Thứ Hai, 13 tháng 5, 2013

cửu kinh minh triết 45


BIẾN ĐỘNG TUẦN HOÀN
TRONG CHU TRÌNH HẠ LIỆT
Chúng ta xác định vũ trụ là có luật tuần hoàn trật tự và ổn định. Nhưng tại sao lại có sự biến động tuần hoàn nghịch trong chu trình hạ liệt, thì chúng ta xác định về giá trị tuần hoàn đang ở một thời kỳ biến động mà loài người không thể chống đỡ được.
Tuần hoàn thuận là sự tốt đẹp, thái lai thịnh vượng và ổn định về giá trị ý thức nhân bản và ổn định thiện nghiệp nhân bản trên hành tinh chúng ta. Nhưng ngược lại một khi ý thức nhân bản không được ổn định trong hệ thống thiện nghiệp và sự phân giải của các hệ thức đã chia ra rất nhiều mảnh và độn giáp rất nhiều hệ thức đã làm cho tính chủ thể khách quan không còn ở trong hệ thống trật tự nữa, thì ta gọi là: sự biến động tuần hoàn nghịch trong chu trình hạ liệt.

Chúng ta thấy hoàn toàn không có khách quan vì có ý thức tương tác vào vật thể nên vật thể biến động. Bởi vì rừng không phải tự nhiên mà bị triệt tiêu, và những thứ làm cho thạch quyển, khí quyển và sinh quyển không được ổn định, thì ở đây do bởi con người. Một khi nhân bản mãn tính đã dâng cao đến mức độ thái quá rồi, thì chính ý thức ấy nó đã trực tiếp làm biến động đời sống của tuần hoàn trong thái dương hệ hoặc hành tinh.
Cụ thể là đã xảy ra những cuộc chiến tranh khủng khiếp nhất, rồi bây giờ đến thời kỳ leo thang đến nguyên tử hạt nhân, gia tốc khai thác uranium để hình thành ra những loại nguyên tử cực mạnh giết người, thì đó là tuần hoàn nghịch. Nếu trong tính khách quan không có tuần hoàn nghịch thì làm gì cách nhau một tháng mà đã xảy ra hai cuộc động đất lớn nhất ở Haiti (quốc gia vùng Caribbe) và ở Chile và liên trùng của những sự biến động khác cũng đang tiếp tục xảy ra.
Như vậy chúng ta thấy sự biến động tuần hoàn nghịch trong chu trình hạ liệt, mà biến động mang tính khách quan hoàn toàn, do tính thể tương tác, tâm vật phân biến ghê gớm trong đời sống của duy ngã đại thể. Nó đã tạo ra những sự xung đột về biến động ấy. nếu không có ý thức tác động vào vật chất thì rừng không mất và bầu trời chúng ta không bị tan chế của khí quyển, bởi những chất cacbondioxit và mêtan đã trùm phủ khí quyển này rồi. Đồng thời sinh quyển và thạch quyển bị chết lịm trong đời sống khoa học đỏ phi lý đó và tắt nghẽn tất cả những đời sống của tuần hoàn đối với chu trình chuyển động của một thời kỳ hạ liệt.
Định nghĩa của hạ liệt là tất cả mọi tư tưởng và ý thức tốt đẹp của loài người đang bị phân giải về các loại phản ứng, về ý thức chủ nghĩa mà loài người đã tranh chấp với nhau ghê gớm trên đời sống của các cường quốc mà ghê gớm nhất là nó đang chuẩn bị so găng trong một ngày gần đây theo lời phán quyết của mười phương Như Lai, của Đức Quán Thế Âm và bộ sấm ký của Nguyễn Bĩnh Khiêm thì chúng ta thấy nó đã tràn ngập những ý thức này, tư tưởng này và vận hội này ở một thời kỳ hạ liệt.
Ta thấy các đất nước trên thế giới hôm nay nó không thi tập một thứ gì của sự nghiệp tương thuận mà nó thi tập hạt nhân lên đỉnh cao của sự bùng nổ, đó là tuần hoàn nghịch. Tuần hoàn nghịch của biến động về ý thức tranh chấp, không có tình yêu của nhân bản, là tình yêu bị rào cản bởi màu da sắc tộc và các tư tưởng của đông và tây cùng những sự khác biệt của đông và tây. Thì đây không phải là khái niệm, không phải là tư tưởng, mà là vận hội được hiển nhiên trong đời sống của sự biến động tuần hoàn nghịch đối với chu trình hạ liệt.
Vì hạ liệt nên rừng mới hoang vu, và tất cả những nguồn nước đã bị tắt nghẽn. Hạ liệt nên ý thức phân biệt và đối đãi ghê gớm trong đời sống vật chất. Có nghĩa là chúng ta thấy trên trái đất hơn 6 tỷ người đang lao vào vật chất một cách khủng khiếp và tất cả những não bộ ý thức là đang tìm kiếm những vật chất hư biến và thỏa mãn trong vật chất hư biến ấy, chớ không tìm kiếm chân tính ánh sáng và tìm kiếm sự cứu cánh và giải thoát như các đức Như Lai đã ra đời trước đây vài ngàn năm.
Với các tôn giáo cũng đua đòi theo màu sắc và chạy theo những hoa đốm của tôn giáo, không ổn định được tôn giáo. Họ đã dùng sức mạnh kinh doanh hóa trong tôn giáo và phát triển tôn giáo theo kiểu mua chuộc chứ không phải là cứu chuộc, thì chính đó là tuần hoàn nghịch trong chu trình hạ liệt.
Thế giới hôm nay không còn là 1 đảng mà đã thành lập ra rất nhiều đảng vì con người đã chấp nhận tính đa nguyên đổi mới; những sự chết chóc giữa đảng và đảng, giữa đạo và đạo thì lại càng khắc nghiệt hơn trong đời sống duy ngã đại thể ở thời kỳ hạ liệt này. Nhất là sự biến động của tuần hoàn nghịch đã phát tính toàn diện về giá trị quân sự, kinh tế, chính trị và nhân danh của các giáo điều và tôn chỉ đều bị phân giải trên giá trị biến động lớn mà khó có thể thay đổi được.
Chúng ta đang sống trong một chu trình hẹp của vùng Đại Mạch Bia Sơn nếu không học bài này chúng ta cứ tưởng thế giới nó yên ổn và tốt đẹp. Vậy chúng ta phải biết rằng thế giới khốc liệt và khốc liệt lại tiếp tục xảy ra mà khó có thể dừng lại. Vậy người Công luật có tính khách quan nhìn nhận về sự biến động của tuần hoàn nghịch trong chu trình hạ liệt là hoàn toàn có thực. Nên đức Như Lai đã nói: Vận đã tận cùng của giá trị hữu thể đối với chu trình thấp nhất mà người ta cho rằng: thời kỳ của cao vật thấp tâm và đã phân giải hệ thống thống nhất của tâm pháp trong mặt bằng duy ngã đại thể.
Nếu ta đi ngược về vài ngàn năm trước thì trên mặt trạng của địa cầu còn xanh tươi, tốt đẹp, mượt mà, còn bây giờ ta nhìn lại tất cả những đại ngàn của những vùng rừng to lớn nhất như rừng Amazon, hoặc rừng lá cứng và vùng rừng liên trùng Châu Á thì hoàn toàn bị triệt tiêu. Thì chúng ta khẳng định sự biến động dữ dội của tuần hoàn nghịch trong chu trình hạ liệt đã bắt đầu xuất hiện dữ dội và có thể nuốt chết con người trên hành tinh này mà không thể tính đếm.
Đây là bài học mang tính định quyết cho giá trị hóa trong giá trị nhân bản, để chúng ta tìm một lối thoát ở giá trị riêng trong đời sống nhân bản về vận luật tuần hoàn nghịch đối với chu trình hạ liệt. Ta biết được điều đó để thực hiện những công trình tu chính ở mức độ cao, để khi gặp những biến cố này thì chúng ta có thể di cư vào những hành tinh khác, hoặc là siêu thể hóa trong tuần hoàn nghịch để tránh thoát được những điều nguy ngập nhất của sự sa đọa trong tam đồ.
Nói về biến động tuần hoàn nghịch trong chu trình hạ liệt là biến động hệ thống vật lý và biến đổi hóa học độc tố. Biến động nghiêm trọng của hóa học mất tính bão hòa. Nói về tuần hoàn nghịch là mặt trạng đại thể trên mặt bằng của duy ngã đại thể là không có đường thoát. Vì sa mạc sẽ tiếp tục hình thành, bầu khí quyển sẽ tiếp tục hiệu ứng nhà kính, các hệ thống công nghiệp đỏ chuận bị xâm thực vào đời sống tế bào của nhân loại từng mỗi mỗi con người trên hành tinh chúng ta.
Ý thức hoàn toàn không giải trình về tuần hoàn nghịch, vì tiếp tục gia tăng phát triển tuần hoàn nghịch và chính nó đã làm manh múng giá trị ý thức thống nhất trên con đường minh triết, hoặc trên con đường chủ thuyết. Sự khác biệt của các chủ thuyết đã hình thành những sự phản ứng cho giá trị thống nhất, mà ý thức phân giải trên tuần hoàn nghịch ấy của một chu trình thấp nhất mà người ta cho rằng cao nhất. Đối với Như Lai nói cao: là sự cất cánh phi vượt trên giá trị lập thể và hình thành giá trị ánh sáng và quần thể ánh sáng thì mới gọi là cao, còn các ngươi bươi móc những giá trị vật thể rồi đổ những thứ rác rưỡi ra trên mặt trạng hành tinh này thì các ngươi có cao đến đâu thì cũng thành thấp nhất nên gọi là hạ liệt. Như vậy các ngươi đang ở trong chu trình của hoa đốm, những hoa đốm khổng lồ của siêu thị và những công trình mà con người cho rằng vĩ đại nhất, nhưng cuối cùng chỉ cần một biến động thôi thì tất cả những cây cầu, những lâu đài đều chôn vào lòng đất. Như vậy tất cả những thứ hiện đại ấy đều trở thành hư ảo. Thế thì công sức của con người đã bỏ ra nhiều thập kỷ để xây dựng nên những công trình ấy đều trở thành hư vô. Như đất Haiti chẳng hạn họ nói rằng 50 năm sau chưa chắc họ phục hồi lại được. Nếu không phải là biến động của tuần hoàn nghịch thì tại sao con người phải chịu thống khổ như thế đó. Nếu chúng ta có mặt trên đất nước ấy thì sự kinh khiếp của chúng ta cũng không phải là ít.
Ngài hỏi ông Chơn Ngọc Biện Hộ: Như thế nào là biến động tuần hoàn nghịch?
Ông Chơn Ngọc Biện Hộ: Thưa Cha, về vận luật tuần hoàn là chuyển động theo quy luật và định luật rất khách quan. Nhưng biến động tuần hoàn nghịch là hoàn toàn do ý thức con người tạo ra. Vì trong chu trình hạ liệt, con người hoàn toàn bị phân hóa bởi những học thuyết một chiều và bởi những tôn giáo mất hệ thống pháp chính thống. Vì tất cả những tính đa quan, đa năng của duy ngã đại thể đã mất đi pháp chính thống đó, đã làm cho con người lầm lẫn và mê muội chạy theo những vật chất hư ảo, hư vô mà không xác định được mục đích của mình, vì thế đã tạo ra một chu trình nghịch hóa và tính khách quan của vận luật tuần hoàn đã chuyển động theo sự tác động của ý thức đó mà gây ra một hệ quả tai hại rất lớn cho nhân loại.
Ngài dạy, chúng ta phải xác định rõ về chu trình hạ là do nhân bản mãn tính nguy ngập cung cầu nó mới đổ xuống chu trình hạ. Nếu nhân bản bão hòa không mãn tính và cung cầu ở một mức độ tương quan thì chu trình hạ không thể đổ xuống được.
Ông Chơn Ngọc Biện Hộ nói tiếp: Thưa Cha, chúng con nhìn lại trong mặt bằng đời sống duy ngã đại thể thì hệ thống siêu vi đang phát triển vì các căn bệnh ung thư đang bùng nổ thì đó là biến động tuần hoàn nghịch. Bởi vì do con người thái quá chạy theo cung cầu đưa hóa học vào đời sống thực phẩm thì tính đa năng trong duy ngã đó đã phá vỡ đi đời sống môi sinh của con người, vì thế mà tác động trực tiếp vào trong cơ thể của chúng ta nên bộ phận tuần hoàn làm việc rất mệt nhọc và cuối cùng hậu quả là tạo ra nhiều thứ bệnh ung thư.
Thế thì chúng con xác định những phương tiện lập thể trong đời sống của đa nguyên, của đa năng, đa quan trên mặt bằng của nhị nguyên đó là phương tiện hóa để trở về trong nguồn gốc của chân tính ánh sáng vạn năng. Nhưng con người không trở về được vì đã làm phá vỡ và tắt đoạn đi phương tiện hóa của mình. Vì con người đã làm ngược lại giá trị tuần hoàn thuận cũng đồng nghĩa tự đánh mất đi nền tảng phương tiện hóa đó, vì thế mà tuần hoàn nghịch đã đưa chúng ta đi đến một chiều sâu thẳm khổ đau mà khó có thể thoát ra được.
Như vậy chúng con xác định do tính khách quan của chu trình hạ liệt do nhân bản mãn tính và do ý thức con người phân hóa đến cùng tận, bởi những chủ thuyết và tôn giáo gốc cạnh không có nguồn ánh sáng chân lý rõ ràng. Tức là minh triết đã mất hẳn trong đời sống của duy ngã đại thể. Vì thế mà nhân loại phải chịu sự thống khổ vì biến động của tuần hoàn nghịch trong chu trình hạ liệt này.
Ngài dạy, như vậy duy ngã đại thể là mặt bằng của kinh điển đối với vũ trụ quan và đối với trung tâm vạn năng. Nhưng một khi mà chúng ta làm mất tính kinh điển của duy ngã đại thể thì rõ ràng là duy ngã đại thể sụp đổ.
Nếu chúng ta đổ ý thức chủng nghiệp vào đời sống của lập thể và các lập trình duy vật một cách cực kỳ lớn, thì giá trị kinh điển tri thức ánh sáng sẽ bị biến đổi đảo lộn, giảm trục và sa vào các vực thẩm. Nên trong thế giới nhị nguyên thì cần phải có kinh điển để ổn định, cần phải có tri thức ánh sáng để ổn định, cần phải tìm về vận luật tuần hoàn thuận và làm sao để vận luật tuần hoàn thuận ấy được ổn định trên mặt bằng của thế giới duy ngã.
Như vậy chúng ta thừa nhận kinh tư là kinh vận luật tuần hoàn có mặt trong đời sống thế giới duy ngã mà loài người đã đánh mất kinh vận luật tuần hoàn ấy.
Chúng ta liên tịch chiếu một chút về vận luật tuần hoàn thuận trong quy trình hóa để thiết lập mặt bằng duy ngã đại thể. Để ổn định tiến hóa và tiến hóa đến đỉnh cao của sự giải thoát.
Hôm nay con người phải đối mặt với sự biến động tuần hoàn nghịch, đối mặt với chu trình hạ liệt và đối mặt với những giá trị hóa hạ và sức sống bị gãy nhịp rất lớn trong đời sống ấy. Như gãy nhịp về môi trường, về sinh thái, về biến động hóa học. Và họ đang thỏa mãn trong các nhà máy khổng lồ và đang đối mặt với những giá trị không bão hòa và không ổn định của nguyên tử. Tức là nguyên tử tuần hoàn thuận là hoàn toàn ổn định trong giá trị ánh sáng, nhưng một khi nó lạm dụng ánh sáng và sự hóa sinh của nguyên tử làm cho nguyên tử bị phản ứng, thì nguyên tử ấy là tuần hoàn nghịch. Nghịch là phản ứng, nghịch là bùng nổ, nghịch là triệt tiêu hệ thống khí quyển, sinh quyển và thạch quyển. Nghịch là làm tắt nghẽn giá trị sống và đời sống của hệ thống cơ cấu não bộ thần kinh và ngũ tạng. Và rồi đây tất cả những thứ được sống hoàn toàn bị chết trong giá trị tuần hoàn nghịch đối với thời kỳ hạ liệt.
Bài học này để chúng ta xác định có Vận Luật Tuần Hoàn Chu Kinh trong đời sống của hành tinh. Nhưng duy ngã đại thể mãn tính đã làm băng hoại giá trị tuần hoàn thuận và trở nên những sự nghịch biến của tuần hoàn đối với chu trình hạ.
Chu trình hạ là chu trình biến đổi những cơn lốc dữ để chuẩn bị qua một chu trình mới. Ở đây người ta cho rằng: chu trình phá hoang lập nguyên để chuẩn bị cho một thời kỳ mới thì trong cơn lốc dữ ấy là bắt đầu cho một chu trình mới. Nếu không có những cơn lốc dữ ấy thì nó có trở lại tuần hoàn thuận hay không? Đức Như Lai bảo rằng không, bởi vì những thứ mà nó không thuận theo giá trị định luật thì phải phá nó đi và thuyết định luật không cho phép nó tồn tại trong định luật ấy cho nên nó bị phá.
Có nghĩa là những nơi nào không có sự cân bằng thì giá trị trục của sự cân bằng phải tìm về sự cân bằng của chính nó, nên nó biến đổi giá trị không cân bằng để đem lại cân bằng.
{
3/10/Kỷ Sửu
SỰ U KHUẤT VÀ TRẦM UẤT CỦA NHÂN LOẠI
TRONG THỜI KỲ ĐA CỰC
Sự u khuất và trầm uất của nhân loại chúng sinh trong thời kỳ đa cực. Thì cái gì thuộc về u khuất và trầm uất? U khuất và trầm uất của con mắt, của lỗ tai, hay của não bộ? Ngài bảo ông Chơn Luân Thương Bang trả lời.
Ông Chơn Luân Thương Bang: Thưa Ngài, sự u khuất và trầm uất của chúng sinh trong thời kỳ đa cực. Để biện chứng về sự u khuất và trầm uất của chúng sinh trong thời kỳ này. Trong thời nguyên của một nguyên tố hóa học thì tất cả sự phân biến của một nguyên tố nào đó rất là ít. Đối với con người thì sự u khuất của con người là thuộc về sự che chắn của hạt tâm chứ không thuộc về phần lập thể. Phần che chắn là do con người chạy theo cái ảo, cái bóng, là đam mê vật chất và các bản ngã của Tôn giáo, hoặc tất cả các nền khoa học giá trị cứu cánh không có mà cao cầu vật chất và đắm nhiễm trong vật chất. Và một khi giá trị vật chất đó bị biến đổi thì con người lại lao tâm khổ tướng với nó tức là bị trầm uất. Đối với thời kỳ đa cực này thì con người đã bị hoang mạc hóa về ý thức và tâm pháp, nên đã bị trầm uất và phân biến rất lớn. Còn trong thời kỳ lập nguyên thì có chính pháp và ánh sáng của kinh điển soi rọi nên sự che chắn hạt tâm lý tính là không có.
Ngài bảo ông Chơn Quốc Chính Thống trình bày thêm.
Ông Chơn Quốc Chính Thống: Thưa Cha, đây là đề tài rất thiết thực trong đời sống hôm nay. Hầu như là nhân loại trên hành tinh này đều rơi vào tình trạng u khuất và trầm uất. Vì do tính đa cực mà xảy ra trạng thái đó. Thì đây là thuộc về lĩnh vực của ý niệm và tư tưởng che chắn hạt tâm lý tính. Như vậy nguồn gốc là do chính đa cực phân nguyên nó tác động và phân hóa làm cho con người chúng ta cuối cùng không có lối thoát và không có ánh sáng trước đường hầm, nên xảy ra u khuất và trầm uất.
Đối với vật chất thì con người cũng nhàm chán, và tâm linh thì cũng chưa biết đi vào con đường nào. Nên đó là trạng thái u khuất trong mỗi một ý niệm đã che chắn hoàn toàn hạt tâm lý tính, con người sống không biết đi về đâu và sống để làm gì.
Ngài dạy, như vậy chúng ta xác định là khí vận bất thông thì cộng nghiệp chướng khởi. Có nghĩa là con người của chúng ta luôn luôn ảnh hưởng đến thiên nhiên một cách triệt để, như ảnh hưởng về bốn mùa của xuân, hạ, thu, đông. Những mùa vận ấy hoàn toàn con người không thể chối bỏ mà phải chấp nhận sống theo mùa vận ấy. Nếu khí vận bất thông thì cộng nghiệp chướng khởi, đó là những nguyên tắc về hệ thống tính và thể hợp chiếu. Tức đây là hệ quy chiếu đã được thống nhất trong trời đất và không bao giờ thay đổi. Như vậy trong chu trình cực phân nguyên là làm nát vụn của ý thức phân biệt và lối thoát của nhân sinh hoàn toàn không có mà chỉ dẫm đạp tranh nhau về hệ thống vật chất với một cường độ lớn nhất, mà tâm thức lại bị phân nhỏ đi thì sức chống chọi và cường độ phát triển bị mất cân đối, tạo thành sự u khuất và trầm uất nghiêm trọng đối với tất cả những thứ mà con người cầu muốn mà không được, hoặc là cầu có rồi lại không bởi tất cả những sự biến đổi nghiêm trọng có tính chóng mặt về sự phát triển mà con người không đủ sức chóng chọi nó, thì hoàn toàn con người bị rơi vào u khuất và trầm uất của thời kỳ đa cực đó.
Như vậy, cửu kinh luôn có tác động với thế giới trong thời kỳ đa cực, vì chiếc cày luôn luôn có giá trị hiện thực hóa trong công cuộc phá hoang. Vậy ở đây minh triết phá trầm uất, minh triết phá che khuất và minh triết hóa giải vận thông và đưa tất cả chúng sinh theo luật từ trường để hướng thượng và giải thông tất cả những bản ngã ngặt nghèo và đốn mạt nhất trong thời kỳ hỗn độn.
Con người hôm nay người ta điên trên thân thể, điên trên thân phận và điên với những thứ thuộc về ta mà ta không được có nó. Đó là những sự u khuất và trầm uất đã đánh mất bản tâm của những giá trị chân lý và nó đã thuộc về bệnh tâm thần.
Ông Chơn Quốc Chính Thống xin nói tiếp: Vậy nguồn gốc của vấn đề là do tính phân nguyên và đa cực nên dẫn đến trước mắt chúng ta là bóng đen hắc ám nên gọi là khí vận bất thông. Chính vì khí vận bất thông nên con người mới bị u khuất và trầm uất và hệ quả đã cho chúng ta thấy các nhà khoa học và tri thức đã bị sụp đổ cay nghiệt trước triết lý của khoa học. Nên khoa học hôm nay chỉ còn lợi dụng chức năng để kiếm tiền. Các nhà giáo cũng bị sụp đổ về lý tưởng của họ, nên họ đã bất chấp tất cả mọi sứ mạng và chức năng thiêng liêng của họ và họ chỉ biết làm sao cho có tiền mà thôi. Hoặc các nhà thầy thuốc cũng không còn là thầy thuốc như Mẹ hiền nữa, mà chỉ biết làm sao cho có nhiều tiền. Và nhân loại từ các nhà chính trị trở xuống các hàng lớp đều chỉ biết phục vụ cho bản thân, vì trước mắt họ không còn lý tưởng nữa thì đó là tính phân nguyên đa cực tận cùng. Còn đối với những người lao động thì chỉ biết làm cho có tiền rồi chiều về vào những quán nhậu. Có nghĩa là sống trở thành vật chất hóa của con người chứ không còn một con người đúng nghĩa của nó. Đối với thế giới phương Tây cho rằng văn minh, nhưng lại có những người cha hiếp dâm đứa con của mình, hoặc là con cái giết hại cha mẹ.v.v… Thì đó là hệ quả tận cùng của sự u khuất và trầm uất. Và con người đã trở thành quỷ dữ và súc sinh.
Như vậy chỉ có ánh sáng cửu kinh mới giải quyết vấn đề u khuất và trầm uất của thế giới đa cực.
Ngài bảo ông Chơn Phát Đạo Quang trình bày.
Ông Chơn Phát Đạo Quang: Thưa Cha, sự u khuất và trầm uất trong thời kỳ đa cực thì khách quan là do khí vận bất thông mà nhân loại đi đến cực phân rẽ lối muôn đường của ý thức mà nhầm lẫn không trở về nguồn gốc được. Tức là luôn luôn chạy theo cái bóng và không trở về với cái thực, cứ như thế mà quay cuồng. Nên Như Lai đã thấy được tuần vận ấy mà ra đời. Và chỉ có cửu kinh minh triết mới soi rõ tận cùng và cứu chữa nhân loại được.
Ngài bảo ông Chơn Minh Ứng Hội trình bày.
Ông Chơn Minh Ứng Hội: Thưa Cha, sở dĩ con người bị trầm uất là vì họ phóng thức ra ngoài nhận lầm phương tiện làm cứu cánh. Thì họ đã tự đánh mất về hạt tâm lý tính và hạt tâm lý tính trở thành nô lệ cho vật chất. Họ sống chỉ biết tranh giành vật chất và khi vật chất mất đi thì con người ta cảm thấy lạc lỏng mất mác nên bị trầm uất và đau khổ. Do sự lầm lẫn đó mà họ không trở về với hạt tâm lý tính nên bị u tối và không thấy được tính ánh sáng bên trong của mình.
Ngài dạy, đó là một phân luận của tính chủ quan. Còn khách quan thì sao? Trong một vấn đề nào cũng có tính chủ quan và khách quan tương tác với nhau. Thí dụ như mùa xuân thì dù cho ai có buồn đau đi nữa thì cũng ráng ngồi dậy hoặc đứng lên để mừng khí vận của mùa xuân. Và nhờ sự reo hò lớn nhất của đại thể ấy mà người suy thoái nhất cũng nương ở sức mạnh của cộng đồng ấy mà có thể vui xuân. Hoặc dụ như mùa đông băng giá thì con người phải thích nghi và tìm cách để sống cho qua hết mùa đông ấy, mà không thể trốn chạy khỏi nó được. Như vậy thì tính trầm uất và che khuất ấy nó cũng hiện thực trong tính đa cực của một chu trình không thông khí. Khí vận bất thông khoa học đỏ đã bùng nổ và làm cho tất cả những khí vận đều bị bế tắt, mà bế tắt nghiêm trọng nhất là thạch quyển, khí quyển, sinh quyển đều bị đảo lộn. Vậy đây là sự trầm uất của tính khách quan, hiệu ứng nhà kính đã biến đổi và làm cho con người phải chết ngợp trong đó. Thì đó cũng là sự trầm uất và u khuất của tính khách quan. Vậy vận phân thì thức cũng phân, chính vì phân thức nên sinh ra nhiều hệ thức. Nếu không phân thức thì con người đã thống nhất về hệ thống Thống Hóa từ lâu rồi. Nhân loại đã phân chia và nhận vũ trụ ở những giá trị khác nhau ấy đã đánh mất cái thực thể của hệ thống Thống Hóa trong giá trị chung đối với Công Luật. Như vậy ở trong thời kỳ cực phân con người đã bẻ gãy cây Công Luật và sức mạnh của Công Luật không còn thống nhất ở trong thế giới duy ngã nữa. Nếu thế giới duy ngã có đủ sức mạnh là có sự thống nhất của nền khoa học xanh và có sự thống nhất để cứu vớt tất cả những giá trị bị suy thoái trong hành tinh ấy và con người cũng không bao giờ dám chọc phá và làm cho hành tinh bị suy yếu đi khi mà họ đang sống trên hành tinh ấy.
Như Đức Quan Thế Âm nói: Chúng sinh có thiện nghiệp là ký sinh hóa hành tinh (Tức là nương hành tinh để sống và hóa thân trên hành tinh để trở thành những tác phẩm). Nhưng một khi nó không giác ngộ, mà lại hình thành những cộng nghiệp nguy hiểm nhất thì nó là siêu vi hóa hành tinh. Chính hành tinh này bị chết đi là do con người nhiều hơn là do thiên thạch, hoặc là do biến cố của cái loại sao dữ. Vì người ta thấy rằng sự suy thoái hành tinh không thể đổ thừa là tại sao Helay, sao chỗi, hoặc là thiên thạch nào đó. Mà sự suy thoái của hành tinh là do con người mà ra, và con người ấy bị u khuất và trầm uất cũng bởi những giá trị cộng nghiệp chướng và khí bất thông trong chu vận ấy.
Về tính khách quan khi vận không thông thì cộng nghiệp chướng khởi. Về tính chủ quan là ở chu trình hạ phân biến chia ra nhiều tôn giáo khác biệt mà đánh mất tính Công Luật. Vì bản chất của Thượng đế là bất sát và chân tính là giá trị bất sát. Chỉ có cái sát và không sát của sự giác ngộ thuộc về ý thức nhân bản, thuộc về cộng nghiệp. Như vậy sự sát giết đó là cái phân biệt của sự oán thù và chia phân về tất cả những thế lực và manh nha trong bản ngã cộng đồng mà chia thành khối của những quyền lợi khác nhau và tranh nhau bởi những bản ngã của tôn giáo hoặc bản ngã của chế độ, hoặc bản ngã của chủ thuyết. Đối với Công Luật là đại ngã, mà đại ngã là công lý hóa hoàn toàn và cũng hoàn toàn không có bản ngã mà mang tính ánh sáng và viên mãn trong giá trị ánh sáng để hóa tất cả các hệ thống lập thể. Như vậy đối với Thống Hóa hoặc Thượng đế là không có giết. Còn nếu Ngài có sai đến là đến để cứu với nhau và cứu những kẻ bị suy sụp về ý thức và tư tưởng, cứu những người bị tật nguyền và đói khát, sa đọa. Đó là bản chất của đấng Thống Hóa. Về bản chất tròn đủ của giá trị Công Luật đối với đấng Thống Hóa là không có đối đãi giữa tốt và xấu, vì trong cái tốt nhất của Ngài sinh ra thì cũng có những cái xấu nhất đối tri cho cái tốt đó. Và những cái xấu ấy nếu biết thể dụng nó thì nó vẫn là chất liệu sống về giá trị cũng giống như bùn và sen hoặc than chì, cacbon và kim cương vậy. Như vậy tính Công Luật của đấng Thống Hóa không còn là xấu với tốt nữa mà xấu với tốt là sự sai biệt lầm lẫn của sự u khuất và trầm uất đối với ý thức thuộc tư tưởng phân biệt chứ không thuộc về chân tính.
Nên Như Lai nói: Tư tưởng của ngươi ta coi như cỏ rác, nhưng bản giác nguyên chơn thì ta coi như đất; thì ngươi hãy trở về đất để xác định về tổng thể tinh hoa của nó và chính nó đã sinh ra cỏ ấy. Như vậy chúng ta đã lầm cỏ là tâm, và lầm cỏ là những giá trị thực của sự sống. Vậy tinh hoa là trọn vẹn của 2 mặt trong và ngoài nhưng mặt trong vẫn là gốc, vẫn là giá trị của siêu sắc năng, siêu chân tính, siêu ánh sáng, siêu thể hóa, thực tướng hóa. Còn mặt ngoài mà chúng ta được rờ mó và được xem thấy thì đều là ngọn cả. Nhưng chúng sinh lại chạy theo mặt ngoài đó ở mức độ quá lớn nên đã bị che khuất giá trị của mặt trong và cuối cùng hạt tâm lý tính bị nhốt trong cực phân ma sát đó. Và một khi ánh sáng của tâm pháp bị che khuất thì cũng có nghĩa là mọi con đường phát triển sẽ chấm dứt ở nơi đó.
Như thế giới chúng ta đang bị cực phân ở mức độ nghiêm trọng về giá trị tổng hóa, và đồng thời bị cực phân về ý tưởng, tư tưởng và hoàn toàn không trở về được với chính mình, cho nên bị nó lôi đi xa hơn và biển nghiệp khổ đau càng trùng trùng dấy lên. Và cho đến con số đông thì gọi là cộng nghiệp chướng khởi. Vậy vận khí bất thông, cộng nghiệp chướng khởi đó là những vấn đề được đặt ra trong chu trình đa cực.
Vận khí bất thông thì chúng ta phải làm sao để được thông? Trong thời kỳ phân vận thì chúng ta đừng theo phân vận để sống mà phải trở về tụ để chịu lực phân vận và nhờ ở tụ mà hóa giải được phân vận bên ngoài. Đến khi vận thông thì chúng ta đã thông trước tất cả mọi thứ. Chứ không phải chờ vận thông rồi chúng ta mới thông, hoặc chờ vận thông rồi chúng ta mới tụ. Mà khi biết bão tố trùng trùng đến thì chúng ta phải tìm nơi kiên cố để ổn định và né tránh những cơn bão khổng lồ đó để được sống sau cơn bão.
Như vậy vấn đề trầm uất và u khuất hoàn toàn nó có nguyên nhân. Đó là nguyên nhân của vận luật, nguyên nhân của cộng nghiệp, nguyên nhân của ý thức và vật chất tương tác trong thời kỳ cực phân, nguyên nhân của sự mê lầm và không giác ngộ, nguyên nhân của bản ngã và chia phân của các lối rẽ. Nguyên nhân của sự phá hoại tất cả những giá trị sống mà loài người chưa thấy được cái quý của nó, nguyên nhân là loài người luôn luôn sống bên ngoài và chưa bao giờ biết sống bên trong. Đó là những nguyên nhân phát triển từ tính khách quan và chủ quan rồi đẻ ra mọi sự thống khổ mà con người không thể nào trốn được.
Vậy nguyên nhân của chu trình hạ thì kết quả cuối cùng là lại được quay lên. Nên Mẹ đã dạy rằng: Nhân loại đã đến thời kỳ mãn tính thì tất cả những giá trị mãn tính sẽ bùng nổ trên mặt trần của thế giới quan. Vì nhân của mãn tính thì quả là sự biến đổi. Và tùy theo mức độ nhân và duyên của sự biến đổi đó mà lập lại sự cân bằng. Như vậy vận luật luôn luôn tác động trong mặt trần của thế giới và mặt trần thế giới luôn luôn chịu những định luật, vận luật ấy. Vậy con người muốn thoát được u khuất, trầm uất và sự khổ đau thì chỉ có trở về cửu kinh minh triết để công phu tu học, để củng cố phần nội lập và không chạy ra phần ngoài, vì càng chạy ra phần ngoài thì sức ma sát càng dữ dội. Vậy sự ma sát ấy thuộc phần ngoài của ý thức vật chất. Thì chúng ta hãy trở về tụ của tâm pháp linh quang, chúng ta sẽ hóa giải được phần u khuất và trầm uất, cũng như chịu được lực ma sát của tính đa cực.
Ngài bảo ông Chơn Ngọc Biện Hộ phát biểu xác định.
Ông Chơn Ngọc Biện Hộ: Thưa Cha, Cha đã giảng rất rõ về tính phân nguyên đa cực trong thời kỳ mạt, thì chúng con cũng đã thấy được trong thời kỳ này là thời kỳ mạt pháp và âm trập. Bởi vì tất cả các đa thức, đa hệ và các tôn giáo đang phân hóa đến cùng cực. Đối với chân tính ánh sáng của trung tâm vạn năng thì hoàn toàn không có tính phân cực. Mà phân cực là do vận khí khách quan của chu trình hạ và do ý thức tương tác cùng vật chất mang tính cộng đồng công nghiệp của mặt bằng duy ngã đại thể đi theo chiều hướng ngoại và đã đánh mất hệ thống pháp chính thống trong đời sống đó, mà tạo ra sự u khuất và trầm uất.
Như vậy, chúng con xác định đây là điểm cực phân của chu trình hạ, thì vận luật phải quay lên, như hết mùa đông thì phải đến mùa xuân vậy. Nên công cuộc phá hoang lập nguyên mà Cha là tinh bản Kim Ngưu phá điền ra đời như một thông điệp của đấng Thống Hóa. Vì sứ mạng của Ngài là phá vận hoang lập vận nguyên theo tuần luật dĩ định của Thống Hóa. Và kho tàng cửu kinh minh triết của Ngài mới có thể giải phóng được tất cả mọi sự u khuất và trầm uất đem lại tất cả mọi sự bình an và ổn định cho nhân loại. Tức là đưa nhân sinh trở về nguồn gốc công bản hội tụ.
Ngài dạy: như vậy chúng ta có thể xác định là hoang hóa, chính cái hoang hóa của vận luật về tính khách quan là hoang hóa của hệ thống hành tinh và nền khoa học đỏ. Chính các hệ thức phân hóa cực kỳ lớn trong đời sống thế giới và các tôn giáo khác biệt mà không trở về Công Luật vũ trụ. Nên mới có con người ăn nhai lại ra đời là thông điệp của đấng Thống Hóa. Như vậy Thống Hóa đã gửi một thông điệp về khí cụ Kim Ngưu phá vận hoang mạt đã đến ngay trên hành tinh này và sinh ra tại đất nước hình thái dịch (chữ S). Nhằm mục đích phá vận hoang mạt và phá cộng nghiệp chướng trong thế giới quan và lập lại thông khí vận của Công Luật thượng nguyên. Vậy con người sẽ hết đi những u khuất và trầm uất ở những thời kỳ quang minh ánh sáng khi mặt trời mọc lên. Ánh sáng của chân lý sẽ chói chan và lòng người sẽ ổn định vào mùa xuân và những nét đặc trưng của giá trị mùa xuân, là những giá trị của thượng vận đối với trời đất đã thiết lập, mà con người sẽ không bao giờ chối bỏ được. Như vậy mọi sự u khuất và trầm uất của con người trong chu trình hạ rất nghiêm trọng, thì chúng ta sẽ thấy rằng: Một công cuộc phá vận để mở ra một chân trời mới và đem lại một ánh sáng vĩ đại nhất cho toàn thể nhân loại. Và sau những biến cố thì loài người sẽ giác ngộ về nền khoa học đỏ là con dao 2 lưỡi. Và loài người sẽ chọn một con đường đi đó là nền khoa học xanh. Nền khoa học xanh sẽ tương quan với nền công bản hóa và công bản hóa là tương quan với nền khoa học xanh. Đây là một hệ thức thống nhất Công Luật vũ trụ, là hệ thức cửu kinh minh triết ánh sáng quang minh thống nhất của giá trị thời đại và hóa giải các tôn giáo phân biệt trong thời kỳ phân lập để đi đến một thời kỳ thống nhất.
Như vậy, lời của ông Nguyễn Bỉnh Khiêm là: “Mười phần chết bảy còn ba, chết hai còn một mới ra thái bình”. Vậy những thứ không thuộc về tinh hoa là loại ra và loại cho đến mức độ không còn loại được nữa thì đó là sự trọn vẹn của tinh hoa, trong một chu trình thượng để thiết lập một vùng đất mới sau cuộc canh tân ấy. Tất cả những loại giống tốt nhất được đem trồng trên vùng đất phá hoang ấy và cây lành quả ngọt cũng được đong đầy trên vùng đất ấy.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!