Thứ Hai, 13 tháng 5, 2013

cửu kinh minh triết 48


HẠT TÂM LÝ TÍNH TÍNH ÁNH SÁNG BẤT DIỆT
Ánh sáng tuyệt đối tổng hàm hoa đã hóa bản hạt và hạt ấy không bao giờ tan biến. Chính vì không tan biến nên nó thuộc về giá trị siêu thể hóa trong đời sống ánh sáng của các từng và các hệ thống thuộc về lập trình từ cực vi đến cực đại. Hoặc là từ thấp nhất đi đến cao nhất. Nên đã chia ra 6 đường, thì 6 đường này ánh sáng không thống nhất. Vì khi thế giới cao hơn thì ánh sáng lớn hơn, thế giới thấp hơn thì ánh sáng nhỏ hơn, và quy trình chuyển hóa của hạt tâm lý tính cũng theo đó mà có dung tích và trọng lực của nó.
Như ta thấy rằng ánh sáng của người thiện nghiệp khác với ánh sáng của người bất thiện nghiệp. Và các hệ thống ánh sáng là không đồng đều với nhau. Một khi chưa đạt được đích của tối thượng hạt, hoặc pháp thân hạt, thì còn nằm trong 6 đường và ánh sáng có thể rơi vào tầng thấp nhỏ nhoi như đôm đốm chẳng hạn. Nên khi chúng ta được hạt tâm nhân bản thì quá ư là hạnh phúc, vì hạt tâm nhân bản có thể đạt được đến đỉnh vinh quang và có thể giải thoát hoàn toàn.

Về ý nghĩa của con người mà Như Lai muốn nói, là sự tròn đủ của một hạt tâm có nhân tính hoàn hảo. Vì trong đại thể con người là luôn có hai mặt, thiện và ác, tốt và xấu hoặc lành và dữ. Nhưng để hoàn chỉnh và thuần khiết một con người thì điều đó không phải là dễ. Nên Như Lai mới nói làm được con người rất khó, ví như con rùa ở ngoài biển hàng ngàn năm mà gặp được một cái cây để gác đầu lên nghỉ vậy. Vì đại đa số mang thân con người nhưng không có nhân tính mà lại bị động vật hóa rất lớn. Ví dụ như sự bất nhân, bất nghĩa, bất hiếu, bất trung thì con người đó Như Lai chưa được chọn. Nên ta thấy mang hình thể con người thì rất nhiều mà đúng nghĩa hạt tâm con người thì không phải là nhiều. Vì những con người ấy họ chỉ biết cho sự sống của chính họ là lớn hơn tất cả mọi sự sống xung quanh, nên họ sẵn sàng giết hại các loài vật và có thể tiêu diệt những mạng sinh thái lớn.
Như vậy bản chất đó không thuộc về hạt tâm lý tính tính của ánh sáng nhân bản. Vì nguyên tắc của con người là phải có lương tri, lương năng và có lòng nhân ái để tiến lên bác ái, hoặc có lòng từ để tiến lên đại từ. Thế thì con người mà Như Lai chọn cho tính ánh sáng để đại diện của đấng Thống hóa, hay tính ánh sáng để đại diện cho trung tâm vạn năng, thì tính đại diện đó không có nhiều. Mà nó thừa hưởng cái kho tàng của vũ trụ đã hình thành những giá trị hạt hóa trong đời sống ấy, nhưng nó không bao giờ biết quý trọng tới bản chất tổng thể và ngưỡng mộ giá trị Thống hóa một cách tuyệt đối. Mà nó chỉ biết có đời sống là nó sống mà thôi. Và có thể là nó tạo những đời sống trái ngược đối với hạt tâm lý tính tính ánh sáng của hệ thống Thống hóa.
Tại sao Ta nói như vậy? Vì trong thế giới quan ta thấy rằng bị chối bỏ rất nhiều. Như đối với người duy vật có thể là 15% chối bỏ hệ thống Thống hóa, cũng đồng nghĩa chối bỏ Thượng đế và hệ thống tâm linh siêu thể. Lại còn có những loại người làm khoa học cực đoan, hoặc là vô minh tối tăm, đã vô tình chối bỏ một cách thầm lặng mà không thấy Thống hóa vũ trụ quan đã hóa hạt tâm lý tính cho mình. Tức là họ không cần tìm hiểu về nguồn gốc, nếu có chăng là bằng con người của mê tín dị đoan. Thì họ lại tiếp tục bị che khuất hạt tâm lý tính tính ánh sáng và tỉ lệ ấy rất lớn trong đời sống của thế giới duy ngã. Thế thì phúc cho ai có những căn trí của sức mạnh ánh sáng để nhìn nhận hệ thống Thống hóa là hệ thống chủ thể của giá trị hóa hạt tâm lý tính.
Ta đặt ra nếu không có hạt tâm lý tính thì dễ gì lập thân ngũ ấm và nếu hạt tâm lý tính bị tan biến thì dễ gì có thân trung ấm. Như vậy hạt tâm lý tính nó trọn đủ cả hai mặt về siêu thể trong thân trung ấm và hữu thể trong thân ngũ ấm. Và gắn kết với âm dương siêu sắc năng hóa sắc năng và hạt tâm lý tính ấy không tan biến.
Như vậy chúng ta có quyền nói hạt tâm lý tính tính ánh sáng tuyệt đối của đấng Thống hóa từ trung tâm vạn năng âm dương siêu sắc năng đã hình thành cả một hệ thống tổng thể tinh hoa tròn đủ. Nên ta có thể nói tổng thể hóa thất đại hội hóa hình thành hóa hạt trên bản hạt của hóa đã cho chúng ta thấy được giá trị hạt tâm một cách biện chứng và siêu chứng.
Hạt tâm ở đây là trực diện với đời sống tri thức ánh sáng và não bộ thần kinh của nhân bản duy ngã đại thể, làm một trong hệ thống hạt được hiện rõ trong đời sống tri thức chúng ta. Nếu chúng ta mất hạt tâm lý tính ấy cũng đồng nghĩa với mất tất cả sự hiểu biết. Dù chúng ta có hệ thống đầu não nguyên vẹn đi nữa mà mất hạt tâm lý tính thì đầu não ấy trở thành không có chủ thể sử dụng. Hoặc ngược lại, có chủ thể nhưng nếu đầu não bị hư nát và biến đổi các cơ cấu hệ thống thiết kế thì cũng bất tương lực. Vì hệ thống Thống hóa đã thiết lập luôn luôn là hình thành một cặp bộ của hệ thống não bộ thần kinh và hạt tâm lý tính để thống nhất giá trị hóa và thành lập giá trị hóa một cách tổng thể mà không có biên lệch giữa ý thức và vật chất.
Như vậy hạt tâm lý tính luôn luôn đóng vai trò của ý thức, vật chất và thống nhất được ý thức vật chất, kể cả não bộ thần kinh và cơ quan ngũ tạng. Hạt tâm lý tính là vai trò chính của sự tiến hóa từ cấp thấp nhất đi đến cao nhất.
Như trong đời sống của khoa học ta thấy tất cả từ phức tạp đến đơn giản được hóa từ bản hạt mà ra. Kể cả hạt tâm lý tính tính ánh sáng đối với hạt tâm nguyên tử và hệ thống âm dương vạn tỏa của nguyên tử cũng từ bản hạt mà ra. Thì chúng ta không thể phủ nhận về bản hạt ấy vì nó là mối chốt, là nguyên lý của sự nghiệp hóa, nó là bản chất mà không tan biến của sự nghiệp hóa nên nó mới hóa trường lưu vĩnh cửu trong đời sống hóa mà không bao giờ chấm dứt.
Như vậy, hạt tâm lý tính là không chấm dứt trong sự nghiệp hóa ở trong hai trạng thái, một là hóa thượng được giải thoát tự tại vô ngại, hai là hóa hạ bị sa đọa trong đời sống của Thống hóa chịu những dòng nghiệp và trầm luân trong biển khổ mà không bao giờ mất bản hạt đó. Vậy bản hạt là đại diện cho thực tướng của vũ trụ quan, là đại diện cho ánh sáng trung tâm vũ trụ quan và đại diện cho tính toàn siêu, toàn năng, toàn hóa của vũ trụ quan. Và cũng đại diện cho tính đặc năng, đa năng, siêu năng của vũ trụ quan. Vốn dĩ bản hạt đã có những bản chất đó là nhờ hệ thống Thống hóa có siêu năng, đặc năng và đa năng, cùng tất cả những giá trị thuộc về vạn năng. Thì vạn năng là chủ thể của các năng lực, năng lượng tổng hợp giá trị hóa đối với bản hạt và là sự tích tụ cao nhất của giá trị hóa.
Như vậy, bản hạt là bản chất của sự hiểu biết, trong đó có hệ thống của thấy, nghe, ngửi, xúc cùng tất cả mọi sự hiểu biết phân biệt giữa ý thức cùng vạn pháp. Thì bản hạt vẫn luôn đóng vai trò chủ của giá trị hóa. Nên bản hạt ở đây đồng nghĩa với A lại da chân tâm. Bản hạt cũng có nghĩa là quy tụ tất cả những tinh hoa và kết tinh tinh hoa giá trị bản hạt để cuối cùng bản hạt trở thành pháp thân kim cương, đồng nghĩa với Như Lai, đồng nghĩa với vô thượng chính đẳng, chính giác.
Như vậy, Như Lai hóa thân từ bản hạt mà ra. Vạn pháp, vạn loại hóa thân từ bản hạt mà ra. Nếu không có gốc từ nguồn gốc bản hạt thì đồng nghĩa với không có bản lai diện mục, cũng không thấy được Thống hóa chân tính ánh sáng vạn năng và cũng không trở về trong Thống thức chân quang và không có được một thứ gì cả. Nên bản hạt là giá trị tổng hợp của giá trị hóa đối với hệ thống Thống hóa.
Ngài bảo ông Chơn Ngọc Biện Hộ hãy xác định bản hạt của giá trị hóa và hạt tâm lý tính tính ánh sáng của Thống hóa vạn năng đã hình thành giá trị hóa một cách viên mãn trong đời sống nhân sinh quan và vũ trụ quan.
Ông Chơn Ngọc Biện Hộ: Thưa Cha, bài học hôm nay rất quan trọng và cần thiết trong đời sống tiến hóa của toàn thể nhân loại. Vì bản hạt là giá trị cốt lõi sự sống bất biến và đời đời ở trong giá trị của hạt tâm. Từ trung tâm vạn năng đã hóa hạt cho đến tất cả những bản hạt của muôn loài.
Chúng con đã xác định tính dung thông của Thống hóa vạn năng đã thống nhất và hóa hạt thì hạt tâm lý tính là một hệ thống tròn đủ và thống nhất tổng hàm hoa siêu sắc và sắc của vũ trụ đã hội tụ trong hạt tâm lý tính.
Hạt tâm lý tính là tính của ánh sáng bất diệt được sáng mãi mãi trường lưu trong vũ trụ này và không bao giờ mất. Có thể nó nhỏ hoặc là lớn. Nhỏ là vì sự che chắn bởi lầm lẫn hoặc sự tiến hóa còn ở mức độ thấp của các loài từ cực v,i thì ánh sáng ấy nó nhỏ. Chúng con thấy hạt tâm lý tính rất bình đẳng, vì bình đẳng nên tất cả các loài từ nhỏ nhất cực vi cũng có thể tiến hóa theo thời gian của vô lượng kiếp mà có thể trở lên là cực đại của nhân tế phật tính và thành tựu được quả vị Như Lai Bồ Tát.
Chúng con xác định hạt tâm lý tính là hội tụ cả ý thức và vật chất, vì tri thức hiểu biết ấy không tách rời hệ thống vật thể để có. Vì khi có tâm là có vật, có tính là có thể, thì tâm vật ấy đã được hội tụ trong hạt tâm lý tính. Như vậy hạt tâm lý tính ấy đã dung thông thống nhất cùng vũ trụ. Vì nếu nó tách rời chân tính ánh sáng vạn năng chỉ cần 1 giây thôi là nó liền bị biến đổi và không tồn tại. Như vậy sự sống của nó đã gắn kết và được thừa hưởng ánh sáng của vạn năng. Thế thì vạn năng tồn tại bao nhiêu thì nó cũng tồn tại bấy nhiêu. Vạn năng là bất diệt mãi mãi thì nó cũng trở thành bất diệt mãi mãi. Như vậy nó bình đẳng và dung thông ở chỗ đó.
Hôm nay chúng con là nhân bản duy ngã đại thể thì đó là một điều hạnh phúc. Vì khi chúng con nhìn lại những chặng đường từ cực vi của các loài thấp sinh, hóa sinh, noãn sinh, thai sinh thì một tình thương trãi rộng vô cùng. Có nghĩa là chúng con biết quý trọng hạt tâm lý tính của mình, thì cũng phải biết quý trọng và yêu thương những hạt tâm lý tính của những từng thấp đó. Và chúng con cũng tự thấy rằng chúng con đã được tiến hóa từ những tầng thấp đó tiến hóa lên hôm nay. Thì đó là một chặng đường quá dài, quá xa mà chúng con đã đi được thì đó là một điều mừng vui vô cùng.
Rồi đây tất cả nhân loại sẽ giác ngộ về hạt tâm lý tính, tính ánh sáng tuyệt đối và cũng sẽ mừng vui vì thấy mình đã được sinh ra từ một ngôi Thống hóa. Rồi đây duy tâm, duy vật, duy linh sẽ không còn đất để sống nữa và nó sẽ lùi về quá khứ, của một thời kỳ quá độ đối với sự nghiệp tiến hóa mà nhân loại đã có Cửu kinh minh triết ra đời.
Duy tâm, duy vật, duy linh sẽ trở thành quê mùa vì sao? Vì nhân loại đã giác ngộ hạt tâm lý tính có tròn đủ tổng hàm hoa của tính và thể, tâm và vật. Thì cũng không còn một lý do gì để đối đãi giữa tâm và vật nữa. Mà thấy rằng vật chất và ý thức đã hội tụ trong hạt tâm lý tính của chúng ta, cũng như trung tâm siêu sắc năng và sắc năng, cũng như âm dương siêu sắc thể và sắc thể của tổng hàm hoa vũ trụ.
Như vậy vũ trụ có thứ gì thì hạt tâm lý tính chúng ta cũng có thứ đó, vì thế cho nên hạt tâm lý tính mới hóa được tất cả và hạt tâm lý tính đã đi đến thành tựu cao nhất là Như Lai. Và Như Lai là đồng nghĩa với trung tâm vạn năng. Như Lai đã trở về cùng trung tâm vạn năng và đã hoàn chiếu tất cả những giá trị thuộc về ánh sáng của trung tâm vạn năng. Có nghĩa là vũ trụ có thứ gì thì Như Lai Ngài biết tất cả những cái đó và có cái đó.
Như vậy sự nghiệp tu học của chúng con là phải quyết liệt và không khoan nhượng bất cứ một thứ gì có thể cản trở con đường tu học của chúng con trong hệ thống cửu kinh minh triết này.
Ngài bảo ông Chơn Hoàng Quang Quân trình bày về hạt tâm lý tính.
Ông Chơn Hoàng Quang Quân: Thưa Cha, đối với bản hạt là nguyên nhân chính hình thành được ngân hà, thiên hà và hình thành ra tất cả các dạng vật lý từ phức tạp và đơn giản. Vậy đối với giá trị bản hạt là không có xấu và không có tốt, mà giá trị hạt là một tổng tinh hoa của Thống hóa đã cho trong vũ trụ.
Như vậy, kim cương và than chì cũng được cấu tạo bởi những nguyên tử cacbon. Từ nguyên tử cacbon nếu ở dạng cấu hình về 3D thì được tạo ra kim cương, nhưng nếu cấu hình ở dạng mặt phẳng thì nó ra than chì. Như vậy do tính cơ cấu của tất cả những nguyên tử bản hạt mà sinh ra những vật lý hình tượng mang tính chất khác nhau. Còn đối với Thống hóa là không có xấu hoặc tốt.
Bản hạt là bản gốc của tất cả vạn loại và duy ngã đại thể là đại diện cho bản hạt cao quý nhất trong thế giới nhị nguyên. Như vậy bản hạt là luôn luôn có đầy đủ tinh hoa để trở về với Thống hóa. Đối với vật lý thì người ta cũng biện chứng được rằng: Những gì phức tạp nhất và đa dạng nhất trong vũ trụ thì cũng hình thành bởi các hạt mà ra.
Như vậy Thống hóa rất bình đẳng đã cho tất cả các loài đều có bản hạt và gốc từ bản hạt này mà kết tinh và thành đạt chân tâm kim cương để trở về với trung tâm vạn năng.
Ngài dạy: Nếu duy ngã đại thể có tri thức đặc năng sẽ cảm thông mọi đặc năng của các loài. Nếu duy ngã đại thể có tính đa năng thì sẽ quyết đoán về tính đa năng cho phù hợp với quy trình chuyển động của tuần hoàn thuận và thể nhập tính đa năng trong quy luật tiến hóa cao nhất để đạt được siêu năng. Nếu duy ngã đại thể có siêu năng thì thể dụng của tính siêu năng không trái nghịch với quy trình hóa để thuần tập giá trị hóa kết tinh tinh hoa kim cương. Nhất định sẽ không có mâu thuẩn với các loài và biết yêu thương các loài trong hệ thống Thống hóa, cho tất cả những bản hạt thấp nhất trong đời sống cực vi đến cực đại đều có tính bình đẳng hóa trong giá trị trường cửu mênh mông, để đi đến một con đường rộng mở mà không bao giờ khép lại.
Những sự trái ngược với tính đặc năng, siêu năng và đa năng là mất trọng lực của đặc năng, siêu năng và đa năng. Làm thái quá hoặc bất cập trong tính đặc năng, siêu năng và đa năng sẽ dẫy đầy mọi sự khổ đau mà không cần các độc tố của Thống hóa đổ xuống. Mà lại do chính chúng ta là những người gây hại về hệ thống Thống hóa. Còn bộ máy Thống hóa là hoàn toàn không trái ngược với tri thức ánh sáng đối với siêu năng.
Nếu ai đạt được siêu năng thì sẽ cảm thông và gần gũi với vạn năng và vạn năng hằng hữu trong tri thức ánh sáng của chúng ta và không có biên giới.
Người có siêu năng trong hệ thống tri thức ánh sáng không biên giới là sẽ về với trung tâm vạn năng và sẽ thống nhất giá trị hóa đối với đời sống vũ trụ quan và nhân sinh quan.
Hạt tâm lý tính sẽ không trở ngại về hiện thể và siêu thể, giữa ngũ ấm và trung ấm thống nhất trong âm dương siêu sắc năng hóa sắc năng và thống nhất âm dương siêu thể và thể. Để chúng ta không tan biến hạt tâm lý tính trong ngũ ấm và trung ấm. Để chuyển động hình thành và tiếp tục lập thể trong hệ thống tam thiên đại thiên thế giới, có thể sinh vào các ngôi sao kinh điển hoặc có thể đọa vào 6 đường sinh tử luân hồi.
Như vậy chúng ta hãy thấy rõ về tính chất của cửu kinh là có hệ thống, có định luật, có quy luật và có công lý nhất định của định luật ấy thì chúng ta nên xa tránh tất cả những pháp bất tương ưng và thực tập các pháp tương ưng để đi theo tuần hoàn thuận, nuôi dưỡng hạt tâm lý tính và thành đạt chính vị.
Ông Chơn Thăng Ấn Chuyển xin hỏi: Thưa Cha, khi chúng con nói về cửu kinh thì có hàng lớp thường trí lại hỏi rằng: Nếu Thống hóa hóa hạt và hóa thực vật thì tại sao không hóa tất cả phải là tinh hoa thiện, mà lại có những loài cây mang nhiều độc tố. Hoặc hóa động vật thì tại sao lại có những loài hung dữ và nguy hiểm. Và hóa con người thì lại có người ác và người thiện. Tại sao Thống hóa không hóa toàn bộ là tinh hoa. Mong Cha thông giải để tất cả chúng con được hiểu một cách trọn vẹn và rốt ráo.
Ngài dạy: Đứng trên Thống hóa thì bản chất là vạn năng, đa năng, siêu năng và đặc năng. Nếu mà hóa thuần khiết thì sẽ không bao giờ có cấp độ tiến hóa. Thì giá trị kết tinh tinh hoa để trở về giá trị sản phẩm cuối cùng không bị biến đổi thì mất giá trị và hoàn toàn không có giá trị.
Thứ mà người ta cho là độc nhất, thì đối với hệ thống Thống hóa vẫn là đặc năng, vẫn là những giá trị thể dụng tương xứng với giá trị hóa. Một khi con người kết tinh về chỗ tột cùng là phải hội nhập tổng thể tinh hoa, trong đó có những giá trị hóa mang tính phức tạp mà cần phải được ly tâm và kết tinh. Còn nếu hóa đơn giản quá thì không thuộc về vạn năng. Thí dụ nếu ta muốn có một quần thể sen thì dĩ nhiên là phải tạo ra một cái hầm bùn. Như bùn là đơn vị xấu nhưng đối với sen là đơn vị tốt. Nhưng nếu sen mà không có bùn thì không có sen. Thế thì sự thành lập đây là đối xứng giá trị hóa, chứ không phải là vô nghĩa. Đó là bản chất của đa năng.
Như vậy đa năng đây nếu mà diệu dụng trong quy trình thuận thì ngay cả độc tố cũng có thể dị độc được. Như có những loại độc tố mà con người đã đem sử dụng làm thuốc chữa bệnh được. Ví dụ như con rắn nó có độc nhưng cái độc của nó là sử dụng cho sự hóa trị. Nếu chúng ta sử dụng cái độc hóa trị đó có mục đích thì độc đó trở thành lành tính.
Vậy trong thực vật, động vật có những cây độc và con vật độc, thì các hệ thống độc là để bảo tồn và bảo lưu giá trị sống của chính nó, vì có những năng lực mà chính nó phải cần có độc để bảo tồn. Như vậy sức mạnh của các hệ thống độc cũng là một quy trình bảo tồn của giá trị hóa. Và nếu ta biết vận dụng những giá trị độc để thực hiện những công trình hóa độc thì độc ấy vẫn là phương tiện hóa.
Nếu trên đời này mà tất cả đều là không độc hết thì mức độ suy yếu và có thể trở thành vô nghĩa với tính đa năng và không tồn tại trên giá trị hóa của các loài. Như vậy, bảo lưu những giá trị đặc năng, đa năng là bảo tồn giá trị hóa. Nên tính không giống nhau đó là tính của đa năng được bảo lưu trong giá trị sinh tồn.
Cũng như Cha đã nói, Thống hóa sinh cỏ để bảo vệ hành tinh ở mức độ không xói mòn. Thì cũng phải sinh con ăn cỏ, mà sinh con ăn cỏ thì phải sinh con ăn thịt. Đó là một sự bảo lưu và điều hòa trong hệ thống sinh thái. Thì đó là tính đa năng của hệ thống Thống hóa.
Thống hóa mang tính đa năng vì nguồn gốc của Thống hóa là vạn năng, thì giải trình của tính đa năng và hình thành các hệ thống đơn vị khác biệt để bảo lưu giá trị đa năng và vạn năng đó. Còn nếu là đơn năng thì không trình bày giá trị của vạn năng và đồng thời bị sụp đổ giá trị vạn năng và bản chất của vạn năng không phải như thế.
Muốn có một hệ thống kết tinh để cuối cùng có những sản phẩm tốt nhất mà chỉ là một thể trạng, hoặc một tính chất, một đơn chất thì không thể thiết lập được giá trị tác phẩm tốt nhất đó. Như vậy giữa cái lưỡng cực của âm và dương cũng là chính ta. Nếu đã nói như vậy thì sự khác biệt của đất nước gió lửa cũng có thể là những giá trị đặc năng và tính công dụng của giá trị hóa đối với đất nước gió lửa. Thì các đơn vị hóa ấy dù là độc hay không độc đều là bảo lưu và tồn tại của giá trị hóa.
Để thể hiện tính vạn năng thì phải có những đơn vị hóa học của đặc năng, đa năng, siêu năng để trình bày tính vạn năng của vũ trụ. Còn nếu ở tầng nhị nguyên mà lại đơn điệu và không có tính đa năng của hệ thống chất, tính đa năng của hệ thống hóa học thì không trình bày được giá trị vạn năng của hệ thống Thống hóa.
Ta phải thấy sự tốt đẹp ở đây là ý thức tương tác và vận dụng về các lực ly tâm. Vì vậy nếu không có những điều trái ngược thì lực ly tâm sẽ không còn giá trị. Nên hệ thống Thống hóa có những pháp làm cho chúng ta giác ngộ trong lực ly tâm đó. Và một khi ta ứng dụng đúng thì không có gì là xấu và không có gì là sai cả.
Điều quan trọng ở đây là Thống hóa thành lập đa năng thì có siêu năng giải quyết. Ngài thành lập đặc năng thì có đa năng giải quyết. Tức là đem siêu năng đó để sắp xếp về tính đa năng theo cách đúng quy trình, thì tất cả mọi độc sẽ trở thành bình an. Và bản độc của chính nó là bảo lưu giá trị đời sống của chính nó, thì đối với Thống hóa không thể lấy đi những giá trị bảo lưu của chính nó thuộc về đặc năng.
Như vậy nếu Thống hóa thành lập các pháp là tốt đẹp hết thì sẽ không chuyển tải và thành lập tổng thể tinh hoa và đối xứng các pháp ly tâm trong hệ thống hóa để thành tựu chỗ tột cùng của nó. Cũng như muốn thành tựu được vàng thì không thể đơn thuần ở một chất mà phải cần có sự nung nấu của lửa, hoặc có những thứ ta cho là xấu không sử dụng được, nhưng đối với vàng thì lại rất cần thiết cho chính nó. Hoặc có những thứ con người không sử dụng được nhưng các loài khác thì lại cần thiết cho chính nó.
Ta đặc ra nếu hệ thống Thống hóa quá đơn điệu thì có nhân loại trên hành tinh này không? Nếu hệ thống Thống hóa quá đơn điệu thì hệ thống hóa cũng dừng lại ở nơi đó và sẽ không có chúng ta ở nơi đây. Thế nên mới biết Thống hóa là rất phức tạp, nhưng rất công luật, rất định luật và rất quy luật. Như vậy chỉ vì chúng ta làm sai với định luật, quy luật nên mới đòi hỏi những điều vô lý.
Nếu chúng ta làm đúng với công luật, định luật, quy luật là sẽ không đòi hỏi một điều gì vô lý đối với Thống hóa, mà bắt đầu từ lực ly tâm chuyển hóa và hình thành các độc tố trở thành vô độc và các đặc năng trở thành siêu năng, các đa năng trở thành tối thượng năng và thành tựu chỗ tột cùng của tổng thể tinh hoa.
Như vậy hệ thống Thống hóa là không thiếu bất cứ một chất gì, kể cả chất độc và cực độc nhất cũng phải có cho đời sống của hóa. Nếu không có những loại cực độc trong đời sống hóa. Thì có lẽ là thiếu tất cả những thứ đa năng và vạn năng của hệ thống Thống hóa.
Ta đặt ra, nếu Thống hóa chỉ tạo ra những điều tốt đẹp nhất thôi. Thì Ngài sẽ nắn ra con người bằng vàng luôn chứ không phải con người từ đất nước gió lửa, để rồi phải chịu sinh diệt như thế này. Như vậy giá trị đối xứng của sinh diệt là đối xứng với công luyện của tính siêu năng. Thế thì các độc tố và tội ác cũng là giá trị tri kiến đối xứng giá trị ly tâm của bản chất tinh hoa cuối cùng.
Như vậy, bùn là đối xứng giá trị tổng hợp đối với sen và sen là cần thiết phải có bùn mới có được hương liệu thơm nhất trong giá trị hóa. Ta thấy bùn là thứ hôi tanh, xấu xa nhưng bản chất nó vẫn có lợi ích cho sen.
Mục đính của kim tính hóa và tác phẩm cuối cùng của kim tính vẫn cần 2 trạng thái của cực âm và cực dương. Như vậy quá trình cực âm và cực dương đã thống nhất hóa thì mức độ ma sát và công luyện của vàng phải dùng những chất mà đối với chúng ta cho là cực độc. Nhưng bản chất đó lại là hình thành vàng.
Như vậy cực âm là một yếu tố đóng vai trò rất quan trọng đối với đời sống của giá trị hóa. Nếu chúng ta loại trừ giá trị cực âm trong đời sống của sự nghiệp hóa thì vạn vật sẽ không tồn tại trên giá trị hóa. Thế thì chúng ta có thể lấy cực âm để đại diện cho xấu ác, và nếu loại trừ cực âm ra khỏi đời sống của sự nghiệp hóa thì những tác phẩm nguy nga và lộng lẫy sẽ không bao giờ có mặt.
Ta lấy âm là đại diện cho mọi sự hóa mang tính dung chứa, ví dụ bùn là đại diện cho âm, ngó sen là đại diện cho dương. Vậy bùn và ngó sen gặp nhau cũng như âm và dương gặp nhau thì mới ra một hoa sen. Bây giờ nếu ta tách bùn và ngó sen ra cũng như âm và dương ra làm hai thì không bao giờ có được hoa sen. Chúng ta thấy con rắn là độc nhưng vì các độc ấy mà bảo lưu được đời sống của chính nó. Thì đối với Thống hóa vẫn cho một bảo lưu nhất định của giá trị hóa trong đời sống của tiến hóa và chính nó nhờ các độc đó mà nó tồn tại. Như vậy diệu ý của Thống hóa là không tính ác giữa nó và người, mà tính sự tồn tại của giá trị đặc năng của chính nó có để nó được sống thì diệu ý đó có tính đa năng và đặc năng. Như vậy Thống hóa hoàn toàn không đơn điệu và không phải hóa đơn chất mà hóa tổng hàm hoa.
Hóa tổng hàm hoa là luôn luôn có 2 trạng thái của âm và dương. Và tính của âm và dương luôn luôn có mặt trong đời sống hóa mà không thể tách rời ra. Như vậy giữa cái xấu, cái tốt đó là chỉ có mặt trên mặt bằng của sự nghiệp hóa, còn khi đạt đến tột cùng của sự nghiệp hóa thì xấu và tốt là hoàn toàn bị triệt tiêu. Thế thì cái xấu kia là mượn để hóa và hóa để có cái tốt nhất.
12/Giêng/2009
CÁC HỆ THỐNG LẬP THỂ CHE CHẮN HẠT TÂM LÝ TÍNH; HẠT TÂM LÝ TÍNH BẤT BIẾN THỂ, THỂ LẬP HỆ THỐNG THỐNG NHẤT
Đây là một bài học mang tính khoa học và hiệu triệu về sức mạnh của tập lũy và hình thành tổng giá trị hóa một cách tròn đủ mà không bị lệch.
Chúng ta thấy về phần bên dưới thì các hệ thống lập thể bị che chắn, nhưng phần trên thì hạt tâm lý tính bất biến thể thể lập hệ thống thống nhất. Thì đây là một điều đảo ngược trong giá trị hệ thống hóa để hình thành thượng tầng và hạ tầng trong giá trị lập thể hóa. Thường thì con người bị gãy đổ và không trở về hệ thống ấy để hình thành giá trị thực tướng của chính ta trong đời sống hệ thống hóa ấy.
Nếu chúng ta thấy được về tính biện chứng của các pháp lập thể làm che chắn hạt tâm lý tính và thấy được hạt tâm lý tính bất biến thể thể lập hệ thống thống nhất. Nếu thấy được như vậy thì vũ trụ trở thành một hệ thống thống nhất và hoàn toàn chân thật trong đời sống ấy. Mà đối với các hạt tâm đang chuyển động và hình thành trong đời sống ấy thì không thể khoan nhượng với sự nghiệp trở về đối với hệ thống thống hóa.
Ngài bảo ông Chơn Ngọc Biện Hộ: hãy bích dụ về tính biện chứng như thế nào là các hệ thống lập thể che chắn hạt tâm lý tính?
Ông Chơn Ngọc Biện Hộ: Thưa Cha, về tính biện chứng của các hệ thống lập thể che chắn hạt tâm lý tính. Con xin thí dụ: Thứ nhất, như hành tinh đối với mặt trời, vì hành tinh là hệ thống lập thể chuyển động quanh mặt trời mang tính giới hạn cũng có thể là làm che chắn đi hạt tâm lý tính là mặt trời. Thí dụ thứ hai: Như những án mây trên không gian bầu trời là hệ thống lập thể được hình thành từ tứ đại, có thể làm che chắn hạt tâm lý tính đó là ánh sáng mặt trời. Thí dụ thứ ba: Về hệ thống lập thể đối với thân ngũ ấm của chúng ta là có: sắc, thọ, tưởng, hành, thức; Nếu chúng ta chưa trở về chân tâm thì sắc, thọ, tưởng, hành, thức là lập thể che chắn hạt tâm lý tính vì sự lầm lẫn của ý thức. Thí dụ thứ tư: Đối với đời sống nhân bản thì hệ thống lập thể che chắn hạt tâm lý tính thí dụ như: ngũ độn sử hoặc thập kiết sử; Trong đó có tham, sân, si, mạn, nghi; có thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và tà kiến; Đó là mười yếu tố rất quan trọng nó làm che chắn hạt tâm lý tính của chúng ta.
Ngài vỗ tay và khen ngợi: Hay lắm, hay lắm!.
Ngài bảo ông Chơn Hoàng Quang Quân: hãy nói về tính biện chứng các hệ thống lập thể che chắn hạt tâm lý tính.
Ông Chơn Hoàng Quang Quân: Thưa Cha, con xin biện chứng về hệ thống lập thể che chắn hạt tâm lý tính. Thứ nhất, con thí dụ như trong cơ học về những phân tử đang hoạt động trong khí quyển, là lập thể làm che chắn đi hạt tâm lý tính đó là nguyên tử ánh sáng. Thí dụ thứ hai, khi các nền khoa học phát triển mang tính đa chiều, mang tính cực đoan thì chính các nền khoa học đó cũng đã làm che chắn đi phần ánh sáng thực tướng của hạt tâm lý tính. Thí dụ thứ ba, về đời sống nhân bản trong xã hội thì những ý thức tương tác của con người, chính những ý thức tương tác đối đãi này cũng làm che chắn hạt tâm lý tính.
Ngài vỗ tay và khen ngợi: Hay lắm, hay lắm!
Ngài bảo ông Chơn Luân Thương Bang: hãy nói thêm và chẻ nhỏ thêm về tính biện chứng các hệ thống lập thể che chắn hạt tâm lý tính.
Ông Chơn Luân Thương Bang: Thưa Cha, thí dụ như hệ thống lập thể của các loại quả như quả xoài thì hình thể nó là làm che chắn hạt tâm lý tính. Thứ hai, thí dụ như các loại cây hoặc cỏ rác đều làm che chắn mặt đất; thì ví như con người chúng ta các hoặc lậu của ý thức đã làm che chắn đi hạt tâm lý tính chân tính của chúng ta. Thứ ba, trong tất cả các loài từ trung tâm cực vi và trung tâm hóa cực đại, thì trong tất cả các phần lập thể đó cũng đã làm che chắn đi hạt tâm lý tính trong chân tính của tất cả các loài. Thí dụ như các nguyên tố hóa học đã hình thành về phần lập thể, nhưng nó luôn bị che chắn bởi những hạt cơ bản của nó. Thí dụ đối với hành tinh thì phần lập thể của hành tinh là tứ đại đất nước gió lửa, nhưng hệ thống lập thể tứ đại đã làm che chắn hạt tâm lý tính, đó là hồng cầu.
Ngài vỗ tay và khen ngợi: Hay lắm, hay lắm!
Ngài dạy: hôm nay, bài học đầu năm cũng là bài học xác định về giá trị tri thức ánh sáng của con cái, để chúng ta đi vào những bài học lớn hơn của hệ thống hóa. Thì đối với Chơn Ngọc Biện Hộ, Chơn Hoàng Quang Quân, Chơn Luân Thương Bang đã trả lời hoàn toàn chính xác.
Đột phá sự che chắn là nhằm thấy được giá trị thực tướng. Mà trong hệ thống che chắn ấy là tính nguyên tắc, tính định luật, tính cơ cấu, tính hệ thống thiết lập được rạch ròi trong hệ thống ấy. Khi chúng ta chưa thấu đáo được thì hoàn toàn chúng ta bị che chắn, nhưng nếu chúng ta bắn được ánh sáng vào trung tâm và hoàn chiếu được tính hạt tâm trung tâm thì không có thứ gì làm che chắn được giá trị hạt tâm ấy. Vì hạt tâm lý tính bất biến thể thể lập hệ thống thống nhất và hệ thống thống nhất không thể loại trừ hạt tâm để có hệ thống. Chính vì đó mà chúng ta thấy sự che chắn là không có thực tướng.
Nếu sự che chắn ấy là có thực tướng thì có lẽ muôn đời dù cho có đột phá, quay ngược 180 độ vào quỹ đạo thì Cha con chúng ta cũng không tìm về nguồn hạt tâm của trung tâm được. Thì giá trị trung tâm ấy cũng trở thành vô tưởng.
Chúng ta không phải là những con người vô tưởng trong sự nghiệp vũ trụ, mà là con người thực tưởng và đi đến siêu tưởng hóa trong sự nghiệp vũ trụ, để đặt nền móng cho giá trị Công Luật đại hóa đối với muôn sinh, muôn pháp, muôn loại, muôn hình, muôn thể. Mà không có một hình thể nào mà không có tính công dụng trong giá trị hệ thống Thống hóa.
Trong hệ thống duy nhất và tính hạt tâm duy nhất ấy, thì hôm nay các con đã đưa ra những bích dụ cụ thể để làm sáng tỏ cho hệ thống thống nhất ấy. Đối với Cha là thật sự rung động và xúc động trong chân lý ánh sáng này. Đối với sự nghiệp này và Công Luật vũ trụ sẽ mãi mãi không bao giờ ly thoát giá trị sự nghiệp ấy đối với chúng ta và muôn loài.
Về phần hai, là hạt tâm lý tính bất biến thể, thể lập hệ thống thống nhất.
Ngài bảo ông Chơn Thăng Ấn Chuyển: Hãy đưa bích dụ như thế nào là hạt tâm lý tính bất biến thể, thể lập hệ thống thống nhất.
Ông Chơn Thăng Ấn Chuyển: Thưa Cha, thí dụ như: tất cả nhân bản đại thể đều có hạt tâm. Khi hạt tâm đã trở về với tổng thức a lại da thì có thể điều hành 6 căn và 6 căn đã trở thành 1 hệ thống thống nhất cùng a lại da. Thí dụ chân địa là chân tâm; khi chúng ta nhổ sạch các cỏ rác làm che chắn chân địa, tức nhổ sạch các hoặc nghiệp, lậu nghiệp và các ý thức nghiệp thì chân địa sẽ thể hiện tính tuyệt đối bất biến.
Ngài vỗ tay khen tán: Hay lắm, hay lắm!.
Ngài bảo ông Chơn Quốc Chính Thống: hãy cho vài bích dụ xác định tính chất giá trị hạt tâm lý tính bất biến thể, thể lập hệ thống hóa có tính thống nhất.
Ông Chơn Quốc Chính Thống: Thưa Cha, khi nói đến đề kinh này thì trước hết con xin trình bày về tính thống nhất của vũ trụ. Bởi vì chúng ta đi vào vũ trụ bằng con đường Công Luật vũ trụ, chứ không phải bằng con đường biện chứng hóa để rồi chúng ta bị mờ mịt bởi cái đỉnh cuối cùng của nó; đó là cái đỉnh của thực tướng vô tướng. Như xưa nay các nhà khoa học không thể nào bắn thẳng vào thực tướng của vũ trụ, mà chỉ hình dung vũ trụ bằng hình thức này hoặc là hình thức khác; thì đó là then chốt để chúng ta xác định được vấn đề. Như vậy, chúng ta đi vào vũ trụ bằng con đường Công Luật, có nghĩa là bằng khoa học thực nghiệm và khoa học đại ngã.
Đối với hệ thống của Công Luật vũ trụ, chúng ta thấy trong hệ thống hóa của những định luật, quy luật rất vững chắc. Nếu có sự sai biến thì chính là ý thức lầm lẫn của con người. Như vậy, tính khách quan của vũ trụ hoàn toàn rất thống nhất, mặc dù có hệ thống lập thể, hoặc lập thể từ một hình thức nào thì tính khách quan nó cũng hoàn toàn thống nhất.
Khi hình lập của vũ trụ đã hoàn chỉnh một hệ thống thống nhất thì tất nhiên hạt tâm lý tính của nó hoàn toàn bất biến thể. Thí dụ như hệ thống lập thể của một quả xoài gồm có vỏ cơm và hạt. Đó là hình lập mà tất cả các vật thể không bao giờ sai biến bằng một hình thức chuyển động đó. Vậy thì, vỏ và cơm không thể tách rời hạt tâm và biến hóa trong quy trình thuận để đưa trở về với hạt tâm lý tính ấy. Ví như cái bông xoài khi mổ ra thì chúng ta không bao giờ thấy hạt, nhưng tính hạt tâm đã có trong đó rồi. Như vậy, vỏ và cơm nó chuyển động đến một lúc nào đó đủ quy trình thì nó hình thành hạt tâm. Đến khi vỏ và cơm không còn nữa nhưng tính chất vỏ và cơm đã tròn đủ trong hạt tâm đó. Vậy hạt tâm bất biến thể đã hình thành hệ thống thống nhất.
Ngài vỗ tay và khen ngợi rất nhiều lần: Hay lắm, hay lắm!.
Ngài dạy: Có nghĩa là chúng ta đã tìm ra giá trị hạt tâm ở nơi quả xoài. Đây là một bích dụ vững chắc nhất.
Này các con! nếu trái xoài ấy được chín mùi thì tất cả tinh hoa đã trở về hạt và hạt trở thành vững chắc trong giá trị hạt tâm duy nhất. Hạt tâm duy nhất đã có trong nó nên mới đem nó trồng lại được. Khi trồng lại không bao lâu thì nó sẽ có đầy đủ một cây xoài có hệ thống thống nhất của nó. Như vậy, ông Chơn Quốc Chính Thống đã trả bài chính xác theo như ý của Cha. Chúng ta hãy hoan nghênh với tri thức này. Sự hiểu biết này có thể đột phá được tất cả các mạng trong hệ thống hóa. Vậy chúng ta có thể đưa nền khoa học điện tử tin học, không gian học và tất cả mọi giá trị mạng trong hệ thống lập thể để chúng ta xác định tính chất giá trị hạt tâm lý tính đã có trong đó cho nên mới có thể hoạt động được.
Ông Chơn Quốc Chính Thống nói tiếp: Thưa Cha, khi chúng ta phân tích được vấn đề đó thì thấy rằng vũ trụ không bao giờ có thừa và không bao giờ có thiếu. Mà có thừa hoặc thiếu là do phân biến của ý thức đối đãi khi mà lên nhân bản đại thể. Nhân bản đại thể là tính tròn đủ của ý thức và vật thể trong con người chúng ta, cho nên chúng ta mới có một sự lầm lẫn cho rằng vũ trụ là thế này hoặc là thế khác; hay là có khổ đau và có sung sướng, có thiên đàng và có địa ngục. Thực ra quy trình hóa của vũ trụ là đưa chúng ta đi về nguồn trong một quy trình vững chắc và rất rõ ràng. Nghĩa là chủ ý của Thống hóa chỉ có một con đường duy nhất là đưa chúng ta về đỉnh cao của hạt tâm lý tính bất biến thể mà thôi.
Ngài dạy: Về bài học này, phần thứ nhất là các hệ thống lập thể che chắn hạt tâm lý tính. Đây là phần lập thể và đột phá trong hệ thống lập thể để trở về nắm bắt giá trị hạt tâm lý tính và hạt tâm lý tính bất biến thể mới hình thành hệ thống thống nhất.
Tất cả từ những đơn giản nhất đến phức tạp nhất đều được giải quyết bằng minh triết.
Đứng trên nền tảng minh triết để giải phóng tất cả mọi sai lầm do quá nhiều sự phân biệt của ý thức. Chính phân biệt đa chiều ấy mà làm che chắn hệ thống thống nhất và không trở về với chính ta.
Thống nhất là giá trị cao nhất và sức mạnh lớn nhất của vũ trụ, vì vũ trụ hoàn toàn có tính thống nhất.
Thống nhất vì hạt tâm lý tính bất biến thể, thể lập hệ thống thống nhất. Như vậy, trung tâm vạn năng là đại diện cho hạt tâm vô thượng, tức là tột đỉnh của hạt tâm vì không có hạt tâm nào sánh được với giá trị trung tâm vạn năng của hạt tâm.
Tại sao chúng ta xác định được hạt tâm lý tính là bất biến thể? Như ở phần một, chúng ta đã xác định về các hệ thống lập thể từ cực vi đến cực đại, sự hoàn hảo của cực vi và cực đại trong giá trị của các loài từ thực vật đến động vật và động vật cao cấp là duy ngã đại thể. Đương nhiên giá trị lập thể ấy đã hoàn chỉnh trong các loài và hình thành phân lập các lớp học trong các loài, năng động trong các loài và tính đặc năng về tính duy nhất của giá trị hóa và thống nhất trên giá trị lý tính của hạt tâm mà các loài ấy được hưởng thụ.
Vô cùng hạnh phúc thay với một sự nghiệp của Thống hóa, vô cùng vĩ đại thay với một sự nghiệp Công Luật vũ trụ và mười phương Như Lai. Cũng từ đó mà được hóa thân và hình thành bản địa thực tướng của giá trị hóa và được vinh danh trong sự nghiệp Công Luật vũ trụ ở khắp cùng vô lượng hành tinh.
Chúng ta ở trong trường lớp đã nghe được minh triết lòng sung sướng bao la và hạnh phúc dạt dào; vì con đường của đạo luật về giá trị hệ thống thống nhất ấy đã làm con mắt trung tâm chính giữa được mở toạt ra để thấy hệ thống lập thể đang che chắn có tính nguyên tắc. Và đột phá tính nguyên tắc của hệ thống che chắn để trở về với hạt tâm lý tính, để có tính thống nhất trong hệ thống ấy thì cha con chúng ta sẽ được vui sướng và hạnh phúc đời đời trong hệ thống thống nhất ấy.
Ta nói minh triết mà lòng xúc động và sung sướng muốn khóc. Thì tiếng khóc ấy là thơm thảo, lừng lẫy và dung dịu vô cùng đối với sự nghiệp Công Luật vũ trụ. Lòng kính yêu vô hạn của chúng ta đối với vũ trụ đã cho cả muôn loài được sống. Sự kính yêu tuyệt đối, sự khuất phục tuyệt đối, sự cuối đầu tuyệt đối. Và tất cả những căn nguyên đã được hạnh nhất mà các loài được cho trong hạt tâm, thì trong hạnh nhất đã có đủ phúc âm và bảo lộc của nó. Nên Thánh nhân đã nói: ”Thiên sanh nhơn hà nhơn vô lộc, địa sinh thảo hà thảo vô căn”. Mọi nguồn cội của giá trị sống và con người được sống, thì sự hạnh phúc của trung tâm vạn năng đã tròn đủ trong ta, thì tính chất duy nhất của hạt tâm cũng vậy, mà không thể sai chạy một điều nào hết nghe con!
Ấy là những giá trị mà chúng ta phải thực hiện cho được những công trình cứu rỗi ở trong hệ thống minh triết này. Hãy đem tất cả những năng lực cao nhất của hệ thống minh triết này, cùng sự nghiệp khoa học Công Luật vũ trụ để phụng sự cho loài người và sáng tạo loài người, nhằm đem lại cho loài người một màu thẳm xanh và tươi mát để phục hưng tất cả những hạt tâm lý tính, mà chúng sinh còn bị che chắn do sự lầm lẫn của những quá trình tiến hóa nhất định của nó. Như vậy, trong đời sống tiến hóa nhất định thì sự che chắn cũng có tính nhất định; nhưng sự che chắn ấy không có thực tướng cho nên cha con ta cùng nhân loại sẽ được bình an ở điểm cuối cùng.
Chúng ta ngồi trong trường đại học Công Luật, những điều tuyệt vời được xuất hiện từ âm dương bào tạng, từ sự khen tán rộng lớn của mười phương và hân hoan vui mừng của Trâu Vàng về lại Bia Sơn; cùng đoàn thần sĩ tiếp bước theo sự nghiệp. Vì vậy, đối với chúng ta dù có hy sinh bao nhiêu đi nữa thì cũng không bồi đắp được sự nghiệp vũ trụ đâu con! Chính vì vậy mà chúng ta là những hạt tâm lý tính đã hoàn thành trong giá trị hóa của nhân bản duy ngã đại thể, thì không còn một thứ gì để đắn đo suy nghĩ trong hệ thống lập thể mà chúng ta đang bị che chắn. Nếu vượt thoát sự che chắn ấy thì cha con chúng ta rồng rồng ở trong chân tính và không còn bềnh bồng, luân trầm, khổ đau, thì sự nghiệp Công Luật vũ trụ đã hoàn toàn ở trong thực tướng của sự nghiệp hóa về hạt tâm lý tính và tính duy nhất trong hệ thống, thì đó là con đường duy nhất của muôn loài.
Chúng ta hãy đem minh triết vào đời sống của đại hóa để hóa sạch tất cả những che chắn đau thương. Chính vì che chắn trở thành nghiệp lực, trở thành hoặc lậu; Chính vì che chắn trở thành phân biệt, trở thành độn sử; Chính vì che chắn mà bao nhiêu sự thống khổ và trầm luân trong sáu đường của địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, a tu la, nhân thiên. Sự che chắn càng nghiêm trọng thì khổ não càng nghiêm trọng. Càng giảm đi sự che chắn thì càng thông đạt và ánh sáng sẽ lớn dần trong lý tính, thì hạnh phúc sẽ đến với chúng ta.
Đây là bản kinh được thuyết và được học tri. Có lời hỏi của thầy đối với học trò. Bản kinh này phải được ghi rõ lại để làm đề tài cho tất cả những hàng lớp sinh viên, học sinh và con cái ở đàng sau.
Ngài hỏi: Các con thấy thế nào về bài học hôm nay và ngộ nhập được bao nhiêu phần trăm?.
Ông Chơn Ngọc Biện Hộ đại diện đáp lời Cha: Kính thưa Cha, bài học hôm nay chúng con vô cùng xúc động trong tình yêu vô cùng của Cha đã đến với chúng con và nhân loại ngày mai. Bài học đã làm sáng tỏ và mở ra cho chúng con một con đường phía trước rực sáng. Mặc dù chúng con chưa đến được đích, nhưng ánh sáng minh triết của Cha đã vạch đường và chúng con đã định hướng được con đường đi của mình một cách rất chính xác, thì nhất định chúng con sẽ đến đích. Bài học hôm nay cho chúng con thấy được thực tướng về hạt tâm lý tính bất biến thể và thấy được giả tướng của các pháp trong hệ thống lập thể! Thấy được tội lỗi và khổ đau hoàn toàn không có thực tướng. Tất cả những thứ đó chúng con nhất định sẽ thắng phục nó, để trở về trong giá trị hạt tâm và thành tựu hạt tâm lý tính bất biến, để đạt được mục đích của sự cứu cánh. Bài học hôm nay là phương thuốc trị liệu những căn bệnh lầm lẫn, còn bảo thủ các pháp lập thể một cách cực đoan sai lầm. Bài học hôm nay sẽ giúp cho nhân loại ngày mai đạt được hạnh phúc và vinh quang.
Thưa Cha, mặc dù hôm nay chúng con vẫn còn bị những sự che chắn nhất định; trong hiện tại dù chúng con chưa ngộ nhập được chân lý này một cách trọn vẹn, dù chỉ được 50 hoặc 60 phần trăm chẳng hạn, nhưng nhất định chúng con sẽ đạt được 100 phần trăm và nhân loại này sẽ đạt được 100 phần trăm của bài học hôm nay.
Vì đây là một chân lý vô cùng tuyệt vời mà Cha đã dùng minh triết làm sáng tỏ, thì nhất định con đường đó sẽ dẫn chúng con cùng nhân loại đi đến hạnh phúc và bình yên. Chúng con rất kính yêu và xin tôn vinh Cha đời đời trong chân lý và trái tim của chúng con.
23/4/canh dần
THIÊN VẠN THỂ CHUYỂN THỂ TỪ HẠT TÂM LÝ TÍNH
Thiên vạn thể là tính từ nhỏ nhất của cực vi, đến cái lớn nhất là cực đại. Trong thế giới thuộc về tam giới, thì có 6 đường lục đạo được chuyển thể ở các loài là không thuộc về ánh sáng tối linh. Vì hạt tâm lý tính chưa già chín nên không có được ánh sáng tối linh, vì vậy nó thuộc vô minh. Vì vô minh nên nó không thấy xa, không biết rộng và bị tắt nghẽn trong vạn pháp, không thông suốt được vạn pháp. Cho nên thiên vạn thể được chuyển thể từ hạt tâm lý tính. Như chúng ta đang chuyển thể về hạt tâm lý tính được làm người, là quá vinh quang trong 6 đường. Nếu chúng ta chuyển thể về hạt tâm lý tính đối với các loài như cực âm siêu vi, thì đồng nghĩa với địa ngục và súc sinh.
Như vậy, khi chúng ta tan rã hệ thống lập thể của con người thì thường là bị rơi về 6 đường gồm có: Thiên gọi là con người của trời, nhân gọi là con người. Nếu sụp xuống ở các giới thấp khác thì gọi là con quỉ hay con súc sinh, nếu thấp nữa là cực âm địa ngục, tùy theo thâm trọng của tội phạm đã gây ra. Nếu như phạm tội ngũ nghịch như giết Phật, giết vua, giết tổ, giết thầy và giết cha mẹ. Thì 5 tội này thuộc về nghiêm trọng và rơi vào A tỳ vô gián. Tức là sự hiểu biết đau khổ và khắc khoải không dừng nghỉ, mà bà Thanh Đề là một biểu trưng về mặt biện chứng pháp.
Như vậy, con người có thấy được điều đó không? Nếu chúng sinh không thấy thì định luật nhân quả sẽ cho chúng thấy. Vì khi con người gieo ra nhân gì thì sẽ gặt lại quả ấy. Như vậy, định luật nhân quả nó bày tỏ trước mắt về giá trị chuyển thể của hệ thống lập thể đối với hạt tâm lý tính và hạt tâm lý tính được thăng hoa lên tầng cao hoặc là thoái hóa rớt xuống, thì sự nhỏ dần, nhỏ dần về sự hiểu biết đó có thể đến với các loài, đồng nghĩa với lập thể của các sự hiểu biết thuộc về cảm thọ. Thí dụ như hôm nay ta có sự hiểu biết của ý thức, nhưng ta lại làm xáo mòn ý thức và xáo mòn hạt tâm của sự hiểu biết đó bị nhỏ dần đi, thì ta không thể nào có lập thể con người nữa mà là lập thể của con khác… Nên hôm nay ta là con người, nhưng mai kia ta có thể mang hình thể của con gì khác, thì chuyện đó cũng hoàn toàn rất khoa học. Bởi vì quĩ tích hạt tâm lý tính nhỏ dần, thì quĩ tích hệ thống lập thể cũng sẽ tương xứng với quĩ tích ấy. Nên đức Phật nói luân hồi nhân quả, thì nhân quả và luân hồi luôn luôn gắn liền nhau. Luân hồi là thuộc về kinh Vận luật tuần hoàn chu kinh. Vì khi vận luật tuần hoàn quay thì hạt tâm lý tính của chúng ta cũng theo vận luật đó mà chuyển thể tốt hoặc xấu, thượng hoặc hạ. Thế nên chúng ta mang lập thể con người chưa phải là lập thể vĩnh cửu, mà lập thể ấy còn bị biển đổi thiên hình vạn trạng đối với hạt tâm lý tính có thể chuyển hóa các hình trạng khác.
Như tội ngũ nghịch là đọa vào A tỳ vô gián, còn các tội khác như gian dâm, giết người, trộm cướp, ma men ẩm tửu. Thì các loại đó thuộc về u khuất thần kinh não bộ và lần lần làm triệt tiêu hạt tâm lý tính đến nhỏ nhất.
Mỗi con người đều có những nghiệp dĩ khác nhau, vì thâm trọng của các loại nghiệp dĩ ấy nó khiến cho con người điên điên, khùng khùng và không có định hướng của ngày mai sẽ về đâu. Một khi mà chúng sinh chưa có con đường giải thoát thì điều chắc chắn là ở trong 6 đường luân hồi nhân quả. Nếu nó làm những phúc âm ở trong đời sống ấy, thì có thể nó hưởng được cái quả của trời, người; thì cũng chưa ra khỏi được quĩ đạo sinh tử luân hồi ấy.
Như vậy, thiên vạn hình chuyển hóa trong hạt tâm lý tính. Hạt tâm lý tính thăng hoa thì mới có ngày trở về trong vinh quang của sự nghiệp Công Luật vũ trụ. Nếu chúng ta không trở về được thì nhất định sẽ trôi dạt mênh mông trong biển khổ của luân hồi sinh tử ấy.
Đối với cái chết thì ở biện chứng pháp là mất, là mất cái lập thể của một chiều đối với hình hài của con người và hình hài của con vật. Nhưng thật ra cái chung của giá trị hình hài trong hệ thống lập thể ấy đều còn mãi trong giá trị tuần hoàn là trả lại cho mẹ của nó là tứ đại.
Chúng ta là con của tứ đại và người Mẹ là vận hành trong sự nghiệp hành tinh, thì hành tinh vẫn còn để nhận lại những gì ta trả lại. Nên nói rằng mất mà không mất. Về mặt lập thể, là trả lại để tiếp tục chuyển động và hình thành các hệ thống lập thể mới. Thì đây là lý luận mang tính vật chất biến đổi nhưng không biến đổi giá trị chân tính ánh sáng của sự nghiệp vũ trụ chuyển hóa vật chất theo định luật từ trường.
Còn về phần tính thì sự hiểu biết thuộc về ánh sáng. Người ta có thể phân tích ánh sáng như mặt trời, ánh sáng như mặt trăng, ánh sáng như dòng điện, ánh sáng như đôm đốm và nhỏ nhất là ánh sáng của hư lân. Như các loài ngạ quỉ kia nó vẫn còn ánh sáng, nhưng ánh sáng của sự le lói chập chùng và khổ đau trong hạt tâm lý tính của các nghiệp dĩ vô cùng đày đọa. Trong 36 loài ngạ quỉ thì có những loại đói đến mức độ là nó ăn sạch lại tất cả các thứ phân của chúng. Nhưng tất cả đều từ con người mà ra, điều đó mấy ai biết được chăng? Ngày trước nó làm vua, làm quan, làm khanh hầu công tước, nó làm trưởng giả tử và làm những người mặt sáng mày râu. Nó ăn trên mâm cao cổ đầy. Thế rồi không bao lâu thì chúng nó lại vào trong 36 loài ngạ quỉ sống với nhau, giành giựt nhau, nó khốn nạn ghê gớm như vậy. Nên Đức Phật nói: Ôi thương thay! cho những hạt tâm lý tính biến thể và chuyển hình trạng xấu xa nguy ngập mà Phật thấy còn phải kinh khiếp. Phật là đấng kim cương bất hoại mà thấy còn phải xót xa đọng lòng. Như vậy, tội là tuyệt đối đối kỵ của hạt tâm lý tính và hạt tâm lý tính chết vì tội lỗi. Tội lỗi sẽ làm cho hạt tâm lý tính teo nhỏ lại đến cực âm và cực âm vi, và cực âm vi vẫn là sự sống. Còn Chư Phật là đấng đã được giải thoát vẫn sống trong thái dương rực rỡ và hiển vinh trong chân tính vô cùng đối với Trung tâm vạn năng.
Như vậy, chúng ta phải hiểu rằng: Thiên vạn hình từ hạt tâm lý tính hóa kết, thành kết và hiện hữu trong các hình đồ khác nhau cũng thuộc về hạt tâm lý tính
Chúng ta không nên coi thường mà phải luôn cẩn trọng từ ngay một lời nói. Nói với thầy, nói với Phật, nói với Mẹ, hay nói với bất cứ ai đều phải cẩn trọng. Lời nói ấy có phúc hay có tội. Hành vi tư tưởng nghĩ ngợi cho đến tất cả những việc chung chung, thì chúng ta phải luôn luôn lấy thước vàng khuôn ngọc để đo xét về tư tưởng – ý niệm ấy để giác định giá trị hạt tâm lý tính hóa vạn hình tương lai thuộc về loại hình gì. Và hình tích giá trị hạt tâm lý tính đó thuộc về đâu, là do các tội cấu thuộc về tội gì mà mới ra hình tích đó.
Như vậy, xét về quĩ tích trong sự chuyển động đó thì hạt tâm lý tính là đứng đầu. Còn mắt- tai- mũi- miệng- thân- ý là công cụ hóa của hạt tâm lý tính và một khi mà tất cả những phương tiện công cụ đó bị biến đổi, thì toàn bộ những thứ tội ác đó hạt tâm lý tính hoàn toàn phải nhận đủ, còn 6 căn kia hoàn toàn không có căn nào nhận cả. Như vậy, mọi tội ác hạt tâm lý tính nhận đủ. Thế thì mọi hành vi do thân ý và khẩu ý tung hoành, rồi cuối cùng hạt tâm lý tính A lại da thức nhận đủ và chìm đắm trong mọi nhân quả khủng khiếp mà chúng ta không thể nào thoát khỏi.
Chúng ta phải thấy rằng: Theo thời gian của thái dương hệ có thể 3.000 năm độ một tiểu tuần luật, có thể 10.000 năm độ trong một tuần luật và có thể nhiều hơn nữa. Thì những gián ký của hạt tâm lý tính về các sự oái âm nhất là thân trung ấm chưa có ngày nào ra. Có nghĩa là mang thân âm cực kỳ khổ đau, rất sợ và xa lánh mặt trời, vì mặt trời không tương quan với phần âm trập của thân trung ấm.
Như vậy, con người hết sức là phức tạp, đời sống vũ trụ hết sức là phức tạp và các loài cũng hết sức là phức tạp. Nếu ta có những đặc năng của các loài thì đó chẳng qua chúng ta được một ân sủng nào của các loài để được sống mà thôi.. Vì đấng Thống Hóa vẫn cho chúng ta những đặc năng nhất định để chúng ta tiến hóa, nếu chúng ta không tiến hóa thì chúng ta sẽ rớt xuống đặc năng thấp hơn, thì dần dần tính đa năng và siêu năng của chúng ta sẽ không còn như loài người và các loài cao hơn nữa.
Đối với vũ trụ này không có gì mất cả. Như có một Chư Phật Ngài thuyết 60 tiểu kiếp, nhưng khi đi ngược về trung tâm thì 60 tiểu kiếp đó có ở tại trung tâm và toàn bộ mọi sự ghi nhận về những hành vi của vị Phật đó hoàn toàn đều có ở trung tâm.
Như hôm nay Cha làm việc gì thì Đức Từ Phụ đều biết cả. Vì tất cả đều hiện lên trong gương chiếu ánh sáng của vô cực quang, vì trung tâm ánh sáng vô cực quang thu nhiếp các hệ thống kinh điển chuyển ròng trong sự nghiệp hóa thân của các Chư Phật.
Nếu không phải như thế thì người ta không bao giờ nói rằng: “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”. Nên chúng ta không phải lo một thứ gì mất cả, mà chỉ lo sợ mình làm việc bất chính rồi bị teo hóa hạt tâm lý tính và rớt vào trong các loài mang những hình thể khác nhau.
Như vậy, nếu Cha hóa thân Phật vương, thì đối với Cha cũng là Phật, đối với Cha cũng là vua và đối với Cha cũng là thầy (quân-sư-phụ) mà các con thì lại xem rất thường. Ngày nay trong thời mạt pháp con cái quay ra ngoài hết rồi. Nó quay theo thiên vạn hình súc sinh động vật. Tức là động vật hóa ý thức. Chớ nó đâu có chịu quay vào trong chân thể quang minh, ánh sáng diệu chiếu và trở về chân tâm để thực hiện những công trình Phật đạo,
Ở đây đối với chúng ta không những chỉ là cái khôn của một thủ tướng đi lập thiền viện. Không những chỉ là cái khôn của đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni đã bỏ ra một ngôi vua, mà còn là cái khôn long trọng trong vũ trụ tiên thệ rằng: Ai ra khỏi tam giới thì người ấy mới có thể sống đời đời trong vũ trụ. Vì vậy mà chúng ta xa lìa tất cả những phù hoa phím lạc và xa lìa những thứ quay cuồng làm cho hạt tâm lý tính bị teo đi. Nên mới tìm về nơi danh lam ổn định và tìm về nơi trường đường thiền định, để giữ lập hạt tâm lý tính, thì đó mới thật là người trí và người khôn.
Đức Phật nói: “Ngươi có hệ thống lập thể nhân bản, tại sao ngươi không lấy chiếc thuyền nhân bản ấy để chở ngọc, chở vàng và chở kho tàng pháp bảo qua sông, mà ngươi lại neo đậu bên bờ và cùng chiếc thuyền sống mãi ở đó, mà không bao giờ thấy được bến bờ an lạc bên kia”.
Một đời của chúng ta cũng giống như ta làm được một chiếc thuyền, ôi! rất là khổ công tốn nhiều tiền của, thì ta phải biết dùng nó để công suất hóa và thực hiện những công trình vượt tuyến để trở về với thời gian ánh vàng, là trở về với nguyên lý đã sinh hóa chúng ta.
Tóm lại, Nói thiên vạn thể là nói đến đời sống của các loài từ cực vi đến cực đại, thì trong đời sống ấy có chúng ta. Vậy chúng ta phải biết tất cả của đời sống lập thể, thiên vạn lập thể trong hạt tâm lý tính. Nếu hóa thượng thì có một đời sống tuyệt đối cao, còn hóa hạ thì có một đời sống cực kỳ khốc liệt, cực kỳ đau khổ. Nhưng tất cả phát xuất từ các trọng nghiệp và các trọng tội, phát xuất từ các chủng tử, các nghiệp dĩ và các ý thức biến động làm cho hạt tâm lý tính bị thoái hóa, để cuối cùng nó phải chuyển thể qua những lập thể khác. Như vậy, hạt tâm lý tính là mối chốt để lập thiên vạn hình trong 6 đường sinh tử đó.
Hạt tâm lý tính là tính của ánh sáng từ cực vi đến cực đại. Một khi chuyển thể của hạt tâm lý tính, có thể là sự hóa hạt ấy nó nhỏ hơn xấu hơn, thì nó sẽ có những hình tương quan với hạt đó. Nhưng khi hạt đó lớn hơn, tốt hơn thì nó có những hình tương quan với hạt đó.
Đức Phật nói rằng: Hãy chiêm ngưỡng và lễ bái Quan Thế Âm từng ngày không bao giờ nhàm chán, cùng điểm tô các công đức khen tán và không bao giờ chê bai ai, thì trong tương lai nếu người ấy sinh hóa vào kiếp người thì sẽ có một thân tướng rất là trang nghiêm đẹp đẽ. Còn nếu cứ thường xuyên chê bai người khác và không biết chiêm ngưỡng hình tượng Phật thì dần dần sẽ bị nhiễm các pháp xấu xa đó, thì người ấy nhất định sẽ mang những hình thể xấu xa.
Đứng trên tinh thần vũ trụ quan về tâm sinh vạn pháp, là duy tâm thượng trung tâm vạn năng sinh ra vạn pháp, cơ cấu hệ thống tròn đủ tổng thể tinh hoa. Còn đứng trên mặt bằng của duy ngã đại thể về tâm sinh vạn pháp, thì có nghĩa là sinh ra các pháp lành thì tất cả những nhân lành quả tốt nó sẽ kết lại cho ta. Nhưng chúng ta sinh ra những pháp không lành, thì tất cả những thứ nhân quả không lành đó nó kết lại cho ta. Như vậy, nếu ý thức tương tác mà quay theo chu trình thượng thì nhất định chúng ta sẽ mở rộng về hạt tâm lý tính ánh sáng để đạt được giá trị cao nhất về trung tâm.
Như vậy, chúng ta có hạt tâm lý tính nếu chúng ta không quay về, không quay lên mà lại quay xuống, quay ra thì thiên vạn hình nó sẽ hóa lập các hình thể trong đời sống của vạn thể đó. Thế nên có những loài thấp nó tiến lên loài cao, nhưng cũng có những loài đã lên cao rồi mà lại lầm lẫn nên rớt xuống loài thấp. Vậy đây là định luật nhằm để hóa, thì chúng ta có quyền hướng thượng hoặc hướng hạ, nhưng hướng hạ là hoàn toàn nguy hiểm. Thì định luật này thuộc về trung tâm hóa vạn pháp, hóa vạn thể và hóa thiên hình vạn trạng. Như vậy, hạt tâm lý tính phải chịu định luật hóa này và hạt tâm lý tính được quyền hóa thượng hoặc được quyền hóa hạ. Nên nói rằng: Thiên vạn thể hóa từ hạt tâm lý tính. Nếu hạt tâm lý tính hóa thượng thì đầu tiên sẽ được những quả thánh, nếu tiếp tục hóa lên cao hơn thì thành các đấng Thánh nhân, Bồ tát và Như Lai. Còn chúng ta hóa hạ thì rơi xuống các loài trong 6 đường sinh tử luân hồi mà cao nhất là thiên nhân. Chúng ta phải thấy rằng tổng thể tinh hoa hóa các loài, nhưng khi các loài biết kết tinh tổng thể tinh hoa, thì các loài ấy sẽ thoát ra khỏi mọi định nghiệp của các loài và trở về giá trị bất biến thể của hạt tâm lý tính.
Chúng ta phải hiểu tất cả đều có hạt tâm, từ nguyên tử cũng là hạt tâm, thực vật cũng là hạt tâm, động vật cũng là hạt tâm. Như vậy, tính bình đẳng ấy là hạt tâm. Thế thì nếu hóa thượng thì hạt đó trở thành ánh sáng lớn hơn. Còn nếu hóa hạ thì hạt đó nó sẽ trầm luân và chịu chuyển hóa trong thiên hình vạn thể đó. Nên nói thiên vạn thể chuyển thể từ hạt tâm lý tính.
Thống Hóa thiết lập thiên vạn hình là để hóa thăng hoa, để kết tinh kim cương, kết tinh hoa nghiêm, kết tinh liên hoa. Đó là mục đích chính của đấng Thống Hóa. Như vậy, khi chúng ta có những bản địa tiến hóa như vậy thì chúng ta phải tu tiến thăng hoa. Tu tiến thăng hoa về tính khách quan ví dụ như: Theo mỗi nhân duyên lành mà kết hợp giữa người và người hoặc giữa người và động vật, thì luôn luôn có sự cảm nhiệm tương quan trong giá trị thăng hoa ấy mà tu tiến và thăng hoa. Nên tu tiến thăng hoa luôn luôn là lẽ chí thiện, chí mỹ và chí chơn của sự nghiệp vũ trụ. Mà không bao giờ bị trôi dạt chí thiện, chí mỹ, chí chơn của vũ trụ vào những vực sâu. Nếu tu tiến thăng hoa của các hạt tâm đối với thiên hình vạn trạng, thì Thống Hóa đã kêu gọi rằng: Bởi tiến hóa mới lập thiên hình vạn trạng, mới có thăng hoa, mới có tiến hóa, mới có kết tinh và trở về chỗ tột cùng của nó là kim cương, vàng và châu báu. Còn nếu nói về hoa thì các loài hoa đẹp nhất, anh tú nhất và không biến đổi của ngôi sao kinh điển là Hoa nghiêm. Như vậy, cuối cùng các loài cũng tiến về Hoa nghiêm, tiến về Pháp hoa, tiến về Kim cương và Hoàng kim. Đó là lẽ tất nhiên của vũ trụ mà không bao giờ thay đổi giá trị chí chơn, chí thiện và chí mỹ đó. Như vậy, vũ trụ hoàn toàn không áp đặt bất cứ một sự thống khổ nào của các loài đời đời. Nên ngài nói rằng: Các ngươi hãy khổ luyện để được đời đời hạnh phúc. Chớ Ngài chưa bao giờ nói: Các ngươi có hạnh phúc khi các ngươi chưa có khổ luyện. Cho nên trong sự kết tinh rèn đúc về hệ thống lập thể , là đã chịu mọi tác ứng và hành vi tác ứng giá trị lập thể trong đời sống ấy, thì mỗi khi ăn là khổ rồi. Sống phải làm việc, phải thăng hoa, phải quyết tâm rèn luyện thì mới có được hạnh phúc. Cho nên tất cả các loài đều phải ở trong qui luật công luyện. Nên Ngài nói: Chính bản chất của tinh hoa nó đã được công luyện rồi, thì hệ thống lập thể thiên hình vạn trạng cũng căn cứ trên công luyện ấy mà được thăng hoa. Chớ còn nếu các ngươi không công luyện thì chắc chắn cũng không bao giờ được thăng hoa.
Các đơn vị hóa học về tính khách quan nó cũng đã công luyện rồi, đừng nói chi có một hạt tâm lý tính trong hệ thống vật chất mà không công luyện thì trở thành vô nghĩa.
Đây là thuộc về minh triết chí lý, nghĩa là lý đã có một tiêu chí triệt để về giá trị tiến hóa và tất cả những cái minh cao quí nhất đã đem ra mổ xẻ, phẫu thuật và phân tích làm rõ về minh lý ấy, thì chúng ta còn có cái nghi nào để nghi thêm nữa không? Hay là trước mắt chúng ta vẫn là thiên hình vạn trạng. Mà thiên hình vạn trạng ấy đều có tích tụ hạt tâm lý tính. Để rồi từ đó chúng ta công luyện thoát ra những thiên hình vạn trạng đó, mà đến cùng những ngôi sao kinh điển để có một pháp thân rực rỡ và không còn bị kẹt trong các loài nữa.
Nên Như Lai nói: Các loài đều có Phật tính như Ta, lấy Ta là chỗ biểu trưng thì các ngươi đều có tính sống như Ta. Và Ta là Phật đã thành thì tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành.
Ngài nói chúng sinh là nói cho tất cả mọi sự sống, vì những gì có sự sống thì đều có bản chất, bản địa giống nhau tương quan với nhau và từ vũ trụ hóa ra. Như vậy trung tâm vạn năng hóa thiên hình vạn thể, thì thiên hình vạn thể được hạt tâm lý tính, trách nhiệm phải là tu tiến thăng hoa để kết tinh những chất liệu cao cấp.
Như Lai nói: “Các thiên hình vạn thể loài thấp là nhờ ở loài cao”. Như vậy ai chăm sóc các loài thấp đây?. Có phải chăng đó là loài người. Nên ở Tây phương người ta đã chăm sóc từng con vượn, con khỉ, con gấu và chăm sóc các loài động vật trong rừng. Ngài nói: “Nếu ở đây các ngươi chưa biết chăm sóc các loài sống, chưa biết nâng đở các thiên hình vạn trạng trong hệ thống lập thể, thì Ta sẽ không bao giờ nâng đở các ngươi. Các ngươi nuôi nó không được thì để ta nuôi và chớ đừng xâm phạm đến việc mà ta nuôi chúng”.
Như vậy sự hân hoan vui mừng và tán khen không hết lời, trong ngôi lời tột cùng của đấng Thống hóa, là đấng mà có thể là sùng kính nhất trong đời sống của chúng ta. Có nghĩa là chúng ta có trái tim và có nguồn máu bao nhiêu, khối óc hiểu biết bao nhiêu, tình yêu bao nhiêu thì đều phải biết ơn và sùng kính đấng Thống hóa một cách tuyệt đối. Chúng ta sùng kính như vậy đồng nghĩa với sùng kính đức Thích Ca Mâu Ni, đức Quan Thế Âm và sùng kính tất cả chư Phật đã hóa thân vào các hành tinh

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!