếu đơn vị dương (thiếu cồ) nếu trứng ấy thiếu cồ thì trứng ấy sẽ trở thành vô sinh. Và nó trở thành một đơn vị hóa học bất thành đối với giá trị hóa thành lập con. Đó là phần hóa học lập thể. Còn phần lý tính thì hạt tâm và lý tính có tính độc lập trong giá trị  hóa đối với hệ thống lập thể. Thí dụ, như khi ta mất thân ngũ ấm nhưng độc lập của giá trị hóa đối với thành lập là ta có thân trung ấm, và trung ấm vẫn có tính độc lập trong giá trị  hóa. Thân trung ấm là nghiêng về âm, còn ngũ ấm là nghiêng về dương. Như vậy hai thái cực âm và dương đều thuộc về thân, nhưng về giá trị hạt tâm ở  trong ngũ ấm và trung ấm đều có giá trị nhất định của tri thức và ánh sáng của sự hiểu biết. Như vậy hiểu biết ở trong trung ấm và hiểu biết ở trong ngũ ấm là hai giá trị bằng nhau. Nhưng cái không bằng nhau là thuộc về nghiệp dầy hoặc mỏng, còn đối với  hạt tâm lý tính là bằng nhau.
Về mặt bằng của thân trung ấm là gì? Là giá trị nghiệp dĩ của chúng sinh chưa thành tựu một quả nào cả. Thì nghiệp dĩ ấy tiếp tục chuyển động về sự tham trước của hệ thống lập thể, rồi đi tìm kiếm hệ thống lập thể khi thấy lực âm dương của giá trị hóa phát lên ánh sáng thì nó liền nhảy vô đó để chụp thai. Thời gian nó chụp thai có thể khi thai được một tháng đến ba tháng, tùy theo mức độ chuyển động hình thành giá trị tham trước của hệ thống trung ấm đối với lập thể ngũ ấm. Như vậy trung ấm có liên quan với ngũ ấm; có liên quan là vì kích thích của sự sống đối với hạt tâm lý tính và có thân trung ấm để chuyển động và hình thành thân ngũ ấm, thì luôn luôn nó dòm ngó hệ thống lập thai của ông và bà, tạo thành đơn vị hóa học lập thể. Và nhìn thấy đó là cơ xưởng tạo thân ngũ ấm. Ví dụ như ta cần một chiếc xe để có phương tiện hóa, thì ta tìm cơ xưởng chế xuất để đặt hàng trước. Hoặc ta tìm đủ mọi cách trong giá trị nghiệp dĩ tùy theo mức độ nặng nhẹ, phúc và tội chuyển động để ta dành lấy phương tiện đó.
Khi ta có thân trung ấm để giành lấy cái đó, mà cái đó bị mất đi thì gọi là biến động đột xuất, vì những hệ thống lập thể ấy có liên quan; nên mọi ý tưởng chiếm giữ của thân trung ấm khi đã bị mất cái đó thì lòng khát khao và đau khổ cũng rất lớn. Ví dụ như ông A đến xưởng  chọn và đặt hàng một chiếc xe, sau khi đã thỏa thuận hợp đồng xong thì bổng nhiên ông chủ xưởng đã tự hủy hợp đồng và đem bán chiếc xe ấy cho một người khác. Lúc bấy giờ ông A phẩn nộ bực tức la lối om sòm lên và có thể đòi tùy theo đơn vị nợ và tùy theo giá trị hành dụng của đơn vị nợ mà đòi. Nên mới có chuyện là con nhâu, con sát đi đòi. Tức là đòi đơn vị lập thể của sự tìm nhận giá trị lập thể và lập thể bị mất đi thì thân trung ấm đang ở trong điều kiện là mất phương tiện hóa để chuẩn bị cho một công cuộc tiến hóa mới. Như vậy đơn vị thân trung ấm đã bị mất đi đơn vị lập thể của thân ngũ ấm.
Thường thì ở thân trung ấm là còn bị kẹt nghiệp, và tùy theo mức độ của nghiệp mà chấp nhận mang thân trung ấm từ một năm đến mười năm đến một trăm năm hoặc vài trăm năm, đó là do nghiệp trói buộc không cho chúng ta tiếp tục đi lập thể để có những phương tiện của ánh sáng dương quang và tiếp nhận giá trị thân ngũ ấm có tính nghiêng về dương để thực hiện những công trình
tiến hóa nhanh hơn.
Như vậy, các đơn vị hệ thống lập thể của những mối nhân duyên có liên quan bị bẻ gãy bởi hoàn cảnh khách quan hoặc chủ quan nào đó, mà ức chế thân trung ấm với các hệ thống lập thể tạo ra sự xung đột và khát vọng. Tức là khát vọng của tôi đã bị mất đi với những giá trị hóa nên sinh biến ra các vấn đề báo ứng.
Chúng ta phải thấy rằng Hệ thống Thống hóa đã cho nó một máy móc cơ động. Một là sống cơ động máy móc khách quan, hai là sống cơ động  chủ thể chân tính.
Về cơ động máy móc khách quan là có hai vấn đề. Thứ nhất là máy đã nổ không có người lái; tức là hệ thống nôi thai được sống ở trong tổng thể của giá trị hóa mà người mẹ đã cho. Đó là toàn bộ sự truyền thụ về tinh hoa qua nhâu và bắt đầu nuôi con từ rúng, thì đó là bộ máy chưa có người lái. Thứ hai là máy vẫn nổ và có người lái. Có nghĩa là khi thân ngũ ấm đã được hoàn chỉnh và ra khỏi nôi thai thì hạt tâm lý tính bắt đầu thể nhập và phát triển theo thời gian của sự chuyển động và hình thành nghiệp hóa để rồi nó trở thành nhân bản đại thể.
Đây là một hệ thống hóa mang tính khoa học,được thiết lập và hình thành hệ thống, từ hạt tâm lý tính đã có và tiếp tục hệ thống lập thể được có và cứ như thế mà có để tiến hóa. Như vậy quyền được tiến hóa là quyền cao nhất của hệ thống lập thể và hình thành giá trị hóa trong tổng thể hạt tâm lý tính đối với hệ thống lập thể ấy.
Phần trên là mặt bằng của duy ngã đại thể chưa thành tựu bốn quả thánh. Khi thành tựu bốn quả thánh là quyền phúc âm thăng hoa của giá trị hóa, và là đơn vị thành tựu tinh hoa hóa đã kết tinh kim cương chân tâm của giai đoạn một, giai đoạn hai, giai đoạn ba và giai đoạn bốn. Như vậy nếu quyền thành lập của đơn vị hóa đã kết tinh được ánh sáng chân tính cao nhất thì quyền năng của giá trị hóa cũng cao nhất. Và được quyền sử dụng quyền năng ấy mà thiết lập hệ thống lập thể tùy theo mức độ của giá trị giai cấp để thực hiện công trình thị hiện. Thí dụ: như Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Ngài từ những ngôi sao Kinh Điển dùng ánh sáng chiếu khắp cả thế giới để tìm ra vị trí đơn vị hóa. Đó là Ngài đã tìm ra ông Tịnh Phạn và bà Ma Da, khi đó Ngài dùng sức mạnh ánh sáng để bảo hộ thai và báo ứng về điềm hóa của lập thể. Ta là Bạch Tượng và đến chiêm nghiệm giá trị hóa trong tính ánh sáng ấy. Và liền khi hệ thống lập thể được hình thành thì ánh sáng được chói chan và bảo hộ đến khi thân ngũ ấm ra khỏi nôi thai là Ngài phóng ánh sáng nhập hóa vào thân ngũ ấm đó.
Khi thân ngũ ấm còn trong nôi thai thì Ngài có quyền tự trị bảo vệ thai nhi, và thai nhi của phương tiện hóa thị hiện, mà trong 4 quả thánh đều có quyền hạn được bảo vệ thai nhi của người mẹ và người cha đã thiết lập. Vì các Ngài không còn vô minh nữa và nghiệp dĩ cũng không có quyền kéo Ngài đi vào nhập thai của chu trình kín, mà Ngài chỉ bảo vệ hệ thống máy móc mà thôi.
Về bảo vệ hệ thống máy móc, thứ nhất là do tính khách quan của giá trị hóa đối với nôi thai mà người mẹ đã có những cơ cấu hệ thống để bảo vệ, thì bây giờ các vị mới dùng ánh sáng để bảo vệ mang tính tha lực. Có nghĩa là không cho các đơn vị khác chiếm giữ và thành lập những điều khác biệt đối với hệ thống nôi thai và bảo vệ đến khi thai ra đời thì hoàn toàn đó là phương tiện của Ngài.
Trong đời sống thì đức Như Lai đau xót thay cho những thân trung ấm chưa đủ âm đức và sức mạnh để giành lấy những hệ thống lập thể tốt nhất, mà thường là sự tranh chấp của hệ thống lập thể và xảy ra các biến động thuộc về báo ứng. Còn đối với những sự khoan nhượng về hệ thống lập thể thì chỉ có những người đủ âm đức. Như nhân duyên vị ấy không được làm con của cha mẹ này, thì lại tìm nhân duyên làm con của cha mẹ khác. Bởi vì tràn đầy những âm phúc và có những mối nhân duyên quan hệ từ nhiều đời, nhiều kiếp thì các Ngài cũng tìm ra một mối nhân duyên để thiết lập.

Ông Chơn Kiên Trung Hạnh xin hỏi: Thưa cha, nhân gian người ta thường nói: sống có nhà, thác có mồ. thì tại sao thân trung ấm lại cố giữ cái mồ ấy?
Điều đó hoàn toàn không có tính đại thể, mà đó là thuộc về cá thể, thuộc về nghiệp dĩ của sự cố chấp mồ kia là nhà. Đối với những nhân tố cố chấp mồ là nhà thì nó sẽ ở đó, còn ai không cố chấp thì sẽ không ở đó. Điều đó hoàn toàn không thuộc về định luật của sự hình thành mồ và tất cả phải ở mồ. Điều đó tuyệt đối không có. Nếu có là có thế này: khi thân trung ấm cố chấp thân thể một cách quá đáng thì cứ mãi lầng quầng ở trong cái mồ đó.
Đức Như Lai nói: Hỡi nghiệp dĩ của lòng tham muốn và cố chấp của các thân trung ấm khi đã mất thân ngũ ấm, chúng nó cố chấp thứ gì thì nó đòi thứ đó. Điều đó hoàn toàn không phải là thực tướng mà thuộc về cố chấp của ý thức. Khi sống cố chấp thì chết vẫn còn nguyên cố chấp ấy chứ thật ra nó không phải là chân lý của thực thể chân tướng.
Như vậy, chính chúng nó chưa giải thoát được những điều ràng buộc của ý thức nghiệp, nên nó bị biến động theo ý thức nghiệp của những sự cố chấp ấy. Vì chúng nó tham trước về hình thức và các sắc tướng ấy, nên chúng nó lập các hình thức sắc tướng ấy để thỏa mãn cho sự tham trước ấy.



10/ 6 Canh dần
TẬP CHÚ CỬU KINH MINH TRIẾT TRONG ÁNG SÁNG TRI THỨC

Khi ngủ ta hoàn toàn thả lỏng để các cơ được nghỉ ngơi, nhằm ổn định về các cơ năng. Tập chú là lẽ sống của tri thức, như vậy tập chú là hình thành khi thức dậy; nhưng tùy theo mức độ của ý chí mà tập chú Cửu kinh minh triết trong ý thức và chân hành lao động.
Công việc chuyên môn ta làm hàng ngày như chẻ đá, xây nhà v.v… là thuộc về quán tính. Còn tập chú không thuộc về quán tính, mà là phát dậy một sức mạnh của ý chí và phát huy về tri thức ánh sáng.
Ví dụ như Ông Thuấn ngày xưa đi cày, tay cầm chui cày điều động trâu không đi lệch đường cày. Nhưng bên trong tư tưởng là thực hiện những công trình kinh bang trong tập chú của giá trị tri thức.
Công phu không phải chỉ ở nơi tứ thời: Tí, ngọ, mẹo, dậu. Mà công phu ngay trong sức mạnh tập chú của chân hành và các sở tác ý thức, để làm cho ánh sáng tri thức được phát dậy.
Nếu chúng ta học Cửu kinh minh triết mà ngày đó không tập chú, thì cũng giống như ta ăn cơm làm rơi vãi quá nhiều mà không lượm lại; thì giá trị tập chú đối với tri thức ánh sáng và giá trị chuyên môn hóa Cửu kinh minh triết bị tổn thất rất lớn trong đời sống của chúng ta.
Nếu chúng ta không tập chú Cửu kinh minh triết và lãng phí thời gian quá nhiều đối với giá trị hóa, thì tri thức vẫn như lúc ta ngủ. Khi ngủ giấc mơ có tốt hoặc không tốt thì cứ để nó tự nhiên; nhưng khi thức dậy thì chủ tính của giá trị hóa với sự tập chú Cửu kinh minh triết và sức mạnh của trí huệ chúng ta đừng để mất đi trong thời gian không gian đó.
Đối với Cha thì nội lực và sức mạnh của tập chú ở trong phi phàm của vô lượng quang và tất cả những A do tuần đều chuyển động trong ánh sáng và lực từ trường luôn khép kín mà không bao giờ thả lỏng; nên Cha mới thuyết được Cửu kinh và thuyết không biên giới trong giá trị vô lượng quang với biện tài vô ngại. Không ngại bất cứ một ngôn ngữ và lý tính nào hết, mà có thể thuyết mãi đến 3 ngàn kiếp cũng không bao giờ hết nguồn.
Vì sao mà ta có được như vậy? Vì từ những ngày đầu tiên, Ta đã tập chú và dần đi đến đỉnh cao của thần lực. Nhờ sức mạnh của tập chú mà tất cả những pháp của Như lai đều tập hợp về Ta. Những ngôn ngữ bí quyết của thần chú Ta đã tụng mất nhiều ngàn kiếp và không bao giờ để bị rơi vãi giá trị tập chú ấy, nên Ta có đủ số hàm và sức mạnh hội tụ, đủ về định chiếu của hội tụ và Ta mới phát ra được hệ thống Cửu kinh minh triết.
Định nghĩa về tập chú: là tập hợp tất cả những ánh sáng và sức mạnh của hệ thống Cửu kinh minh triết về trong nội lực, là không cho tiêu tán về giá trị tập chú và sức mạnh định chiếu trong nội lực sẽ có một sự qui động lớn nhất trong chân hành để phát ra trí huệ.
Ý nghĩa của tập chú: là không cần đến trước đền lễ để trì niệm kinh chú, cũng không cần tìm một nơi nào nhất định, mà tập chú là nơi nào có tâm thì nơi đó có tập chú; nơi nào có ý chí, có tư tưởng là nơi đó có tập chú. Như vậy tập chú là một nguồn năng lượng của tâm pháp; mà tập hợp tất cả những nguồn năng lượng ấy về một gốc và không buông thả nó thì sự tập chú ấy có một sức mạnh để phát ra ánh sáng. Thế thì tập chú trong mọi hoành tác, tập chú trong mọi sở hành, tập chú trong những công trình và hệ qui chiếu, tập chú trong ý niệm tư tưởng chúng ta..
Nghĩa của tập chú là sức tập hợp giá trị tinh hoa trong hệ thống Cửu kinh minh triết, để làm cho Cửu kinh minh triết được sống mãi trong tri thức của mình và không cho bị tiêu tán giá trị ánh sáng đó, thì chúng ta sẽ có một trí huệ rất vĩ đại.
Tức là tập chú phần lý, phần tính thuộc giá trị tri thức ánh sáng. Tập chú phần tổng tinh hoa và nội tại của giá trị sức mạnh tổng tinh hoa, là không để ý thức chi phối những điều vô lý, là luôn sống và làm việc trong Cửu kinh minh triết và thành quả trong Cửu kinh minh triết.
Chúng ta đã có tư tưởng và có ý niệm Cửu kinh minh triết, có nghĩa lý Cửu kinh minh triết, có bài vở Cửu kinh minh triết, thì chúng ta đã có nền tảng để tập chú vào sự nghiệp Cửu kinh minh triết.
Tập chú Cửu kinh minh triết là trở về sống lẽ thực của chính mình đối với mình cùng vũ trụ và mình cùng vạn pháp. Là trở về thực tướng của giá trị sự sống và sự sống ấy có giá trị trong thời gian và không gian, và có thể có giá trị vô cùng. Là không cho biến đổi sự thực của cuộc sống, để chúng ta có được con đường cứu cánh cao hơn.
Nên đức Phật nói rằng : Nếu trong không gian và thời gian của sự sống mà ngươi không quay về thực tướng để sống thì ngươi sẽ sống ở cái không thực tướng. Như vậy tập chú là nhằm mục đích trở về thực tướng và không cho các pháp biến đổi trong giá trị trục. Tức là tập hợp, tập trung, tập kết và chú tâm vào sức mạnh của Cửu kinh minh triết, là không để thời gian trống của giá trị thực tướng đối với sự sống. Nhờ tập chú đó mà chúng ta thăng hoa trong thánh tâm và đồng thời có được thực tướng trong đời sống của chúng ta, cho đến khi chúng ta xã thọ bỏ thân lập ngũ ấm, trả lại những thứ hữu cơ của giá trị hóa, để có được một siêu thể tròn đủ hạnh phúc và không còn bị biến đổi siêu thể đó. Thì đó gọi là Tập chú Cửu kinh minh triết và thực hiện công trình trung tâm.
Chúng ta phải biết rằng thời gian rất quý báu, nó qua đi rất nhanh mà không trở lại được. Thời gian ấy là nhằm cho ta hóa. Hóa tâm, hóa pháp linh quang và hóa những công trình phúc lợi thì giá trị hóa thân và thị hiện, hoặc là giá trị báo thân và ứng thân của chúng ta không bị một mai trong thời gian và không gian đó.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!