NGƯỜI PHẬT TỬ
CẦN BIẾT (NHỮNG ĐIỀU PHI PHẬT PHÁP) TẬP I
Sách này chỉ
kính biếu, khơng bán! Quý phật tử hay bạn đọc cĩ nhu cầu thỉnh sách, xin vui lịng
liên hệ Ban kinh sách của Tu Viện Chơn Như:
ĐT: (066)
389.2911 (Tu Viện Chơn Như)
098.809.4445
(Hà Nội) Web: http://chonnhu.net
Các thơng
tin đính chính cĩ trên trang Web này
Trưởng Lão
THÍCH THÔNG LẠC
NGƯỜI PHẬT TỬ
CẦN BIẾT
TẬP I
NHÀ XUẤT BẢN
TÔN GIÁO
PL: 2556 -
DL: 2012
LỜI NÓI ĐẦU
Tiếp theo
hai tập Cẩm
Nang Tu Phật tập
I và tập II,
chúng tôi sưu tầm
từ 10 tập Đường Về Xứ Phật, Những
Lời Gốc Phật Dạy I, II, III và
Giáo Án Tu Tập Cho Người
Cư Sĩ, Đạo Đức
Làm Người, Mười
Giới Đức Thánh Sa Di...
để hoàn thành
một bộ sách gồm 3 tập, sắp xếp theo đề mục để quí vị
tiện việc theo dõi
và tra cứu sau này.
Chúng tôi đặt tựa đề của bộ sách
này là:
1- Người Phật Tử Cần Biết tập I
(Những
Điều Phi Phật
Pháp).
2- Người Phật
Tử Cần Biết tập II (Những
Kinh Điển
Không Phải Do đức Phật Thuyết).
4
3- Người Phật
Tử Cần Biết tập III (Chánh
Pháp Của Đức
Thế Tôn).
Việc này
có thực hiện
được hay không, cũng còn tùy vào hoàn cảnh, tùy nhân
duyên.
Tập sách Người
Phật Tử Cần Biết - tập 1 (NPTCB -
I) được
phác họa và
trình Trưởng lão Thông Lạc cách đây gần hai năm, nhưng vì nhân duyên
chưa đủ, nên chúng tôi tạm ngưng. Nay chúng tôi có sửa chữa và bổ sung một số
bài trước khi gửi về trình Trưởng Lão lần
này. Dĩ nhiên, tập sách nhỏ này chỉ trích ra một số rất ít các bài mà Trưởng
Lão đã đề cập đến trong 10 tập
ĐVXP. Chúng tôi rất
mong được các huynh
đệ trong các nhóm
tu học Nguyên Thủy cùng tiếp tay với chúng tôi, trích thêm những bài viết
của Trưởng Lão để giúp đỡ các bạn khác.
(* Nay nhóm tu sinh Tu
Viện Chơn Như xin ấn tống
vào Mùa An Cư
2548 này, có bổ sung một số
bài mà Trưởng Lão đã khai thị cho
phật tử Khánh Hòa vào Tu Viện tham vấn Ngài, chúng tôi cũng sắp xếp các đề mục
lại cho phù hợp với nội dung và mục đích của tập
sách để lưu hành
nội bộ, có
gì không phải
xin quý đạo hữu hoan hỷ bỏ qua).
Ước mong tập
sách sẽ giúp phần nào cho các huynh đệ
hiểu rõ hơn về chánh pháp của
5
đức Phật,
để tránh
được những điều
phi Phật pháp, không làm những điều mê tín, cuồng tín, phi
lý, mất công sức, thì giờ,
tiền bạc mà không có lợi ích gì cho đời sống, và hiểu đúng
hơn về con đường tu hành
giải thoát khổ đau,
chấm dứt sanh tử, luân hồi
của đạo Phật.
Tháng 5 năm
2004
Kính ghi
Tu Viện Chơn
Như
CHƯƠNG I:
ĐẠO PHẬT VÀ
GIỚI LUẬT
NGƯỜI PHẬT TỬ
CẦN BIẾT - TẬP 1
TÔN GIÁO VÀ
KHOA HỌC
Hỏi: Kính
thưa Thầy, tại sao các
chùa, các đền, các
đình làng và
các tôn giáo ở mỗi miền
đất nước trên quả địa cầu này, tuy đều phát triển theo đời sống khoa học và vật
chất lên cao so với các thế kỷ trước, số lượng hình thức thờ cúng mọc lên quá
nhiều, số tín đồ
cũng đông đúc
tăng lên... sự cầu xin khấn lạy trời đất quỷ thần hằng năm cũng
vô kể... theo
thế gian mà
nói là “thịnh”... Ấy thế mà tại sao không
xoay chuyển nổi sự vận
hành của thiên
nhiên như: bão lụt,
hạn hán, sâu bọ phá mùa màng, chuột bọ phá phách, thời tiết thất
thường nóng lạnh, không có nhà khoa học nào điều chỉnh
được... bịnh tật ngày càng phát triển bịnh “nan y”. Các nước
khoa học tân tiến
hiện đại phát
triển, cấy được
Gen, nên người còn sống bèn mổ ra lấy lục phủ ngũ tạng thay thế cho người bịnh, v.v...
Kính thưa Thầy,
vì nguyên nhân
gì mà trái đất này chịu nghiệt ngã trong cuộc sống
của loài người đến như thế này ạ? Những
việc làm trên của các nhà khoa học hay sự cầu khấn của
tín đồ các tôn giáo
có tác dụng
hay không có tác dụng
mà kết
quả thảm khốc
cho loài người trên
hành tinh này vậy?
Đáp: Câu hỏi
này có hai phần rõ rệt:
1- Vật chất
khoa học
2- Tâm linh
tôn giáo
8
Trưởng Lão
THÍCH THÔNG LẠC
Khoa học vật chất
có một bước tiến triển khá xa để phục vụ đời sống con người, nhưng
vì khoa học không chịu
nhận thức đạo đức nhân
quả là một đạo luật công bằng và công lý, nên khi phát
minh ra một vật dụng gì để phục vụ con người thì lại quên hành động đạo đức
nhân quả. Do đó, khi áp dụng khoa học vào sản xuất thành phẩm để nâng cao đời
sống của con người
thì thải ra chất độc làm cho môi
trường sống chung của con người bị ô nhiễm. Do môi trường sống chung bị ô nhiễm
nên thời tiết không ôn hòa, khí hậu bất thường, thường xảy
ra thiên tai bão
lụt liên miên
và đủ mọi loại bịnh tật.
Khoa học
mà không có đạo đức
là khoa học giết
người, giết người
một cách kinh khủng,
vì khoa học làm đảo lộn
môi trường sống,
làm đảo lộn tâm
lý con người, biến
con người thành ác thú.
Bởi thế, khoa học mà
không có đạo đức là một
tai họa rất lớn
cho loài người. Điều
này đã xác định qua những thế kỷ
gần đây, khi khoa học phát triển đã diệt con người
bằng mọi cách,
từ bịnh tật, tai nạn
giao thông, đến súng đạn,
bom, bom vi trùng, thuốc
khai hoang, bom nguyên tử, v.v... Bom nguyên tử
đã diệt con người
trong hai thành phố ở Nhật Bản một
cách quá kinh khiếp, và đến giờ này dân
Nhật Bản vẫn còn phải gánh chịu hậu quả chưa dứt của khoa học.
Xưa ông
bà chúng ta
di chuyển bằng
đi bộ, cưỡi voi, cưỡi ngựa, xe
bò, xe ngựa, xe trâu, vì thế tai nạn giao thông không xảy ra, và con người
không mất mạng một cách vô lý. Nhưng thời
đại
9
NGƯỜI PHẬT TỬ
CẦN BIẾT - TẬP 1
ngày nay,
khoa học phát minh xe cộ chạy bằng cơ giới,
tốc độ càng
nhanh thì tai nạn giao
thông càng tăng. Do thế chúng ta nên biết, những sáng tạo khoa học của
loài người để phục vụ cho con người thì con người phải kèm theo trách nhiệm bổn phận đạo đức,
có thế thì sự
sáng tạo của khoa
học là một điều lợi
ích rất lớn
cho loài người. Bằng
ngược lại, nếu
con người thiếu đạo đức mà lo sáng tạo khoa học thì con người đã tự mình tự sát mà không
hề hay biết.
Tóm lại,
khoa học là sự phát minh phục vụ đời sống
của con người rất thực tế,
nhưng đạo đức nhân quả làm người, hành động có trách
nhiệm đạo đức còn thực tế hơn
và lợi
ích hơn khoa học rất nhiều. Nếu
khoa học không có
mà con người có đạo đức thì cuộc
sống cũng được an lành, hạnh phúc hơn, tuy vật chất không nhiều và đời sống thiếu tiện
nghi, nhưng lại
yên ổn và an
vui. Có khoa học mà không có đạo đức thì
tai họa sẽ xảy ra cho con người vô
cùng vô tận, bằng chứng
lũ lụt, thiên tai, động
đất, những bịnh tật thời đại
nan y, v.v... Nếu
có khoa học
mà có cả đạo đức nhân
quả nữa thì đời
sống con người hạnh
phúc biết bao.
Về tôn giáo
thì trên hành tinh này có biết bao nhiêu
tôn giáo, hằng
ngày các tín đồ
trên hành tinh này không
lúc nào mà
không cầu khấn,
và tốn hao cho sự cầu khấn này cũng nhiều. Thế mà tai nạn vẫn đổ lên đầu con người.
Như vậy, tôn
10
Trưởng Lão
THÍCH THÔNG LẠC
giáo chẳng
qua chỉ là lừa đảo
con người mà thôi. Bởi
theo luật nhân
quả, không có một tôn
giáo nào cứu khổ con người được, mà chính hành động đạo đức của con người mới cứu khổ
cho họ được.
Cho
nên, tôn
giáo nào ra đời
mà chỉ dạy cho
con người có đạo đức nhân bản nhân quả là tôn giáo không
lừa đảo, là đem
lại lợi
ích thiết thực cho con người. Còn
ngược lại, dạy cầu khấn ban phước, có Thiên Đàng, Cực Lạc, Niết Bàn, Địa Ngục,
v.v... là sự chỉ dạy phi đạo đức, dối gạt, lừa đảo, phản khoa học, không thực tế,
không logic.
Cho nên hiện
giờ, mới nhìn
vào tôn giáo
và khoa học, thì thấy
chúng dường như
mang hạnh phúc đến cho con người, nhưng
sự thật thì chúng đem tai họa đến lại nhiều hơn. Thế
nên, làm một việc gì đều phải
có đạo đức; đạo đức là hàng đầu
trong cuộc sống của loài người, nếu thiếu đạo đức thì con người phải chịu khổ
đau muôn vàn.
ĐẠO PHẬT VÀ
GIỚI LUẬT
Hỏi: Kính bạch Thầy,
tại sao tu sĩ Phật
giáo hiện giờ không
giữ gìn giới
luật, sống phi giới
luật, sống bẻ vụn giới
luật. Như vậy,
con đường tu của họ sẽ đi
về đâu? Và có ích lợi
gì cho kiếp sống tu hành của họ?
11
NGƯỜI PHẬT TỬ
CẦN BIẾT - TẬP 1
Người tu sĩ
giữ gìn giới luật nghiêm túc, sống đúng Phạm hạnh, thiểu dục tri túc, phòng hộ
các căn đầy đủ, con đường tu của họ sẽ đi về đâu? Và có ích lợi gì cho kiếp sống
của họï cũng như cho nhân loại và đạo pháp?
Cúi mong Thầy chỉ dạy
cho chúng con được rõ.
Đáp: Như Thầy
đã dạy, giới luật là một pháp môn
tu hành của đạo Phật,
chớ không phải
là pháp luật của một quốc gia. Cho nên, các bộ giới
luật do các Tổ biên soạn thành một bộ
pháp luật của Phật giáo, hơn
là một pháp
môn tu tập để
tâm được vô lậu.
Pháp môn Giới
luật cùng với pháp môn Thiền định
và pháp môn
Trí tuệ được gọi
chung có tên là “Tam Vô Lậu Học”.
Tam vô lậu học là ba pháp môn tu tập
không còn lậu hoặc, tức
là ba pháp môn tu tập sẽ chấm dứt
đau khổ của kiếp
người, hay nói cách
khác là pháp
môn làm chủ
sanh, già, bịnh, chết của đạo Phật.
Ba pháp môn
vô lậu này kỳ thật chỉ là một pháp môn duy nhất, nhưng chia làm ba giai đoạn tu tập:
Giới - Định - Tuệ. Trong ba giai
đoạn này, chỉ có giới luật là giai đoạn quan
trọng nhất và tu tập
khó nhất, trên
đường tìm cầu đạo giải thoát theo
đạo Phật.
Bởi thế, người
nào tu hành mà không giữ gìn giới luật, không
tu giới luật,
không sống đúng giới luật, thì có tu suốt đời cũng tu chẳng
tới đâu, chỉ còn tu
danh, tu lợi,
tu tưởng mà
thôi (chẳng bao giờ có giải thoát
thật sự).
12
Trưởng Lão
THÍCH THÔNG LẠC
Nếu không tu
giới luật mà tu thiền định, thì thiền định đó là tà thiền, định tưởng. Nếu
không tu giới luật mà tu trí tuệ, thì trí tuệ đó là tà tuệ, kiến giải
tưởng giải, là trí
tuệ tích
lũy, là nước miếng, nước bọt hí luận của người xưa,
thêm râu, thêm ria, vẽ rắn
thêm chân. Từ xưa đến
giờ, các Tổ chỉ lặp đi, lặp lại lối mòn của nhau, chỉ
dùng từ hiện đại cho lạ tai mà thôi, chớ lối mòn vẫn là lối mòn, không
thể nào lối mòn là đường quang lộ được.
Như trên Thầy
đã dạy, giới luật là pháp môn quan trọng nhất trong Tam Vô Lậu Học. Cho nên,
vì lợi
ích chúng sanh,
vì muốn thoát
ra sự đau khổ của kiếp người, đức Phật đã dạy: “Vì
hạnh phúc, vì lòng
thương tưởng đệ tử, những việc ấy ta đã làm xong, vì lòng thương
tưởng ta đã dạy các ngươi”.
Đây là một bài
kinh mà đức Phật
đã khéo nhắc nhở
cho các vị Tỳ
kheo tu tập giới
luật, vì giới luật rất quan trọng
trên đường cầu đạo giải thoát. Bài kinh “Ước
Nguyện”, trong Trung
Bộ tập 1, trang 79, Phật dạy:
“Này các thầy
Tỳ kheo, hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng
hộ với sự phòng
hộ của giới bổn, đầy đủ oai
nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm
trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và học tập các học giới”.
Đoạn kinh này
là lời dạy
khuyên, nhắc nhở của
đức Phật thấm
thía vô cùng,
một lời khuyên từ
cõi lòng, vì
thương tưởng chúng
sanh đang
13
NGƯỜI PHẬT TỬ
CẦN BIẾT - TẬP 1
sống trong cảnh
khổ mà chẳng biết đường nào ra. Trên thế gian này, chỉ còn có con đường duy nhất
“Giới, Định, Tuệ” để tu tập, thoát ra sự đau khổ của kiếp người. Không thể có
con đường thứ hai nào khác được.
Phật đã biết rất rõ điều này,
vì trên bước đường tầm sư học đạo Ngài đã trải qua sáu năm
gian khổ, nhưng
vẫn không tìm
ra đường giải thoát. Bốn mươi chín ngày dưới cội bồ đề trầm tư và nhập Tứ
Thánh Định, chứng Tam Minh, Ngài đã tự tìm ra chơn pháp; chơn pháp ấy là thầy của Ngài,
dẫn đường Ngài
đi đến đích thoát khỏi sanh, già, bịnh, chết. Chơn
pháp ấy là
gì?
Chơn
pháp ấy
là “Giới, Định, Tuệ”.
Ngài luôn luôn nhắc nhở chúng ta
với lòng tha thiết yêu thương chúng ta
như con một: “Hãy sống đầy đủ
giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống
phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sự
nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và học tập các giới học”.
Thế mà người tu sĩ Phật giáo hiện giờ lại xem thường giới luật, oai nghi chánh
hạnh không có, xem thường trong các lỗi nhỏ
nhặt, phạm giới
không biết xấu hổ, chẳng bao giờ
lấy giới phòng
hộ sáu căn, sống ăn uống
phi thời, nam nữ trai gái kề cận chẳng biết đó là tai họa khổ đau, chẳng biết
đó là con đường sanh tử luân hồi.
Bài kinh Ước
Nguyện, đức Phật
đã xây dựng nó trên nền tảng đạo đức nhân quả. Ngài
không
14
Trưởng Lão
THÍCH THÔNG LẠC
dạy chúng ta
“cầu nguyện” mà dạy chúng ta “ước nguyện”. Muốn ước nguyện được thành tựu sở nguyện
thì phải sống đúng giới
luật. Giới luật là thiện pháp; do nhân thiện pháp thì quả
của thiện pháp là ước nguyện của chúng ta viên mãn. Ví dụ: Một người có bịnh tật,
tai nạn đã xảy đến hoặc tai nạn bịnh tật chưa xảy ra, nhưng ước nguyện bịnh tật
tai nạn sẽ chấm dứt và bịnh tật
tai nạn sẽ không
xảy ra, thì người ấy phải sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống
phòng hộ với sự phòng
hộ của giới bổn, đầy đủ uy
nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn
chánh lãnh thọ
và học tập các học
giới, thì ước nguyện sẽ
thành tựu. Nếu ai
giữ gìn giới luật đúng
như vậy thì tai nạn,
bịnh tật sẽ qua
và không xảy đến. Như vậy, Ngài
đã dạy chúng ta tu tập giải thoát
trên nền đạo đức nhân quả, lấy hành động thiện làm gốc, diệt trừ mọi hành động
ác và lòng ham muốn.
Trong bài
kinh Ước Nguyện, đức Phật dạy ta
ước nguyện: “Mong rằng ta được mọi người thương
mến, yêu quý,
cung kính, và
tôn trọng. Mong rằng
ta được các vật dụng đầy đủ không thiếu hụt. Mong rằng những người
bố thí cúng dường các vật dụng sẽ được quả báo và lợi ích lớn. Mong rằng những
bà con huyết thống với ta, khi bịnh tật tai nạn chết, mệnh chung
với tâm hoan hỷ, an lạc, được quả báo và lợi ích lớn”.
15
NGƯỜI PHẬT TỬ
CẦN BIẾT - TẬP 1
Trên đây là
những ví dụ ước nguyện trong bài kinh, muốn được toại nguyện cho mình cho người thì chỉ tu tập và giữ gìn giới luật
nghiêm túc. Kinh Phật đã dạy như
vậy, thế mà kinh sách Đại thừa lại dạy
cúng tế, cầu khẩn, tụng
kinh, niệm chú, niệm Phật,
cầu an, cầu siêu để được
tai qua nạn khỏi, bịnh tật tiêu
trừ (do chư Phật, Bồ Tát
từ bi gia hộ). Tất cả tu tập của Đại thừa đều cầu tha
lực (tam bảo
gia hộ), cho đến những
ước nguyện cho mình, cho người
cũng đều dựa vào tha lực. Còn ngược lại, kinh sách Nguyên Thủy dạy tự lực. Muốn
lợi mình, lợi người thì người ấy phải tự
mình tận lực sống đúng giới hạnh, nghĩa là phải sống đúng thiện pháp, không được
sống trong ác pháp.
Nói chung,
Phật dạy con người muốn có cuộc sống an
vui, hạnh phúc
thì phải sống có đầy đủ đạo
đức không làm khổ
mình, khổ người,
thì ước nguyện đó sẽ được toại
nguyện. Qua bài
kinh Pháp Môn Căn Bản, ta thấy rõ Phật giáo
không đi dẫm lại lối mòn của các tôn giáo khác, tự mình vạch ra một lối đi độc đáo, tự lực,
chính xác, cụ thể, không mơ hồ, để giải quyết kiếp sống
con người thoát ra cảnh khổ, tạo cuộc sống thế
gian con người thành một Thiên Đàng.
Để chiến
thắng sự ưa thích
dục lạc thế
gian, sự không ưa
thích, sự bất toại nguyện,
và sự khiếp đảm, sợ hãi, Phật dạy:
“Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo có ước nguyện: Mong rằng ta nhiếp phục lạc và bất lạc,
chớ không phải
16
Trưởng Lão
THÍCH THÔNG LẠC
lạc và bất lạc
nhiếp phục ta. Mong
rằng ta sống luôn
luôn nhiếp phục lạc và bất lạc được
khởi lên. Mong
rằng ta nhiếp
phục khiếp đảm và sợ hãi, chớ không phải khiếp đảm và sợ hãi
nhiếp phục ta. Mong
rằng ta sống luôn luôn
nhiếp phục khiếp
đảm và sợ hãi được
khởi lên. Tỳ
kheo ấy phải
thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì nội tâm tịch tĩnh, không
gián đoạn thiền
định (tỉnh thức) thành tựu quán
hạnh (vô lậu) thích sống tại các trụ xứ không tịch (độc cư)”.
Lời dạy trên
đây rất cụ thể cho người tu muốn nhiếp
phục tâm ham muốn và sợ hãi,
thì chỉ có giới luật và bốn pháp
định: định chánh niệm tỉnh giác, định niệm hơi thở (không gián đoạn thiền định) nội
tâm tịch tĩnh (định sáng
suốt) thành tựu quán hạnh (định
vô lậu) và thích sống tại các trụ xứ
không tịch (độc cư).
Trong bài
kinh Ước Nguyện,
đức Phật dạy nhập bốn Thánh định rất rõ ràng và dễ
dàng không có khó khăn. Muốn nhập Bốn Thánh Định này thật
ra không khó
khăn, không có ức chế tâm như các nhà học giả kiến giải dạy, chỉ
cần sống đúng giới
hạnh và tu tập các
pháp Tứ Chánh Cần, Tứ niệm Xứ để
xả tâm cho thật sạch (không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa), thì khi ra lệnh
nhập thiền định nào thì nhập ngay thiền định ấy:
“Này các thầy Tỳ
kheo, nếu Tỳ
kheo có ước nguyện:
Mong rằng, Tỳ
kheo theo ý
17
NGƯỜI PHẬT TỬ
CẦN BIẾT - TẬP 1
muốn, không
khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, ta chứng được bốn thiền thuộc
tăng thượng tâm hiện tại lạc trú, Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật,
kiên trì nội tâm tịch tĩnh
(sáng suốt định) không
gián đoạn thiền
định (thân hành niệm nội ngoại), thành tựu quán hạnh (định
vô lậu), thích sống tại các trụ xứ không tịch (độc cư)”.
Nếu người
nào muốn tu tập thiền định đạo Phật, nhập bốn Thánh định, làm chủ sanh, già, bịnh,
chết, không có khó khăn, chỉ cần thành tựu viên mãn giới luật, tức là sống đúng
giới luật. Xét ra, từ khi đức
Phật nhập diệt đến giờ,
không có ai nhập được bốn Thánh định,
chỉ vì không thành tựu viên mãn giới luật.
Nếu đã có
người tu sĩ nào viên mãn giới luật, sống đầy đủ chánh hạnh, thì ngày nay Phật
pháp đâu có bị ngoại đạo biến thể như thế này. Phật giáo ngày nay đã trở thành
một tôn giáo hỗn tạp, mang đủ thứ pháp môn của ngoại đạo (84 ngàn pháp môn),
mà còn tự
xưng những danh từ ngã mạn cống cao (Đại thừa, Tối Thượng thừa,
v.v...).
Như Phật đã dạy
trong bài kinh Ước Nguyẹân, là phải
có đức hạnh làm người, sống không làm khổ
mình, khổ người
và khổ chúng
sanh. Muốn đem lại sự giải thoát,
an lạc và hạnh phúc
cho nhau trên hành tinh này, thì: “Hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới
bổn, sống phòng hộ sáu căn với sự phòng
hộ của giới bổn, đầy
18
Trưởng Lão
THÍCH THÔNG LẠC
đủ uy nghi
chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và tu
học các học giới thì được toại nguyện, mãn nguyện làm người có đạo đức
đầy đủ”.
Nếu muốn
thành tựu những đức hạnh của bậc Thánh nhân và thực hiện thiền định làm chủ sự
sống chết của
bậc chơn nhân,
thì người đời thường
ưa thích tu thiền
định, nhưng họ
không biết thiền định nào đúng, sai, cứ nghe thiền định là tu
theo, nhắm mắt
tu đùa, tu
không cần suy nghĩ,
phân biệt là
đúng, sai, phải,
trái. Họ đã mất
công sức tu
hành lại còn mất tiền mất của, bỏ
đời sống thế
gian, bỏ vợ, bỏ con, bỏ
cha, bỏ mẹ, bỏ thân bằng quyến
thuộc, v.v... chỉ vì muốn thoát
khỏi mọi sự đau khổ của cuộc đời, để trở thành bậc Thánh nhân. Nhưng họ tu sai
đường, Thánh nhân đâu không thành, giải thoát đâu không thấy, ngẫm lại cuộc đời
mình mà đau lòng, bị các nhà tôn giáo lừa
đảo mà không dám nói ra. Họ tự an ủi mình
là: “Cần phải
tu nhiều kiếp, kiếp này
chưa xong thì kiếp khác tu nữa,
vì đức Phật Thích Ca ngày xưa còn
tu vô lượng kiếp mới thành Phật cơ mà”. Câu nói này là câu an ủi nhất của những
người bị lừa đảo, tu lạc tà
pháp, cố bám víu vào một hy vọng
hão huyền để mà sống, được kinh sách Đại thừa dạy...?
Trong bài
kinh Ước Nguyện, đức Phật dạy: “Tùy
theo ý muốn,
không có khó
khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, ta chứng được bốn thiền,
thuộc tăng thượng
19
NGƯỜI PHẬT TỬ
CẦN BIẾT - TẬP 1
tâm hiện tại lạc
trú”. Như vậy,
thiền định tu tập
đâu có khó
khăn gì, thế
mà người tu thiền
thời nay
lại tu quá
khó khăn, tu
mãi cả hai ba
chục năm, nhưng không thành tựïu. Các Tổ như ngài Đại An 12
năm, Diệu Cao Phong
30 năm, mà chỉ có triệt ngộ những công án mà thôi, còn làm chủ
sanh tử thì chẳng
biết gì, tâm sân hận
thì vẫn còn cao ngút. Giải thoát đâu không thấy, làm chủ sanh, già, bịnh, chết
đâu không thấy, chỉ thấy được mồm mép
bén nhạy đối
đáp như gió thổi
(cơ phong). Còn một số người nữa lại tu vào
các loại
thiền khác, xuất hồn, khí
công, Yoga, Mật tông
luyện bùa, niệm
chú, bắt ấn,
v.v... Các tu sĩ này,
thay vì tu tập giải
thoát, họ lại
tu để làm thầy trị bịnh, trừ tà, ếm
quỷ, hoặc tập luyện dưỡng sinh, tức là thiền định biến thái thành phương pháp
ngừa bịnh.
Thiền định
thời nay biến dần thành phương pháp ngừa bịnh
(dưỡng sinh), chớ
đâu phải là thiền
định làm chủ sự sống
chết như thời đức
Phật. Nhìn sự tu hành của Phật giáo hiện
giờ, chúng ta thấy
thật xót xa! Thiền
định của Phật thì dẹp
qua không tu, mà lại tu thiền của
ngoại đạo, chỉ vì thiền của ngoại đạo không có giới luật nghiêm túc, đời sống
theo dục lạc dễ dàng,
ăn uống ngủ nghỉ phi thời!!!...
Do tu mãi
không kết quả, họ chạy sang tu các pháp môn khác như Tịnh Độ, “vừa tu Thiền vừa
niệm Phật”, như các tổ Vĩnh Minh, Vân Thê, Từ Vân, v.v... Có người chuyển sang
Tịnh Độ hẳn, chuyên ròng niệm Phật, cầu
vãng sanh Cực Lạc,
20
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!