Thứ Hai, 27 tháng 5, 2013

Mẹ Đại Sư Bà -Giao thừa 2011 Tân Mão

CLDL! Mẹ rất xót xa, rất xót xa! Mẹ rất yêu thương, yêu thương con có tội! Mẹ rất nỗi niềm, như nỗi niềm của người Mẹ trên thế gian này! Sự nghiệp Công Luật là sự nghiệp tinh lọc hóa tổng thể. Sự nghiệp Công Luật là sự nghiệp của các đấng cứu thế. Sự nghiệp Công Luật là sự nghiệp tất yếu của định luật nhân quả. Mẹ rất thống thiết, thống thiết không cùng về nhân loại trên hành tinh nói chung và trong Công Luật Chuyển Luân Pháp Bảo của chúng con một phần này.
Ngọc Đảnh ơi! Cửu kinh con ra đời rồi mà dòng Chơn vẫn tiếp tục phạm tội. Thậm chí sự u khuất không cùng tận của dòng Chơn ấy đã chẳng biết ngày cuối cùng của nó sẽ về đâu, đi đâu, đến đâu và có thể sầu vạn kiếp không chấm dứt trong sự thống khổ ấy, mà chúng chưa bao giờ hay biết điều này.
Đối với thế cuộc phân ly như biển dục, sóng gào và khổ não tràn lan trong thế giới, thì sự xót xa ấy đối với Mẹ vẫn còn nguyên đây. Ngọc Đảnh ơi! Mẹ không mang thân thể hình hài xác thịt. Mẹ mang siêu thể tự tại ở trong hệ thống trung tâm thì càng nghĩ đến mọi sự đau thương của con cái ở trong trần thế. Và có thể nói các hành tinh biến đổi không cùng, hình thành những địa ngục ký tính, mà chúng sinh chưa bao giờ ly thoát và được an trụ ở trong mọi phúc âm của chúng. Nghiệt ngã thay, nghiệp dĩ lại tiếp tục chồng lên, mọi sa đọa càng chồng thêm, dày xéo tâm thức chẳng bao giờ yên nghĩ. Thiên đàng pháp tính cũng chẳng bao giờ có thể đến với chúng, thì các hình sắc thiên đàng kia có bao giờ ngự trị được đâu. Đó là điều tất yếu!
Sự xót xa của mẹ về các nghiệp dĩ phân hóa mà toàn thể dòng Chơn còn phải mắc phải. Ngay cả cuộc sống đời thường cũng không thể bỏ nghiệp mà đi, thì huống chi nói đến đạo luật thành công. Tất cả đều là mơ hồ, là khổ não, là biến đổi dần theo thời gian của sự già chết. Chúng sẽ chấm hết với gia đình và quê hương dân tộc. Và có thể nói bất cứ một hệ thống nào cũng không thể tồn tại trên thế gian này. Đó là điều sự thật mà nỗi niềm của Mẹ chưa bao giờ dừng lại ở sự tận độ, mà Mẹ vừa rồi đã phán lịnh thanh lọc toàn thể dòng Chơn.
Thanh lọc để Mẹ được hạnh phúc, hay toàn thể đại chúng được hạnh phúc? Thanh lọc để chúng con được an vui, hay để chứng minh là tất cả những thứ đào thải ấy, những quặng cấu ấy đã khiến con phải chịu luật này, luật khác và chúng sinh hệ thống phân ly tử biệt tiếp tục tồn tại trên thế giới duy ngã này. Hôm qua các con là anh em, ngày nay các con là xa lạ. Hôm qua là ân sủng, mà ngày nay là oán thức. Thế tất cả những năng lực ấy đã biến động ở trong đời sống của chúng con. Ngay cả cuộc sống các con cũng chẳng an thì làm sao các con có thể làm an cho nhân loại, an cho người khác, an cho thân bằng quyến thuộc và người anh em của các con.
Mùa xuân về có người cười người khóc, có người sướng người khổ. Có người thăng hoa cũng có người trầm đọa. Tất cả bể dâu vẫn còn nguyên trên mặt trạng trần gian. Thế thái nhân tình, cuộc đời lênh đênh là vậy! Ai thấy ai? chỉ thấy được mình trong sự sống để được bình an và sung sướng, mà không thấy được mọi sự khổ đau của người khác đến bởi ba thời kỳ quá khứ, hiện tại, vị lai.
Mười phương thiết lập Âm dương bào tạng là làm rạng rỡ cho Hồng Ân, cho nhân thế loài người, cho pháp giới chúng sinh, nói nhỏ lại là cho quê hương dân tộc, nói xa hơn là ánh sáng viên chân của hệ thống kinh điển rực rỡ nhất mà Từ Phụ đã truyền trao cho Kim Ngưu. Một trong chính giáo bất hủ mà trên đời dương thế đều sủng ân, thì con cái đã biết được và thể nhập được ánh sáng đó một cách trọn vẹn để đi trên con đường cửu kinh chuyên môn hóa hành tinh. Thật sự bất cứ người con nào thể nhập cửu kinh thì chính nó cũng đã có phần chuyên môn hóa tâm pháp nó, thân thể nó và đời sống gần gũi là vợ chồng con cái nó, anh em nó và quyến tộc nó một cách lợi lạc và bình yên trong tức khắc. Mà nếu được truyền nối với nhau thành một dây chuỗi ngọc, để tỏ ra một ánh sáng, thì cuộc đời cũng có thể thay đổi được.
Tất cả những dòng Chơn sau sự phán quyết đã mất hẳn và khai trừ như Chơn Phúc Bảo Cơ, Chơn Thăng Khoa Giáo. Từ những tên thụ ký, lời định ngọc của Ngọc Đảnh ban ra sao lại mất rồi và hỏi lại có còn không?. Nỗi lòng của Mẹ là nỗi lòng thương xót và thương xót không bao giờ hết đối với toàn thể các con, mà không nói riêng cho dòng Chơn nào. Mẹ đến với các con bằng ánh sáng quang minh rực rỡ qua tri thức vô tiền khoáng hậu của Ngọc Đảnh đại hóa. Mẹ nói trước những năm tháng mà những công trình của Ngọc Đảnh thiết kế, thì hôm nay những công trình đã rạng rỡ trên giai đoạn đầu. Giai đoạn chưa kết thúc và tiếp tục của những giai đoạn kỳ diệu hơn nữa và có thể nói là loan ra cả nước. Thật vậy! Được mọi người tôn quí sùng trọng và cho đây là một trong những kỳ tích mà đàn con Công Luật đã làm nên. Đó là một trong những xót xa mà chính Mẹ chưa bao giờ có thể nói và nói bằng lời. Nhưng nói bằng lời thì cũng giới hạn lắm. Không nói thì không làm tỏ rạng được đàn con.
Sự phân biến của con cái ở mức độ, như mức độ mà Mẹ thấy ấy là trên mặt bằng của hệ thống Công Luật. Song sự bất biến đổi của Công Luật mười phương đã thiết lập công án đại hóa, thì vốn dĩ không thể tách ra. Thì ngày mai sức mạnh của hậu duệ đã thể hiện một cách rực rỡ và quang minh như Chơn Duệ Kim Thiền chẳng hạn. Một trong những người phi vượt trên mọi giá trị của người cha và thành đạt như người cha mình vô cùng. Để thể hiện những năng lực đặc biệt và có thể tri kiến cho các hậu duệ tiếp theo. Đó cũng là nỗi niềm và cũng xót xa cho những đứa con đã vượt cả sức mình trên mọi năng lực kỳ tích để thể hiện hơn nữa và tấm lòng đại hiếu ở trong những ngày tháng đi qua và nhiều kiếp trước không tính đếm.
Sự khó nhọc quyết tâm trực diện với mọi hoàn cảnh như Ấn Chuyển cũng không thể rời cha, thể hiện tính bí tích và sức mạnh mà Mẹ đã tri kiến trong các thời pháp trước. Tất cả các con hãy giữ sức mình trong Công Luật và không phát sinh những bản ngã vô lý để đánh đổ chính mệnh trong hệ thống pháp thân Như Lai.

Mẹ rất yêu thương và không đặt một điều kiện nào trên tình yêu thương ấy. Đi ngược lại sự nghiệp Công Luật cũng được yêu thương. Sa đọa vào tận cùng cũng được yêu thương và làm tất cả sự vinh quang cũng được yêu thương. Yêu thương của sự mừng vui và hạnh phúc, yêu thương của sự lo âu và thương khóc con vì con sa đọa. Định luật tất yếu nhân qủa rõ ràng, không thể thay đổi được định luật này, vì thế mà Mẹ Xót xa. Nếu Mẹ thay đổi được định luật thì mọi nỗi niềm và xót xa của Mẹ cũng sẽ chấm dứt với nhân loại và hoàn toàn Mẹ đã làm chủ được đại thể duy ngã trên con đường chính tu đại hóa. Và khi ta đã được thành Phật thì đại thể duy ngã cũng được thành Phật. Điều ấy không bao giờ có và không thể xảy ra trong hệ thống Công Luật vũ trụ. Nên tình thương của Mẹ không có điều kiện với các con.
Ngọc Đảnh là một trong những người phụ nguyên vô tiền khoáng hậu. Sức mạnh của Ngọc Đảnh đã thể hiện những giá trị kỳ tích. Sự đích thực của sự cứu độ đối với Ngọc Đảnh trên con đường đại hóa. Tính theo thời gian và không gian thì Ngọc Đảnh vẫn là huy hoàng trước mọi sự huy hoàng của đại cuộc. Ngày mai Ngọc Đảnh trở về là ngày được huy hoàng hơn. Còn ở trong thế gian nếu có huy hoàng cũng bởi nhân loại, pháp giới chúng sinh mà huy hoàng. Và đàn con được no ấm hạnh phúc, sung túc, là sự huy hoàng cao nhất, sự tham muốn tột cùng của Ngọc Đảnh mà Mẹ đã biết từ lâu. Sự ban cho của Ngọc Đảnh tương quan với chư Phật mười phương. Ba đời chư Phật mười phương đều ban cho, thì bản chất của Ngọc Đảnh là bản chất của chư Phật ba đời. Vì thế khi chưa ban cho thì mọi sự xót xa của Mẹ, của Ngọc Đảnh lại tiếp tục hình thành. Nếu ban cho một cách đầy tròn của sự ban cho, thì chính thực của mùa xuân trong cơ phục lâm mới rõ bày về cơ anh tài và sức mạnh của thánh tích đối với sự nghiệp Kim Ngưu phá điền.
Mẹ đã nói rõ tất cả mùa xuân qua còn trong chu trình hạ. Chờ một mùa xuân của chu trình thượng. Thì một trăm xuân mới có thái xuân hạnh phúc và bền vững thái bình. Còn chưa được mùa xuân thượng thì những mùa xuân ấy vẫn còn nhiều nước mắt hơn là những nụ cười trên môi của nhân loại. Đất nước đã một nghìn năm nở hoa. Thành Thăng Long được rực chiếu ngũ vân, thụy kết Long Thành. Long Thành đã thụy kết, nghìn năm đã đi qua. Tất cả những giá trị hồng bào được thiết lập như một cửa ngục chuyển hóa, chuyển hóa đến một thời kỳ giao kinh và sự đỉnh đạt của giá trị hóa, tập hợp sức mạnh về Bia Sơn như ánh sáng quần tụ, cũng từ ấy mà Bảo Sơn cơ minh xuất được vạn tỏa hào quang. Sự nghiệp khảm phương là sự nghiệp của Trâu Vàng và tất cả đều mở đàn một cách ngoạn mục. Đó là một trong nỗi niềm lớn nhất của Mẹ và sự trắc ẩn tình yêu của Mẹ đối với đại tộc thuộc CLPB và Hồng ân cứu thế của chúng con.
Ngày ấy trên đỉnh quang vinh và hạnh phúc, sự hiển hách của Ngưu Tinh đại xuất là sức mạnh của Hồng bào, là sự chuyển giao của Hùng Vương, của Thánh tổ đã y kết trên sức mạnh của dân tộc.
Dân tộc Đại Nam Kinh Châu hay còn là dân tộc của Âu Lạc- Văn Lang truyền thống. Rồi đây, đất nước sẽ vạn xuân, quỹ tích thái dịch sẽ đến khắp nhân loại sau mùa băng giá và cơ đại loạn.
Không có gì quý bằng sự nghiệp Công Luật đại hóa và không có gì quý bằng vô lượng tâm tập hợp sức mạnh trong sự nghiệp cứu thế. Chính sự nghiệp cứu thế là giải mọi cái nguy trong mọi khổ nguy. Chính sự nghiệp cứu thế đã bày tỏ áng văn thứ nhất của nhân loại, trời người được hoan nghênh và hạnh phúc được nở hoa. Mùa của hoa anh thoại, mùa của quang minh là rực chiếu hào quang mới của các ngôi sao lạ ra đời. Đó là nỗi niềm lớn nhất của Mẹ. Trong nỗi niềm ấy phải có sự xót xa đối với đàn con băng hoại, hoang hóa, biến chất, thối chuyển và coi thường Công Luật sự nghiệp cứu thế của Mẹ, sự nghiệp cứu thế của Ngọc Đảnh, sự nghiệp cứu thế của Mười phương Như Lai. Coi thường sự phán quyết và thụ ký của đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni: Ngưu Quốc Sắc Lữ Thành Đạt. Coi thường sự phán quyết: “Nhất nhơn, nhất mã di như ngã. Hữu đột xung thiên cứu độ dân”. Chúng con luôn tôn vinh sự uy lực sức mạnh không biên giới. Là tỏ sức mạnh không bao giờ thối chuyển, không thể thối lui. Trăm ngàn sự thống khổ vẫn xem như không có khổ. Trong sự kiệt tận của lưu đày, coi như dày công bồi đắp sự nghiệp và xây dựng cho Bia Sơn được lớn hơn. Công trình của nguyên lý và di chỉ của sự nghiệp để lại mai sau, đời sau cho con cháu. Công trình của sự thử thách, trong đó có thách thức, và muôn vàn thử thách ấy trở nên kỳ tích cho giá trị lịch sử tương lai và mãi mãi
không bao giờ thay đổi.
Ngọc Đảnh ơi! Giả như dòng Chơn không thể hiếu nổi, có thể thay đổi lòng người, có thể quay lưng, có thể bất tín, có thể chối minh triết, có thể coi thường sự hóa thân của con trong sự nghiệp phá hoang lập nguyên. Coi thường thiết lập âm dương bào tạng. Coi thường Hán Vương trên lòng bàn tay. Hoặc coi thường tất cả những giá trị uy linh nhất của con, thì việc ấy vẫn là bình thường. Vì sao? Vì chúng là bình thường, hoặc mất đi sự bình thường, thì tất cả sự coi thường ấy là đương nhiên.
Thế gian nguy kiến phúc Hồng ân, sức mạnh đại hóa không thể bị va đập. Các hệ thống quay lưng, hoặc đi ngược lại với giá trị Công Luật mười phương, vì thế mà sinh lòng lo âu. Không đâu con! Không! Mà chỉ là con, con vẫn đương nhiên trong sự nghiệp Công Luật đại hóa. Vẫn đỉnh quyết trong giá trị cứu tinh, vẫn tập hợp được lực lượng hậu duệ to hơn, nhiều hơn ở những thời kỳ tiền khai, bán khai. Không thể đem những thời kỳ ấy so sánh, và cũng không thể chối bỏ những thời kỳ khai hóa, không phủ nhận những công đức và sức mạnh thiết lập của toàn thể đàn con đi trước mà quên tất cả những giá trị công đức của những người con đã hy sinh. Thế thì tất cả ai còn là còn đó, ai mất là mất. Mất- còn là do chính nó. Chớ không bởi nơi con. Nếu bởi nơi con làm cho chúng còn thì chúng được còn. Bởi nơi con làm cho chúng mất nên chúng mất. Điều ấy nó quá chủ quan đối với giá trị Công Luật, mà tính chất giá trị còn- mất là sự giác ngộ của chúng khi nhìn nhận được sự nghiệp Công Luật.
Mẹ phán quyết rằng: tất cả vật chất có thể thay đổi, cuộc đời có thể thay đổi, tất cả có thể thay đổi. Song Công Luật mười phương không bao giờ thay đổi. Ta đã tuyên thệ trong sự nghiệp Công Luật, chính trục trung tâm: sự nghiệp Kim Ngưu là sự nghiệp bất diệt trên con đường đại hóa. Sự nghiệp Kim Ngưu là sự nghiệp thiết lập có tính chất bí sô trong sức mạnh của trung tâm Thống hóa. Sự nghiệp ấy đã thể hiện được những giá trị kỳ tích và giá trị thành tựu theo mọi giai đoạn. Tất cả những giai đoạn thành tựu đã tỏ ra sự thuyết phục của các công trình thành tựu. Và sự thành tựu này cũng là một trong những hệ thống tri kiến cho toàn thể pháp giới. Và ngày mai pháp giới chúng sinh thấy được sự tri kiến này, tỏ bày được thực tướng của Công Luật này, hiểu biết được một cách thông suốt thì điều mà Mẹ nói cách đây 40 năm: “Công Luật rồi đây sẽ trùng trùng điệp điệp, và không đếm kịp số người quay về Công Luật”, Ta hoàn toàn nói không sai. Một ngày kia các con mới thấy lời của Mẹ là lời mang tính định quyết trong sự nghiệp bất biến đổi của hệ thống Công Luật Chuyển luân pháp bảo.
Lại nữa, vì sao? Vì bộ luật của nhân quả đã thể hiện sự ứng báo thưởng phạt một cách trình tự. Thì Ngọc Đảnh có thể muốn, hoặc Mẹ có thể muốn. Nếu ngược lại những định luật ấy để muốn thì định luật nhân quả ở đâu? Và giá trị thưởng phạt mọi ứng báo của chúng đối với đại tộc thuộc, hoặc nói riêng cho các dòng Chơn phạm luật. Nếu phạm luật mà không được trị thì luật ấy là nghĩa gì? Loại nhân quả gì? Và những thứ nhân quả không có thiệt ở trong đời. Cũng như không có cây lúa, không có đóa sen. Cũng không có tất cả những cây lành trái ngọt đã được dựng lên như một định luật tất yếu, và loại nhân nào thì quả nấy. Không thể thay đổi những loại nhân quả tất yếu mà chúng đã làm nên. Chúng tưởng rằng những việc làm của chúng khuất mắt của nhân loại, chỉ có chúng biết thôi thì được yên. Nhưng ngược lại không bao giờ yên, vì những việc làm ấy đã đúc kết trở thành những nghiệp lực và sức mạnh chuyển động để báo ứng và đưa chúng đến chỗ cùng tận của giá trị này. Giá trị này là giá trị báo ứng. Giá trị này là giá trị nghiệt ngã, giá trị này là giá trị sa đọa, giá trị này là giá trị chết chóc và giá trị này là giá trị phân tán điêu linh và chúng không thể tồn tại trên hình thể chúng. Vì mọi hình thể ấy là lưới của định nghiệp, lưới của nhân báo, quả báo đã trùm lên thân thể chúng và trùm lên ý niệm tư tưởng chúng, tâm pháp chúng và chúng không thể thoát ra được. Nhẫn đến tất cả những công đức trang nghiêm nhỏ như hạt bụi, như hạt cát, như sợi lông cọng chỉ, có những thứ công đức mà không nhìn ra được nó. Vì nó quá nhỏ hoặc nó quá siêu tế, thì những công đức ấy vẫn được tụ kết hình thành những giá trị khối lượng nhất định để báo ứng cho chúng. Mà chúng được phúc báo, được yên vui, được sự an trụ. Và ở đâu cũng được người chúc phúc ban cho. Đi đâu cũng được người giúp đỡ. Đi đâu cũng có ngõ mở và không có lối cụt. Đi đâu cũng được bình an trên mọi phúc địa, và mọi phúc địa tự dẫn độ đến, chúng được ngôi nhà đẹp, được tất cả mọi phương tiện. Vì sao? Vì định luật đã nói rõ, trước hay sau gì thì định luật nhân quả cũng đến với ngươi. Dù lâu hoặc mau với thời gian và không gian thêm hoặc bớt thì nhân quả đó không thể lộn được.
Như vậy thì tinh thần xót xa của Mẹ đối với lịnh phán quyết tinh lọc của toàn thể dòng Chơn để kết tinh kim tính và chọn kim tính làm quyền thừa Công Luật là điều hẳn nhiên rồi không có gì phải hỏi nữa. Những thứ không phải vàng thì không thể dùng nó được. Vì bản chất nó thuộc về quặng cấu, thì chính nó sẽ làm khổ đau nó và khổ đau cho nhân loại. Chính nó đã được tinh lọc, được vàng ròng, được kho tàng Phật bảo, pháp thân uy nghiêm, tâm hồn chân chính đỉnh đạt như lưu ly, mã não, san hô và các loại ngọc quý thì chúng được hạnh phúc mà còn chia bang ánh sáng cho người khác. Phước hạnh của chúng đầy mới tràn và chia ban cho người khác, còn không thì chúng không thể cho ai được cả.
Triết lý của ta là triết lý sống và sống để thực hiện triết lý và hành động theo triết lý. Triết lý ta là triết lý thẳng, triết lý của một vạch định con đường hóa đạo và hóa tâm pháp. Hóa cả những đời thường và những đời không được bình thường. Triết lý của ta là như thế đó. Triết lý của ta là hệ thống Cửu Kinh Minh Triết mà đã được ánh sáng bày trên pháp thân của Ngọc Đảnh bằng Cự nhật đại quang đã tỏ trước mắt ngươi, và mắt ngươi đã thấy được Cửu Kinh Minh Triết.
Mẹ hoàn toàn thực và thực trên pháp thân của Ngọc Đảnh. Mẹ hoàn toàn thực, vì ngôn ngữ minh triết thực. Mẹ hoàn toàn thực, vì nghĩa lý của Mẹ thực. Mẹ hoàn toàn thực vì pháp thân Mẹ không bao giờ biến đổi.
Mẹ hoàn toàn có, vì Mẹ có đủ cho con để con xây dựng tất cả những công trình nào mà con có thể làm được. Những chỗ khó khăn, bàn tay của Mẹ nâng đỡ. Nhành dương liễu và bình cam lồ không bao giờ vơi, cũng không bao giờ có thể thay đổi tính quyền năng và sức năng lực của Mẹ đối với các cấp bậc thế giới. Các con không còn phải tiếc một thứ gì, mà chỉ tiếc mình làm không được thì mình phải thua thiệt về mặt thăng hoa kết tinh chân tính. Chỉ có tiếc mình làm không được mà lại bị suy thoái, sa đọa, thua sút về tâm đức trí huệ và tính quang minh đối với các bậc Thánh hiền. Chỉ có mình tiếc đi những thứ mà không đáng tiếc. Vật chất vô nghĩa mà lại tiếc ư, và vật chất vô nghĩa mà lại thèm khát ư? Nếu vật chất có nghĩa thì chúng đã đem phụng sự cho nhân loại lâu rồi. Nếu vật chất có chính nghĩa thì chúng cũng không tiếc thân mạng của chúng, vì thân mạng của chúng sẽ không tồn tại. Thời gian qua như thoi đưa, thân xác đã già rồi, bệnh tật lại cưu mang nặng nề hơn, tất cả các nghiệp dĩ trùng trùng, trói con trong trần thế. Có thứ gì để tiếc, và tiếc để làm chi.
Suốt 40 năm trường kỳ giáo hóa, ngày và đêm không tính thời gian trong mật ký. Đối với thời gian và không gian vẫn là giáo lý. Đến với con bằng diệu lý, bằng vô tận ý. Đến với con bằng trái tim bất diệt của ánh sáng quang minh, pháp thân của Mẹ hằng hữu vô cùng. Đó là những điều Mẹ muốn cho các con những năm tròn đầy hạnh phúc. Và hạnh phúc của sức mạnh Công luật Bia Sơn. Công luật Bia Sơn là Công luật của sức mạnh phi công và kỳ tích lịch sử tri kiến nhân loại. Là một trong cơ kỳ xuất để biểu trưng cho sức mạnh về giao thừa của hai đầu mối Nam và Bắc. Và cơ khảm phương thụ ngọc mở ra. Đó là chính thống quyết về sự nghiệp Công luật hiển vinh mà toàn thể các con đang phụng sự.
Phụng sự cho ai? Phụng sự cho nhân loại là lớn nhất, rồi đến phụng sự cho gia đình, vợ chồng con cái, anh em quyến tộc. Là những phụng sự chân chính và không thể thay đổi sự phụng sự ấy. Và Mẹ chưa bao giờ kêu gọi các con hãy phụng sự cho Ta và Ta không cần một phụng sự nào hết cả, mà chỉ khẩn thiết sự phụng sự cho nhân loại. Là sự phụng sự đích thực của Như Lai đã có. Đó là tiếng sấm cú mạnh mẽ, là sức mạnh của tiếng nói thiêng liêng về sự phụng sự của những người thống khổ và được phụng sự cho thống khổ. Chính pháp đó lừng lẫy trong uy linh của Bạch Y Đại Sĩ và trùng trùng của hàng Bồ Tát Bạch Y Đại Sĩ. Và Bạch Y Đại Sĩ đã ngang nhiên trong sức mạnh của sự nghiệp cứu thế vô điều kiện đối với nhân loại.
Hôm nay ta không còn một lời nào để nói thêm nữa. Mà nói một cách đầy đủ cho toàn thể các con trong mùa xuân mới, một trong mùa xuân ít được an vui.
Mẹ thăng.
23/03/ TÂN MÃO
Tôi, Ngọc Nữ Đát Linh Hoa Sa Thay!
Ông Ngọc Đảnh đại hóa ứng thân Phật, bà Ngọc nữ Hồng Thúy Vinh, Ông Chơn Công Bảo Pháp, Chơn Lân Long Đình. Trên Ngọc thiên Đức Bạch Y Đại Sĩ truyền nhiệm……
Đức Bạch Y Đại Sĩ quảng đại linh cảm chứng minh đại tộc thuộc Chuyển Luân Pháp Bảo đang trụ lập tại thánh địa Bia Sơn, được vững chãi trên con đường đại hóa. Công cuộc tổng tinh lọc được Đức Bạch Y Đại Sĩ phán quyết. Đó là một sự trắc ẩn đến, của một thời kỳ chuyển giao trong cơ đào tầm xuất du.
Ông Chơn Công Bảo Pháp đã được Đức Bạch Y Đại Sĩ phán quyết đấu trí trong cơ cuối cùng. Và các ánh sáng Cửu Kinh Minh Triết có thể lọt thủng đến khắp cùng và đến chỗ cao nhất của Cộng Điền, thì ánh sáng ấy cũng trở thành một sự công quyết kỳ diệu. Hoặc nghiên cứu về trắc ẩn của sự nghiệp Kim Ngưu trên con sông Đà Thủy, gọi “Đà Giang sinh Thánh – Bất chiến tự nhiên thành”.
Sự nghiệp phá điền của Tinh Bản Kim Ngưu không bao giờ thay đổi, thì sự công chứng sẽ có từng giai đoạn và giai đoạn chuyển tiếp ở trong sự tận cùng cho đến ngày vinh hiển.
Chơn Duệ Kim Thiền, sự tham vọng của những thứ không thực tướng, vì không thể nhập được thực tướng, còn kẹt ở giả tướng mà thấy mọi áp lực không có quyền thực và sức mạnh để cứu chữa sự nghiệp đối với từ phu, đem lòng lo âu đối với các lực hiện tài hoặc pháp tài, phát sinh mọi ý niệm đều bị thất bại, không đạt được ý đồ cao nhất của giá trị thành đạt mà Kim Thiền muốn. Những thứ muốn không chính nghĩa đã bộc lộ sự phát dậy các pháp nghịch biến và không có đức của sự cứu chữa. Đó là sức ép tổng thể, để nhìn nhận tính trắc ẩn, cũng thể hiện tính tổng tinh lọc của toàn thể Hồng Ân đối với các bậc quyền thừa ở tại Thạch Bia Sơn.
Tôi mong rằng ông Chơn Công Bảo Pháp hãy thấy sự nghiệp luôn thống nhất, kinh tế được rành rành, cũng là sự đấu trí của hai chiều, hoặc có thể đạt nhiều chiều, theo sự quyết định trong giai đoạn và thời gian cho đến những thời kỳ phong thánh.
Trong sự trắc ẩn của toàn thể Hồng Ân, đó là sự thách thức mà Đức Bạch Y đã chọn lựa. Để thách thức những người con, trong đó để thể hiện thứ lớp, để lập hàng lớp chính vị đối với những bậc đi tiên phong cho sự nghiệp, đi đến các bậc tiền hiền, hoặc các bậc tiền khai cũng là thể hiện của giá trị biểu tượng. Không được khiếp sợ, khủng hoảng mà mất đi tính định hướng của sự nghiệp Công Luật, mà các bậc chân giả đã được ngộ nhập sâu trong đại nghiệp công chính của đức Quan Thế Âm đã duyệt.
Có thể cơ đào tầm sẽ hình thành. Ngọc Đảnh chuyển hướng về Nam cũng không có gì là lạ. Vì từ phu cũng đã về Nam, và về Nam để có những cơ tinh lọc, hoặc về Nam để có những cơ chuyển hóa và hình thành các cơ lợi lớn.
Sự phán quyết của Đức Bạch Y Đại Sĩ đối với toàn thể dòng Chơn: Bất luận một dòng Chơn nào chưa thành tựu chính vị ở trong các quả vị nhất định, thì sự biến động của tổng lực không khác nào như biển gào sóng dậy, có thể đập vào bờ và tạo sự va đập lớn nhất đối với đại chúng.
Tôi mong rằng khi mà Đức Bạch Y Đại Sĩ chuẩn y chính vị, dần sẽ ổn định và thủ nhập những giá trị toán xuất và dựa trên những cơ sở tương tác có thể thực hiện được. Và Đức Thiên Long Bát Bộ Hộ Pháp tổng trì Công Luật chuyển luân, sẽ chịu trách nhiệm bảo trì và cũng có thể có những biện pháp mạnh. Tùy theo mức độ quyền biến mà chư vị phải thực hiện cho đúng trong hệ thống chính thống của Công Luật, nhằm để giữ vững Hồng Ân và đồng thời lấy lại những thế và lực nguy hiểm. Đó là một sự ổn định.
Hôm nay và ngày sau là những thách thức của những ngày cuối cùng, của những năm tháng cuối cùng. Hôm nay và ngày sau là giá trị mà toàn thể dòng Chơn phải quyết định. Có được sự tin qua ánh sáng của đức Tổng Trì và ánh sáng của chư đại Bồ Tát và ánh sáng trung tâm của đức Bạch Y, sẽ khiến theo dòng đạt hồng (hồng quang thống điển), để soi chiếu cho tất cả những dòng Chơn có được những trí huệ lớn, để thực hiện những công trình khai hóa và đại hóa.
Với những thách thức tạm gọi là khủng bố, nhưng sự khủng bố nào cũng sẽ tan biến sau sức mạnh của chính lực thống nhất và kết tập mạnh mẽ nhất của đại chúng. Để có một sức mạnh đối chiếu với ánh sáng trong hệ thống Cửu Kinh Minh Triết, liền được công chứng theo mọi thời gian của sự bí mật, hay là cách giải quyết công trình thì cũng là định luật không thể thay đổi .
Tất cả sự hiểu biết hôm nay không thể là của quá khứ, những năm tháng về lao mộ của Công Luật, chu kỳ và sự khốc liệt của con đường đại nạn mà Ngọc Đảnh đã đi qua. Từ phu phải chịu lấy những thống khổ ấy, thì cũng đủ nên những giá trị kinh sử, khắp thảy của một đại thể trong lịch sử chính vị và sự nghiệp cứu thế.
Tôi cầu chúc cho Ngọc Đảnh và đại tộc Chuyển Luân Pháp Bảo, cầu chúc cho bào tộc được hợp nhất về chính khí để vững chắc trên con đường thánh ý và hợp nhất trên hồng quang thống điển, để đủ lực trình bày và chuyển hóa, tập hợp sức mạnh trong chính pháp và chính khí đó để được phi vượt trên mọi giá trị mà tất cả đại tộc thuộc Chuyển Luân Pháp Bảo đã có và toàn thể Công Luật dòng Chơn đã có, toàn thể bào tộc tứ chúng đã có. Trong đó hàng Chơn và Diệu ni phải kết tụ một sức mạnh không thể phân chia, mà luôn luôn ở trong tâm trạng yên ổn, định tỉnh không thể rối loạn và gây tất cả sự bất ổn cho chính mình.
Cầu chúc đức Từ Phu và mong tất cả các vị tâm huyết!
24/ 4/ Tân mão 2011
Mẹ Đại Sư Bà
CLDL, CLDL, CLDL. Ta Đại Sư Bà Tiên Linh Mẫu Bồ Tát giáng phàm cứu thế. Mẹ mừng tất cả chúng con! Mẹ mừng các bậc quyền thừa dòng Chơn kiền cốt.
Mẹ gởi thông điệp đến cho toàn thể tộc thuộc Chuyển luân pháp bảo. Mẹ gởi thông điệp đến cho toàn thể các bậc thần sĩ, nhân sĩ trí thức. Mẹ gửi thông điệp đến khắp cùng các hệ thống pháp giới trong toàn khắp các châu lục. Thông điệp này là thông điệp quyết định về hệ thống công vận, luật vận của tổng thể, mà 10 phương Như Lai cùng hệ thống Trung tâm phán quyết. Phán quyết về tổng tinh lọc khắp cùng cả thế giới hành tinh. Phán quyết về tổng tinh lọc của các hệ thống cơ giáo trong các thời kỳ, cho đến thời kỳ đại biến cố khắp cả châu lục.
Dấu ấn Âm dương bào tạng là dấu ấn của phá hoang lập nguyên đi đến đại hóa toàn cầu, là dấu ấn vô lệch của sự nghiệp tổng thể, mà 10 phương Như Lai – Thống hóa – Vạn năng mượn hình chữ S làm chỗ vạn đại. Dấu ấn của Âm dương bào tạng là dấu ấn bí tích của đại sự nhân duyên mà đức Từ phụ đã thụ ký: “Ngưu quốc sắc Lữ thành đạt”. Dấu ấn này không thể nói trước hoặc sau để có sự kết thúc của dấu ấn này đối với sức mạnh của một nghìn năm chính pháp. Dấu ấn của 5 đời Thánh. Dấu ấn của đại thể chuyển luân pháp bảo ở các vùng miền trong hệ thống của cửu trù Công luật. Dấu ấn không thể nói giả hoặc thực. Dấu ấn không thể phân biệt về lập trình của hình thể và sắc thể, mà dấu ấn là bí tích của thực tướng đối với Công luật mà 10 phương Như Lai đã thiết lập. Dẫu cho Ngọc Đảnh có thối thác khước từ, thì dấu ấn ấy không thuộc về của Ngọc Đảnh mà thuộc về ấn chứng, lập trình của hệ thống Thống hóa vượt trên toán học, khoa học, hóa học, vật lý học, không gian học, thiên văn học và tất cả mọi sự nghiệp học trong thế gian này. Dấu ấn ấy là bí tích, thực tướng, là sức mạnh của sự biểu thị hiện hữu trong 1.000 năm, giải trình của 500 năm và sức mạnh của dấu ấn ấy vẫn được thông suốt trong các đời Thánh quá khứ, hiện tại và vị lai.
Lập trình của hình hài xác thịt đối với Ngọc Đảnh rất giới hạn; Và thời gian lâm diệt cho đến ngày hóa thân. Đó là những qui trình chuyển động để hình thành các hệ thống lập vận. Còn dấu ấn bí tích mà 10 phương đã thiết lập như một thông điệp không giới hạn đối với sự nghiệp Công luật mà ta đã phán quyết: “Đông Nam Á túc cầu Kim Ngưu tượng, là biểu tượng dấu hiệu của Kim Ngưu, của sự nghiệp phá hoang lập nguyên, của Công luật đại hóa hành tinh”. Không phải trong khuôn vực giới hạn mà các con nghĩ về việc vua chúa bình thường, đối với các giới tham vọng và mong mõi đối với ngai vàng và quyền lực, đối với danh sắc và bá đạo, đối với những thứ vô nghĩa mà các con cho đó là có nghĩa, thì đối với Công luật và sự nghiệp đại hóa của 10 phương sẽ không trở thành thực tướng.
Nếu ta lập trình dấu ấn Kim Ngưu Phá Điền để làm Vua thì không có nghĩa gì đối với các dân tộc trên toàn cầu này. Nếu ta lập giáo trình dấu ấn để thực thi một công cuộc cách mạng ở giới hạn về quốc gia, thì giá trị kho tàng Cửu Kinh minh triết của ta sẽ không khắp cùng cả nhân loại. Dấu ấn ấy không thuộc về thực tướng và giá trị sự nghiệp bí tích của Công luật chuyển luân pháp bảo rất giới hạn và có thể nói là 5 năm, 10 năm, 20 năm , một thế kỷ, đã chấm dứt hết tất cả những giá trị về hệ thống Cửu Kinh minh triết đối với 10 phương lập thành. Không phải như thế! Không phải như thế! Mà mẹ đã thương xót các con về Công luật chuyển luân pháp vương, đối với sự nghiệp hóa thân của Ngọc Đảnh lấy Phật làm chính, lấy Vương làm phụ. Vương không phải là cương lĩnh của sức mạnh đại hóa , là sự cứu tinh nhất thống thiết đối với sự nghiệp 10 phương Như Lai. Nên thụ ký Ngưu Quốc Sắc, không có nghĩa là thành tựu trên ngôi vua, mà thành tựu trong sự nghiệp phá hoang lập nguyên.
Như vậy những ông Chơn quyền thừa có biết được điều này không? Nếu biết điều này thì đêm giao thừa Mẹ đã dạy với con như thế nào. Mẹ đã dạy những bản ngã vô lý, những bất chính ý về sự nghiệp Công luật đối với sự hướng ngoại về bá quyền danh vọng và những thứ bá đạo mà các con còn giữ lấy trong ý thức để được quyền lợi cá nhân, và giành hội đồng, thì đâu còn chính pháp nữa. Buộc phải tinh lọc, tinh lọc để rút hết tất cả những tinh hoa kỳ diệu nhất, vượt trên đời thường mới có thể quyền thừa sự nghiệp Công luật mà không có danh vọng trong Công luật, chỉ còn là chính vị – chính luật thì chúng con mới cứu độ được chúng sinh chớ.
Mẹ có bỏ vào đây nhiều hơn những phi Chơn và thực sự dòng Chơn chúng trở thành phi Chơn thì cũng rất có nghĩa lý đối với Công luật chuyển luân pháp bảo, chứ không phải là vô lý đâu, vì có chúng mới tác khí thành ngọc, vì có chúng mới tạo thành những biến cố ngoạn mục để thực hiện những công trình phi vượt của đại tộc thuộc Chuyển luân pháp bảo trên sứ mạng thiêng liêng đó. Nếu ta bỏ thêm những dòng Chơn phi Chơn nữa, thì vẫn là giá trị bí tích của sức mạnh đối với công cuộc phá hoang lập nguyên mà thôi!
Giả như Ngọc Đảnh có biến tích về giá trị sức mạnh của sự nghiệp Công luật thì sự nghiệp Công luật 10 phương cũng không thể thay đổi, điều này các con phải hiểu một cách cội rễ, nguồn gốc và thực tướng của sự nghiệp Công luật, vượt trên mọi thánh thể để hiểu biết về sự nghiệp Công luật này. Các con không thể nhìn nhận ở một góc độ, một chiều hướng khác biệt mà thấy được Công luật này. Nên sự khước từ của Ngọc Đảnh trở thành vô nghĩa. Những khước từ về con đường lao mộ, những khước từ về con đường xạ tiển, những khước từ về con đường giang hồ, những khước từ về con đường thành lập, thì Ngọc Đảnh không trở thành đích thực của sức mạnh đối với ta và ta là quyền năng tối thượng đối với sức mạnh đó. Ta có thể khiến Ngọc Đảnh về là về. Ta có thể khiến Ngọc Đảnh đi là đi. Và ta có thể khiến Ngọc Đảnh thực hiện những công trình cho ta. Và ta khiến Ngọc Đảnh làm những việc khác biệt để trở nên những bài toán đích thực của giá trị sự nghiệp mà ta đã tinh chọn.
Nếu các con phi vượt cùng Cha ở quá sức, và trọng lực đè nén trên sức nặng ấy, thì sự phi vượt đó là biến động, là trở thành khủng bố, trở thành điên đảo, trở thành những sức bức phá đày ải cho sự thống khổ của chính con và có thể làm lây lang cho bào tộc tứ chúng. Nhưng xét cho cùng thì tất cả mọi giá trị đều có những giá trị nhất định để đổi những giá trị và thành những hệ số qui ước trong sức mạnh của hệ thống chuyển luân trong hệ số qui kết mà toàn thể dòng Chơn chưa làm ra bài toán này.
Việc của Ngọc Đảnh đổi tên Trần Công hoàn toàn Ngọc Đảnh không biết, nếu Ngọc Đảnh biết đổi tên Trần Công là những ý nghĩa ở trong hệ thống của bộ sấm thái ất, thì giá trị của Trần Công trở thành vô lý. Và không có lý trong qui túc của giá trị thiên công – dịch hóa pháp hóa và thống nhất danh sắc trong hệ thống kỳ công của sức mạnh này, đối với Trần Công nãi thị Phúc Tâm, thì Tâm cùng Trần Công cũng có nghĩa đã thống nhất. Như vậy mọi ý đồ của Ngọc Đảnh không có về Trần Công. Mọi ý đồ của tên mà cha mẹ đã đặt ra, thì chính Ngọc Đảnh là không có ý đồ và tư tưởng của giá trị “ Tự Tâm dục thức thánh nhân diện, thủ túc chánh vương tam lưỡng tự. Lưỡng biên bàn ngạt tì nhất khối”.
Sự biến thiên của toàn bộ hệ thống, mà hệ thống biến thiên thì có thể tạo ra những điều hư ảo, giả dối, ngu dốt và tội ác. Tất cả những thứ đó đều có thể biến thành rác, và cuối cùng rác cũng là rác và không có gì thay đổi nó. Chính nó hoàn toàn ở trên qui luật chuyển động và hình thành của sự tổng lọc, thì coi như chúng là hoàn toàn tiêu diệt.
Tinh lọc là lấy tất cả những thứ quặng cấu, những chất độc tố trong cơ thể của con người ra khỏi con người và con người mới có thể mạnh khỏe được, đó là qui luật. Chính sự mạnh khỏe của con người là nhờ tuần hoàn hóa tinh lọc và đào thải tất cả những giá trị quặng cấu ra khỏi đời sống của cơ thể. Cơ thể của Hồng Ân được lành mạnh là nhờ sự tinh lọc và đầy tròn tất cả tổng thể tinh hoa đó, mà vượt trên cả thời gian và không gian để quyết định cho thời gian và không gian trong sự nghiệp cứu tinh. Đó là mục đích chính của Công luật đại hóa.
Ta đã nói rồi, đối với tin hay không tin, đối với 10 phương không có giá trị, đối với Mẹ không có giá trị. Còn nếu đối với Ngọc Đảnh thấy còn dính mắc trong các hình tướng thì các con có thấy giá trị hay không giá trị đó là theo con, còn đối với ta là không có giá trị. Vì sao? Vì ở tột cùng giá trị chân tính ánh sáng không có những thứ đó, vì nếu có những thứ đó rồi hoàn toàn bị biến đổi và chịu những luật sinh diệt tương tục vô tận mà không có ngày chấm dứt đối với pháp thân của Như Lai, vì vậy không có giá trị.
Ở đây sự nghiệp Công luật là cầu chính vị hơn cầu danh vị, cầu sự giải thoát hoàn toàn trong tam giới, hơn là cầu địa vị ở hạ giới. Nếu những thứ địa vị ấy còn ở trong con, chỉ là những sự trù hảm và khốc khổ, đối với việc sinh tử mà chưa bao giờ giải quyết được thì đối với sự nghiệp đại hóa coi đó vẫn còn là hóa, chớ chưa chấm dứt mọi sự hóa. Như vậy các con hãy tự chọn một con đường để quyết định sự nghiệp Công luật cho có tính chất thực tướng và quyền biến thực tướng đó vào đời sống của hiện tại.
Nếu Ngọc Đảnh có đi thì pháp thân của Ngọc Đảnh còn nguyên đó. Nếu Ngọc Đảnh có về thì Cửu kinh minh triết của Ngọc Đảnh cũng hiện thị với ánh sáng không biên giới. Thì sự nghiệp của Chư Phật đã thống nhất chỗ này. Chớ không phải thống nhất là ngày mai con làm vua, ngày mai con hết làm vua. Ngày mai con làm vua và sau đó các con mất ngôi vua, điều đó đối với hội đồng Công luật thượng hoằng không quan trọng.
Việc Ngọc Đảnh có làm vua hoặc không làm vua là sự biến đổi thị hiệu trong giá trị ứng sinh và lập trình trong hóa sinh, để thể hiện cái mượn thật sự trọn vẹn của sự nghiệp hóa thân. Có những lúc mượn cái này mà không mượn cái khác, có những lúc mượn cái kia mà không mượn cái nọ. Đâu phải thứ gì cũng mượn, thứ gì cũng làm được đối với thế giới nhị nguyên vô cùng mâu thuẫn này.
Các con tin Mẹ hay không tin Mẹ điều đó không quan trọng. Vì sao? Vì Mẹ là ánh sáng, Mẹ lâm quang không phải lâm quang cho Ngọc Đảnh, mà lâm quang cho toàn thể con cái có nhân duyên đều được hứng lấy hồng quang ánh sáng tùy theo mức độ nhiệm trình của Công luật hóa thân mà có sự xúc tác ánh sáng ấy lớn hoặc nhỏ. Đâu có thể giả hoặc thực đối với quần thể Hồng quang và Thống điển của 10 phương Như Lai đã cho chúng con khắp cùng như vậy.
Việc Ngọc Đảnh là đặc thù trong giá trị độc di hồn là nhằm để vinh tôn sự nghiệp phát Kinh và hóa Kinh, để nói sự đỉnh chiếu của quang minh đối với sự nghiệp Công luật mà Mẹ đã mượn lấy. Cũng như Ngọc Đảnh mượn lấy thì những thứ mượn ấy đều nhằm vào mục đích cho con đường và mục đích đến cuối cùng của nó là con đường không còn đau khổ nữa, đó là mục đích chính của ta! Nếu biết như vậy thì mọi tham muốn phải chấm dứt, mà tham muốn được chấm dứt thì giá trị thượng quan Công luật đã thành đạt. Mọi sự tham muốn về sắc danh địa vị đã chấm dứt, thì hiện thị ánh sáng của chính vị lố dạng ở trong bí tích Công luật 10 phương đã hóa thân trong nhiều kiếp và không tính hết số kiếp đó.
Các con có hiểu điều này không? Các con hiểu là được Mẹ nâng đỡ thương yêu và dìu dắt từ những lúc các con chối bỏ cho đến các con không còn chối bỏ nữa. Và các con là những người đã đạt được chỗ không chối bỏ, thì những người chưa đạt được cũng có quyền chối bỏ và chối bỏ theo mức độ bình an hoặc là rối loạn. Chối bỏ theo bình an thì chối bỏ theo cầu an. Chối bỏ theo rối loạn là chối bỏ với quỉ quyệt đời sống của ý thức, về tranh chấp quyền lợi của giá trị vật chất và chính những công suất đổi lấy vật chất ấy đã trở thành vô nghĩa đối với tâm linh và ánh sáng. Và chúng không còn tâm linh ánh sáng thì đồng nghĩa chúng là bóng tối. Cái bóng tối ấy không thể khiếp sợ, mà bóng tối ấy là giá trị tri kiến cho giá trị ánh sáng. Như vậy ánh sáng sẽ đến, bóng tối sẽ đi, sẽ chấm dứt. Nhất thiết trí ánh sáng quang minh của cự nhật đại quang khi mọc lên, vận hành của hành tinh không còn che khuất, thì ánh sáng sẽ chiếu rọi vô cùng. Đó là tính định luật mà không thể thay đổi.
Hôm nay Ngọc Đảnh ở hay đi là giá trị cơ lý lập thành của Công luật đối với việc đào tầm, thì hẳn nhiên sẽ đào tầm rồi. Vì Mẹ nói rằng : Hể nơi nào có ngọc, nơi nào có vàng, có châu báu là nơi đó có người đi tìm. Chuyện bình thường là vậy! Nhưng khéo giữ ngọc, bảo ngọc và giấu ngọc là chuyện đương nhiên của các bậc quyền thừa. Đối với bậc trung chính và nhận thực được giá trị Âm dương bào tạng một cách đích thực thì việc giấu ngọc là việc trách nhiệm của các con. Việc ở đây hoặc là đi Nam cũng là trong quỹ đạo chuyển hóa để lánh né các tiến xạ về bất tương ưng, hoặc các tiến xạ về tương ưng. Thì tiến xạ nào cũng có giá trị, nhất là giá trị của mọi thời kỳ. Nếu tiến xạ của bất tương ưng thì các con giấu còn kỷ nhiều hơn; còn tiến xạ của tương ưng, khi Cộng phủ chưa chấm dứt thì tiến xạ này các con phải ngăn lại, để gìn giữ giá trị ngọc một cách triệt để . Khi mà cự nhật đại quang đã lố chân trời, nghĩa là “Kê minh thụ ngọc thiên khuynh bắc, Ngưu xuất lam điền nhật chính đông” thì còn gì để nói nữa và không còn nói nữa. Tất cả mọi nói đúng sai, còn mất, có không, không có giá trị đối với đích thực của sự nghiệp đại hóa, mà Âm dương bào tạng là biểu thị thống chiếu ánh sáng của 10 phương hiện thị trong đó. Vì Cửu Kinh là đích thực của Công luật pháp thân, vì có pháp thân mới có Cửu Kinh. Cửu Kinh và pháp thân là thống nhất một định chiếu, và không thể tách làm hai. Nên Cửu Kinh là thể hiện bí tích pháp thân và pháp thân là giá trị toàn lập Công luật đại hóa, đối với ánh sáng Kim Ngưu không hư dối là chỗ này.
Đứng trên thiên văn học thì hệ thống Kim Ngưu có thiên văn học. Đứng trên hệ thống địa lý học thì hệ thống Kim Ngưu có địa lý học. Đứng trên hệ thống của lý học và ánh chiếu hệ thống lý học Cửu Kinh trong hệ thống toàn Kinh, thì Kim Ngưu có vị trí thống nhất trong hệ thống Cửu Kinh và toàn Kinh. Nếu đứng trên tinh thần của toán học thì Kim Ngưu có giá trị toán học. Nếu đứng trên tinh thần khoa học thì Kim Ngưu có tinh thần khoa học. Nếu đứng trên tinh thần của hóa học thì Kim Ngưu vẫn có tinh thần hóa học. Như vậy các sự nghiệp học trên mặt bằng của thế giới nhị nguyên đối với Tinh bản Kim Ngưu đều có cả. Như vậy thiên văn học và địa lý học, khắp cùng những giá trị học ấy, cho đến Thái ất thần kinh học. Tức là thiên cơ thẩm định giá trị bí tích của sự nghiệp học, thì đã được trình bày một cách rõ ràng, không thể thoát khai ngoài địa linh nhân kiệt; biểu tượng của Kim Ngưu không thể thoát khai con sông Đà Thủy ứng bảo giang, nghĩa là con sông Đà – núi Nhạn là đà thủy ứng bảo giang; và không thoát khai giá trị của Trần Công nãi thị Phúc Tâm trong hệ thống Đà giang phúc địa giáng sinh. Không thể thoát khai trong giá trị tự chiếu ánh sáng quang minh của Tâm Linh và dục thức Thánh nhân diện, thì Tâm Linh cũng đã có trong cả đồ thư quỹ tích và sức mạnh của bí tích đối với hệ thống thái ất thần kinh, mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã trình bày trong bộ sấm này.
Mọi bệnh trạng của Ngọc Đảnh là bệnh trạng của tri kiến, các con đừng nhầm lẫn giá trị bệnh trạng của Ngọc Đảnh là bệnh trạng của sự hủy diệt, hoàn toàn điều đó không có lý. Vì Ngọc Đảnh đến thế gian tất nhiên phải có bệnh. Như Từ phụ của toàn thể đại thể có bệnh để tri kiến giá trị bệnh và thể hiện bí tích của Kinh điển giá trị bệnh, hoàn toàn bệnh ấy có đích thực trong giá trị hóa thân.
Sự cao trù của Công luật đã thẩm định toàn thể đại tộc thuộc Chuyển luân pháp bảo trong giai đoạn có thể nói là gần kết thúc. Ta rất khen mừng cho giá trị Đại tộc thuộc Chuyển luân pháp bảo đã có tâm đức và sức mạnh ấy. Nhưng thực sự bài toán này Mẹ đã giải mã đêm giao thừa 2011. Mẹ giải mã một cách thấu suốt về giá trị trắc ẩn đối với sự chối bỏ Tinh bản Kim Ngưu phá điền, hoặc chối bỏ hệ thống Cửu Kinh minh triết, hoặc chối bỏ cái thời gian không gian về ứng hóa pháp thân đối với việc kết tinh về sự nghiệp Công luật đại hóa với thời gian hơn 40 năm. Thì đối với thời gian này là thời gian đứng về đại thọ trì trong Công luật bảo thọ, thì thời gian này còn quá non trẻ đối với hệ thống ngũ Thánh và đối với hệ thống 500 năm trong sự nghiệp trường lưu ánh sáng của Cửu Kinh minh triết, mà Tinh bản Kim Ngưu là dấu ấn phổ trì.
Nếu Bồ Lai Kinh không có ở Kim Ngưu, thì Bồ Lai Kinh ở thời kỳ Long đế, hoặc là các pháp thọ trì Long đế, thì không có nghĩa lý gì. Vì các pháp thọ trì Long đế là không có đế thọ trì của sự nghiệp Kim Ngưu, thì các đế thọ trì ấy thọ trì ở đâu? Nên quả quyết trong sức mạnh Kim Ngưu Phá Điền là tổ phụ, cũng như Bồ Lai Kinh tổ phụ là Tinh bản Kim Ngưu. Đó là sự ấn quyết bất di dịch đối với các bậc quyền thừa trong sức mạnh hóa âm dương bào tạng, và âm dương bào tạng là vượt trên mọi giá trị của phép lạ, để chứng tích một phép lạ kỳ diệu. Và sức mạnh của Tam hợp chiếu trong thân thể Ngọc Đảnh, và thành lập Hán Vương tự trên lòng bàn tay, cũng như tất cả mọi đích thực về Bia Sơn, về Bảo Sơn, về Tu Di La Bảo, về con đường chuyển thuyền, thì sấm nổ hoàn toàn trở thành bí tích và sức mạnh thực tướng của nó.
Hôm nay tất cả những giá trị của các người con: Chơn Thăng Ấn Chuyển, Chơn Quốc Chính Thống, Chơn Ngọc Biện Hộ, Chơn Công Bảo Pháp, Chơn Phát Đạo Quang, tất cả các con có mặt ở đây, và có thể Mẹ gọi khắp cùng trong Dòng Chơn không bao giờ hết kể cả phi Chơn và Chơn. Hoàng Lam, Hạnh Lam, Tâm Lam, Điềm Lam, Tịnh Lam, Nhung Lam, tất cả các con có mặt ở đây đều là một sự mừng vui cho sự nghiệp Công luật. Các con đã thẩm định giá trị Công luật trong mọi biến cố và các biến cố ấy đã thẩm định lòng dân trong hệ thống Công luật đối với Tinh bản Kim Ngưu Phá Điền. Ai sẽ hân hoan vui mừng đối với Kim Ngưu và sự hoan hô đối với Kim Ngưu. Bí tích ấy sẽ được trình bày trong mặt trạng hành tinh và thế gian giải đối với sức mạnh của tâm huyết bào tộc tứ chúng .
Ai đã nghịch báng Kim Ngưu Phá Điền thì sẽ rõ bộ mặt này và chúng sẽ có đại tòng lâm qui tích và sức mạnh của hệ thống Thiên long Bát bộ sẽ dẫn độ chúng theo con đường tội ác và có thể kết thúc chúng tùy theo mức độ, và không thể biết được đời chúng, cũng như Chơn Văn Tiến Dũng vậy.
Nếu tất cả những pháp trắc ẩn xảy ra, thì hệ thống Thống hóa sẽ đưa Sát cứu tinh vào đời sống. Sát cứu tinh vào đời sống bằng mọi phương tiện. Nên việc chối bỏ Kim Ngưu đâu phải hôm nay, mà chối bỏ Kim Ngưu ở thời đế châu, thời kỳ lục tử nhi hài cho đến các thời kỳ v.v… đều có sự chối bỏ Kim Ngưu. Sự chối bỏ Kim Ngưu, nhưng Kim Ngưu vẫn được tồn tại, thì sự chối bỏ Kim Ngưu ấy trở thành vô nghĩa.
Chối bỏ từ khi lục tử nhi hài cho đến bây giờ về Bia Sơn cũng còn chối bỏ. Việc chối bỏ đó là việc rất bình thường trong đời sống của thế gian, vì thế gian đối với việc hiện hữu của sự biến đổi và biến đổi chính là sự chối bỏ. Có – Không chính là sự chối bỏ. Còn – Mất chính là sự chối bỏ. Thiệt – Giả chính là sự chối bỏ. Và đi đến mọi sự chối bỏ là đi đúng qui trình của hệ thống nhị nguyên.
Còn đối với nhất nguyên thì làm gì có chối bỏ. Nên Ngọc Đảnh còn ngày nào ở trên thế giới nhị nguyên thì Ngọc Đảnh tiếp tục còn bị chối bỏ. Như vậy sự chối bỏ ấy là những nguyên tắc tất yếu của định luật nhị nguyên mà không phải thuộc về nhất nguyên, thì Ngọc Đảnh đâu có lo gì sự chối bỏ, mà Ngọc Đảnh xem sự chối bỏ đó là một tuồng kịch của giá trị hóa trong sự nghiệp đại hóa.
Như vậy hôm nay ta muốn cho các con biết rằng : Việc sấm luật, cơ sấm, cơ vận, cơ qui tích, cơ qui chiếu để mà động phủ giá trị Công luật, thì các con đã hiểu được rất nhiều, vì trải qua thời gian lâu dài thì quá trình kinh nghiệm của các con, cũng như là sự thống nhất của các con rồi đây sẽ có một điểm sáng để các con biết được những điều mà lập cơ giả, hoặc là cơ hóa giả. Tất cả những cơ giả, hóa giả đều trở thành cơ, nên cơ lý của Ngọc Đảnh là cơ lý qui nhất, thì mới có thể có một sự chuyển hóa mạnh mẽ và tạo thành một sự kích lệ đối với con cái trong sự biến động này mà phát tâm. Tất cả những phát tâm, đều phát tâm ngay chỗ biến cố. Và chính chỗ biến cố là chỗ kích thích cho sự phát tâm đối với toàn thể bào tộc và tứ chúng.
Mẹ chúc mừng cho tất cả những dòng Chơn và hàng Diệu Ni đứng vững trên sự nghiệp của Bia Sơn, như sự phán truyền của Mẹ Quán Thế Âm đã đến với đức Ngọc Nữ Đát Linh Hoa Sa Thay. Là Bia Sơn là một nền chiếu ánh sáng quang minh, là sức mạnh mẽ của sự vững chãi trên con đường vạn đại dung thân của Ngọc Đảnh. Vì Bia Sơn đã hoàn toàn phát sấm lệnh rồi và không còn một sấm lệnh nào khác hơn, mà các con hãy cố gắng quyết tâm trên con đường đại hóa.
Mẹ mừng tất cả chúng con!


0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!