Ấn, kinh Pháp Hoa v.v…Toàn là những loại
kinh tưởng của các Tổ biên soạn viết ra, chứ không phải
Phật thuyết. Những kinh sách này chịu ảnh hưởng tư tưởng của giáo pháp Vệ Đà kinh. Kinh
này
do tưởng giải của các tổ sư Bà La Môn biên soạn
viết. Vì thế mà kinh Nguyên Thuỷ
vạch ra những cái sai để chỉ cho chúng ta biết rõ sự lừa đảo của kinh sách
Đại Thừa và Thiền Đông
Độ.
Làm gì trong mỗi chúng sanh lại có Phật tánh. Chúng
sanh
được sanh ra
là do các duyên hợp thành theo
qui luật
của nhân quả nghiệp lực thiện ác. Cho nên đủ duyên hợp là có, mà hết
duyên thì tan rã không còn có một
vật gì thì làm sao có Phật tánh trong đó
được. Vì vô minh mọi
người
sống
trong ảo tưởng, sống trong ác pháp thọ nhiều đau khổ quá sợ
hãi,
nên nuôi hy
vọng
sống trong tưởng và
tưởng
rằng:
“Tất cả chúng sanh đều có
Phật tánh.” Muốn
cho
mọi
người tin theo nên dựng ra Tánh
thấy, Tánh nghe,
Tánh
biết.
Danh từ Phật tánh đã khiến cho bao nhiêu thế
hệ về sau đều sống trong ảo tưởng, ai cũng cho mình có
Phật tánh.
Nhưng có ai biết chúng sanh được sinh ra từ nhân quả, do các duyên hợp lại như trên đã nói thì làm sao có Phật tánh được. Phải không các bạn? Được sinh ra từ nhân quả là do
vô minh. Vô minh làm sao gọi là tánh giác được? Thật
ra
các Tổ sư Đại Thừa tu tập sai pháp, ức
chế tâm, không niệm khởi rơi vào các định tưởng, mười tám
loại tưởng xuất hiện, trong đó có pháp tưởng. Từ đó mà tưởng ra Phật tánh
còn cho Phật tánh
là tánh giác. Cho nên biên
soạn ra kinh sách như:
Kinh
Thủ Lăng Nghiêm,
kinh
Pháp Hoa, Kinh Kim
Cang Bát Nhã, Kinh Lăng Già v.v... Trong những kinh ấy
dựng lên Phật tánh rồi gán cho Phật thuyết. Đoạn kinh Ba Minh Vacchagota này đã xác định
sự mạo nhận Phật thuyết kinh Thủ Lăng
Nghiêm, để lừa đảo
Phật tử.
Cho nên Phật dạy: Đừng có tin!
Đừng có tin!!! Vậy
mà mọi người vẫn cứ tin, tin một
cách mù quáng, thật là
sai lầm. Phật thường nhắc nhở chúng ta hãy tin những gì là
có
lợi ích cho mình, cho người, và không làm khổ mình,
khổ người thì mới
tin.
Đức
phật
cũng thường nhắc nhở
pháp môn nào có Bát Chánh Đạo mới là pháp môn chân chánh.
Vậy
Phật tánh,
tánh thấy tánh nghe, tánh biết làm sao là chương trình giáo dục đào tạo đạo đức nhân bản -nhân quả sống không
làm khổ mình,
khổ người
được?.
Kính thưa các bạn! Từ bao thế kỷ nay các Tổ đã lừa đảo
với
người tu chưa chứng đạo, chứ người tu
chứng thì
làm sao lừa đảo họ được. Bởi vì người tu chứng
là người đã
có Tứ Thần Túc
và đầy đủ Tam Minh, cho nên thời gian nào họ cũng đều thông suốt, chuyện gì xảy ra trong tương lai
và quá
khứ không còn che dấu họ được, cho nên Phật dạy:
“Ông phải giải thích: “Sa Môn Gotama là bậc có ba minh”
thì
này Vaccha, Ông mới là ngƣời nói về Thế Tôn với điều không thực, mới giải thích về Thế Tôn đúng pháp và tuỳ
pháp, và mới có một đồng pháp hành nào
nói
lời đúng pháp
có
thể lấy cớ để quở trách.
Này Vaccha, khi nào Ta muốn,
Ta sẽ nhớ đến nhiều đời quá khứ cùng với các
nét đại
cƣơng và các chi tiết. Này Vaccha, nếu Ta muốn, với thiên
nhãn
thuần tịnh, siêu nhân Ta
thấy sự sống chết của chúng
sanh, ngƣời hạ liệt, kẻ cao sang, ngƣời đẹp đẽ kẻ thô xấu,
ngƣời may mắn kẻ bất hạnh… đều do hạnh nghiệp của họ.
Này Vaccha, với sự đoạn diệt các lậu hoặc. Ta ngay trong hiện tại, tự mình với thƣợng trí
chứng ngộ, chứng đạt và an
trú,
vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Và với sự giải thích:
“Sa
môn Gotama là bậc có ba minh: Này Vaccha, ngƣời ấy mới là ngƣời nói về Thế Tôn đúng với điều đã
đƣợc
nói, mới không vu khống Thế Tôn với điều không thực, mới giải thích về Thế Tôn đúng pháp và tùy pháp, và
mới không có một vị đồng hành pháp
nào
nói lời đúng pháp có thể lấy cớ để quở trách.” (kinh Trung Bộ tập II trang
310
kinh Ba Minh Vaccha).
Đoạn kinh trên đây
đã xác định rõ ràng: Nói đúng Phật là phải giải thích Tam
Minh mới gọi Phật có Tam minh (Sa
Môn
Gotama là bậc có Tam Minh), chứ không được nói Phật là tánh thấy, tánh biết, tánh nghe, hay là Phật tánh, tánh giác
bậc nhất thiết
trí,
bậc nhất thiết kiến và tri kiến luôn luôn tồn tại liên
tục.
Kính thưa các bạn! Bấy giờ các bạn đã hiểu Phật giáo cái gì đúng và cái gì sai, cái gì của Phật, cái gì không phải của
Phật. Tùy các bạn chọn lấy cho mình một lối đi cho thích hợp, còn riêng chúng tôi khi nói Đại Thừa sai là chúng tôi
đều có căn cứ vào lời Phật dạy, chứ không phải tự
bịa
ra nói Đại Thừa sai, xin các bạn hiểu cho.
Bởi vì trong kinh đã xác
định rõ ràng: ““Khi Ta đi, khi Ta đứng,
khi
Ta ngồi và khi
Ta thức, tri kiến luôn luôn tồn tại,
liên tục”. Thì đây là nói về Ta không đúng với điều
đã nói, họ đã vu khống Ta với điều
không thực, hƣ ngụy”. (kinh Trung Bộ tập II trang 309 kinh Ba
Minh Vacchagota).
Tóm lại đoạn kinh này
không đủ để chứng minh kinh sách
Đại Thừa sai sao? Từ đây về sau kinh sách Đại Thừa không còn giá trị như
xưa kia nữa. Khi những
bài
kinh Nguyên Thủy
này
làm sáng tỏ thì kinh sách
Đại thừa và Thiền Tông mất giá trị không còn ai tin nó là kinh sách
của
Phật nữa.
NHẬP TAM
THIỀN CÓ HẾT LẬU HOẶC CHƯA
?
Hỏi
: Kính thƣa Thầy! Khi một vị Tỳ Kheo nhập đƣợc Tam
Thiền có
thể
hết lậu hoặc chƣa (không còn tham, sân,
si)
Đáp : Trong kinh Phật dạy một vị Tỳ Kheo nhập được Tam Thiền mới đoạn dứt năm hạ phần kiết sử còn
năm thượng phần kiết sử chưa đoạn, vì thế lậu hoặc chưa hết. Một người nhập Tam thiền mà chưa có Tứ Thần Túc là
người nhập Tam thiền của ngoại đạo riêng kinh nghiệm bản thân của Thầy, một vị Tỳ Kheo nhập được Sơ Thiền
là ly được “tâm dục”, còn nhập được
Tam Thiền là ly
được “tƣởng dục”, tuy gốc lậu hoặc chưa quét sạch, nhưng
cũng tìm thấy sự an ổn bất động của
tâm. Chỉ khi nào chứng Lậu tận minh thì lậu hoặc mới thật sạch, chừng đó mới
chấm
dứt được sự
tái sanh luân hồi.
Khi nhập Tứ Thiền nơi
đây
có hai ngõ diệt sạch lậu hoặc, một ngõ đi về Tam Minh và một ngõ đi về Diệt thọ tưởng
định, nếu đi về ngõ Diệt thọ tưởng định thì thân tâm
như cây đá, thân giống như người chết nhưng không hoại diệt, nhờ từ trường định của diệt thọ bảo vệ thì trong lúc nhập
Diệt Thọ Tưởng Định không có
lậu hoặc.
Đi ngõ Tam Minh thì thân tâm
giống như người sống bình
thường nhưng bất động trước các ác pháp, tâm luôn lúc
nào
cũng thanh tịnh và thanh thản, an lạc, vô sự. Sống, chết, bệnh, đau là việc
vô thường của nhân quả không tác
động được
thân tâm họ. Họ sống một
đời sống còn lại
những ngày
an vui
tuyệt vời.
LỜ I P H ẬT DẠ Y
TỰ TẠI SANH TỬ
“Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo có đầy đủ tín, đầy đủ giới, đầy đủ văn, đầy đủ thí, đầy đủ trí tuệ. Vị ấy nghĩ: “Mong rằng với sự đoạn trừ các lậu hoặc, với thắng trí Ta
chứng ngộ,
chứng đạt và an trú ngay
trong hiện tại tâm giải thoát vô
lậu!”
Vị ấy với sự đoạn trừ các
lậu hoặc, với thắng trí chứng ngộ,
chứng đạt
và
an trú ngay trong hiện tại tâm giải thoát,
tuệ
giải thoát vô lậu. Này các Tỳ kheo, các Tỳ kheo này không sinh ra một nơi nào, không sinh ra
một chỗ nào”. (Kinh
Trung
Bộ tập III trang 289
kinh Đại Hành Sanh).
CH Ö GIẢ I:
Kinh Đại Hành Sanh là một bài kinh mà đức Phật đã xác
định vị trí thế đứng vững chắc giáo pháp của mình là sự
an trú trong hiện tại tâm giải thoát, tuệ giải vô lậu. Mục
đích
giải thoát là phải tu tập đến chỗ tâm vô lậu này thì không còn tái sanh, dù bất cứ nơi đâu. Cho nên đường lối của đạo Phật đã xác định rõ ràng khi đạt đến mục đích này
không sanh nơi nào, không
có chỗ nào
để
tái sanh.
Bài kinh này xác định rõ đạo Phật không có cảnh giới nào để sinh: “Tỳ kheo này không sinh một nơi nào, không sinh
ra một chỗ nào?” Như vậy cảnh giới Niết Bàn, Cực Lạc,
Phật tánh không
phải
là chỗ của Phật đến.
Trong kinh Đại Hành Sanh đức Phật đã đưa ra từ cõi
người làm vua chúa cho đến 33 cõi Trời, không có cõi nào là chỗ đức Phật đến. Chỗ đức Phật đến chỉ là nơi tâm vô lậu. Chỗ tâm vô lậu là chỗ bất sanh, bất diệt: “Mong rằng với sự đoạn tận các lậu hoặc” Như vậy rõ ràng những gì
kinh sách Đại Thừa xây dựng lên mọi cảnh giới đều không
đúng
nơi đức Phật đến.
Nếu người có trí một chút đọc
đoạn
kinh này là biết
rõ mình tu đến đâu,
còn
tái sanh hay đã hết tái sanh. Và còn
tái sanh về đâu, nơi đâu,
đều biết rõ
ràng.
Tâm
nguyện của người tu sĩ Phật giáo không cầu về cõi Cực
Lạc Tây Phương, Niết Bàn,
hay kiến
tánh thành Phật, hoặc trở về với bản thể Chân Như. Mục đích của người tu
sĩ Phật giáo là phải chứng đạt được tâm vô lậu. Vậy tâm vô lậu
là gì?
Tâm vô lậu là tâm không còn khổ đau phiền não, lo lắng, sợ hãi, tức giận, than khóc v.v…Tâm vô lậu là tâm bất
động trước
các
ác pháp và các cảm
thọ. Là tâm không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai, là tâm
không còn dục
lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Vì thế, sự
tu tập của đạo Phật
rất
rõ ràng là nhắm vào chỗ đoạn diệt
tất cả các lậu hoặc,
đem
lại sự thanh thản, an lạc và vô sự cho một thân tâm giải thoát.
Đối tượng sự tu tập giải thoát của Phật giáo là tâm
lậu hoặc, tâm lậu hoặc sạch là các bạn đã tu tập xong, chứ không phải đợi kiến tánh thành Phật hoặc chứng quả vị
này
quả vị khác. hoặc
sinh
về cõi này, cõi kia hoặc nhập vào bản thể vạn hữu.
Kính thưa các bạn! Tất cả những quả
vị từ xưa đến nay trong các kinh sách Đại Thừa đã xây dựng, đó là những cảnh giới không thực
tế,
mơ hồ, trừu tượng, ảo giác để
lừa đảo mọi người.
Còn mục đích của đạo
Phật xác định rất rõ ràng và cụ thể.
Hôm nay chúng tôi xin xác quyết
rõ ràng để các bạn tu tập
cho cụ thể không còn hiểu biết một cách mơ
hồ,
và không còn sống trong những cảm giác ảo tưởng cõi này, cõi kia nữa.
Kính thưa các bạn! Các
bạn có biết tâm vô lậu là gì không? Khi nào người ta chê bạn,
nói
xấu, mạ lị, mạt sát,
chửi mắng bạn, mà tâm
bạn
vẫn thản nhiên không buồn
giận hờn, không oán ghét vv…
đó là tâm vô lậu.
Khi nào bạn không thương, không ghét
một
người nào, không sợ hãi, lo lắng sống luôn
luôn thanh thản, an ổn và không có một chướng ngại gì trong tâm các bạn, đó là tâm
vô lậu. Khi nào tâm các bạn không còn tham muốn một vật gì, dù đó là một món ăn rất ngon, rất thích khẩu của
các
bạn, nhưng các bạn cũng thản
nhiên không thèm,
không ham thích muốn ăn. Có thì ăn, không có ăn thì thôi, đó
là tâm vô lậu.
Khi nào các bạn thấy
sự lười biếng, hôn trầm, thùy miên
không còn tấn công các bạn khi các bạn
muốn thức dù bất
cứ
giờ nào, các bạn cũng đều tỉnh thức, đó là tâm vô lậu
của
các
bạn.
Khi nào tất cả mọi cảm thọ đến với bạn mà
tâm bạn
không lo, không sợ hãi thì đó
là tâm vô lậu.
Khi nào tất cả mọi pháp làm
động khiến tâm các bạn bất an, nhưng các bạn vẫn thản nhiên, với tâm thanh thản, an
lạc và vô sự thì đó là tâm vô lậu.
Khi nào các bạn nhận xét thấy rõ ràng tâm mình được như
vậy là các bạn đã tu xong, tức là các bạn đã chứng
đạt chân lí, nếu còn chưa được như vậy thì các bạn phải tác ý để tâm các bạn bất động, tức là các bạn còn
đang hộ trì chân lí, đó là các bạn còn tu tập. Như vậy chỗ tu tập còn hay
đã xong là các bạn đều biết rất rõ ràng.
Tâm
vô lậu bất động là chỗ các bạn an trú trong khi các
bạn
còn sống cũng như lúc các bạn đã chết. Tâm hữu lậu chưa bất động là không phải chỗ các bạn an trú. Mà nếu
các
bạn an trú nơi
đó thì các bạn
phải chịu
nhiều đau
khổ.
Muốn không an trú chỗ tâm hữu lậu thì các bạn phải tu tập nhiều
nữa.
Như vậy chỗ tu tập để chứng đạt
chân lí của Phật giáo
không phải khó khăn, chỉ có tu tập đúng pháp thì tâm
lậu hoặc sẽ được diệt sạch. Tâm diệt sạch lậu hoặc là chỗ an trú của Phật. Xin các bạn lưu ý những
lời dạy
này.
NGƯỜI
GIẢNG THIỀN
THÂM SÂU ĐÃ VƯỢT QUA NĂM ẤM CHƯA?
Hỏi
: Kính thƣa Thầy! Một vị Tỳ Kheo thuyết giảng thiền rất
thâm sâu, tâm vƣợt năm ấm tƣờng tận, có phải vị ấy đã trải
qua kinh nghiệm tu mà nói lên?
Đáp
: Một vị Tỳ Kheo nhập Tam Thiền không thể vượt
qua
năm ấm được, chỉ có nhập Diệt thọ tưởng định mới
vượt qua năm ấm.
Một vị Tỳ Kheo thuyết giảng thiền rất thâm sâu về lý,
nhưng không trải qua kinh nghiệm tu hành mà nói lên, nên phần nhiều lạc vào tưởng pháp do tưởng tuệ. Sự giảng kinh thuyết pháp rất hay,
nhưng
xét cho cùng
chỉ là
một
lý thuyết suông ở
đầu
môi chót
lưỡi, nên pháp hành tu tập không thông, tu tập sai
pháp, không có kết quả. Vì thế họ
chưa
bao giờ nhập định được.
Trong kinh sách Phật có dạy sáu loại tưởng: Sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp tưởng, người tu thiền
định lạc vào
định tưởng, pháp tưởng triển khai, luận thiền, luận đạo rất
là
thâm sâu về lý, nhưng pháp
hành không
vững. (Thiếu kinh nghiệm bản thân chỉ vay mượn trong kinh
sách nói hoặc tưởng theo chữ nghĩa giảng
dạy ra có khi
đúng
nhưng cũng có khi sai).
Nhữn g gì củ a các
n h à h ọc
giả giản
g ra
theo
tưởn g
giải
thì
k h ôn g thể n ào
tu
tậ p đ ược
vì thi ếu
k inh
n gh iệm tu
.
Thiền Đông Độ và kinh sách Đại Thừa đều do tưởng giải của người xưa nên chúng ta tu tập không đưa
đến kết quả
rốt ráo được, định cũng không ra định, tuệ
cũng không ra
tuệ, cu ối
cù n g ch ỉ t rở thàn
h một
trò h ý
lu ận , ch ứ ch ẳn g
thấy có
ai l àm ch ủ
san h, già, b ện h , ch ết cụ th ể
.
Bởi vì, các thiền sư thời đại của chúng
ta nói nhiều, mà bệnh đau thì đi nằm nhà thương, bác sĩ trị, thì thử hỏi làm
sao chúng ta tin miệng
họ được.
Người tu thiền Đông Độ sống vì danh, vì lợi nên luôn luôn
tranh luận hơn thua và còn dùng những danh từ nói xấu kẻ khác, trong khi đó tu hành chỉ có hình thức mà chẳng có
ai nhập định làm chủ sanh, già,
bệnh, chết được.
Xưa,
đức
Phật từng đã nhắc nhở
chúng ta: “Đừng
có tin... đừng có tin... mà hãy tin những gì chúng ta thực hiện có
lợi ích không làm khổ mình khổ người”. Cho nên người ta
thuyết
giảng hay chưa hẳn họ đã làm được hay.
TAM MINH
Hỏi : Kính thƣa Thầy! Trong băng Thầy phủ nhận không có
Lục Thông và Tam Minh. Qua suốt giáo án chúng
con ngầm hiểu
Thầy
có đƣợc những điều ấy.
Tại
sao
Thầy
không nhận để nó là linh hồn, là niềm tin vững chắc của
giáo án? Con nhớ Phật còn bảo: Ta đã chứng đƣợc Tam Minh,
lậu
tận ta đã hết.
Đáp : Thầy phủ nhận Tam Minh, Lục Thông là vì thần thông không phải là mục đích tu hành giải thoát của đạo Phật. Một người tu hành làm chủ được sự sống chết và chấm dứt luân hồi thì Tam Minh, Lục Thông họ phải đầy
đủ,
nhưng vì nó không phải mục đích, nếu
dùng nó thì
người ta đến với đạo Phật sẽ sai mục đích, mà đã sai mục đích thì không bao giờ làm chủ sanh, già, bệnh, chết được.
Nếu
không làm chủ sanh, già, bệnh, chết được thì Tam
Minh, Lục Thông cũng chẳng bao giờ có, và nếu có thì
cũng
chẳng có
nghĩa lý gì
cả.
Phật là đấng giáo chủ, Ngài tuyên bố thần thông như vậy là
để đối phó với ngoại đạo. Các đệ tử của Ngài không được tuyên
bố như vậy. Kinh Đại Thừa dạy: “Còn thấy mình chứng quả A La Hán là chƣa chứng quả A La Hán”
Đó là lối lý luận lừa đảo
của Đại Thừa che đậy khi tu
hành
chưa đến nơi đến chốn. Còn Phật giáo Nguyên Thủy tu đến đâu chứng đến đấy, tâm
có
tham thì biết tâm
có
tham, tâm không tham thì
biết tâm
không tham; tâm
có
sân thì biết tâm có sân; tâm không sân thì biết tâm không sân; tâm
có
Tam Minh, Lục Thông thì biết tâm có Tam Minh,
Lục
Thông; tâm không có Tam
Minh, Lục Thông thì biết
tâm không có Tam
Minh, Lục Thông. Và biết sử dụng đúng thời, không
bị
lợi danh làm mờ tâm trí, do đó Thầy
phủ
nhận không tự xưng mình có Tam Minh, Lục Thông mà chỉ biết có sự giải thoát mà thôi.
Thầy không dụ dỗ người theo Thầy tu hành bằng thần thông, ai thấy con đường tu hành của Thầy là phương
pháp
sống đạo đức giải thoát không làm khổ mình khổ
người thì theo, còn không muốn sống
đạo đức nhân bản -
nhân quả thì Thầy không ép, không mời, không lôi cuốn bằng những kinh sách nói láo, bằng sự mê tín, bằng bùa
chú thần thông, v.v...
T
rên đ ườn g tu tập thiền đ ịn h đ ể
đi đ ến sự
cứu cán h thì
p h ải
đ i n gan g
q u a
Lụ c
T
h ôn
g T am Min h n ên b iết
n ó rõ
ràn g
n h ưn g kh ôn g
ph ải
vì
tu
đ ể ch ứn g
n ó. Nó k h ôn g
ph ải
là mụ c đ ích
đ ể ch ú n g ta ch ứn g,
mụ c
đ ích tu ch ứn g
là
tâm
b ất đ ộn g .
Xay lúa, có gạo và trấu, gạo chúng ta lấy, trấu chúng ta
bỏ.
Thần thông ví như vỏ trấu còn tâm bất động là gạo, cho nên tu tập theo Phật giáo tâm không được tham đắm thần
thông, còn tham đắm thần thông là không bao giờ tâm ly
dục ly ác pháp được, tâm
không ly dục ly ác pháp thì
không bao giờ nhập chánh định được mà không nhập
được chánh định thì không bao giờ có Lục Thông, Tam
Minh.
Người chưa ly dục ly ác
pháp
mà nhập được định đó là tà
định vì thế họ có Ngũ
Thông chứ không được Lục Thông, Tam
Minh như
người
tâm ly dục ly ác pháp.
Người tâm chưa ly dục ly ác pháp dù họ có Ngũ Thông, có
nhập
định để lại nhục thân, nhưng không làm chủ sanh, già, bệnh, chết
và chấm
dứt luân hồi được.
Thần thông không phải cốt tủy và niềm tin của đạo Phật.
Vì Thầy tu hành có thần thông nhưng Thầy xem nó là một
trò ảo thuật để dễ lừa
đảo người khác.
Xưa, ông
thân củ a
Th ầy là mộ t tu
sĩ
Mậ t Tôn g, ôn g lên n ú i
B
à Đen và san g
n ú i
Cậ u tu lu yện thần thôn
g r ất
li n h
d iệu
và mầu
n h iệm, ôn g
đ ã tru yền lại ch o T h ầy
tất
cả mậ t ch ú ,
n h ưn g T h ầy
k h ôn g
p h ải là k ẻ
lừa
đ ảo và ác đ ộc,
n ên
T
h ầy
q u yết tâ m
đ i tì m
đ ườn g tu tập giải thoát ra
k h ỏi
mọi sự
đ au
kh ổ
củ a k iếp l àm
n gười
.
Chung quanh chùa nơi Thầy đang ở lúc bấy giờ toàn là một hàng rào tre, đến mùa măng mọc người chung quanh xóm nghèo khổ lén vào cắt trộm măng, ông thân Thầy dùng bùa chú yểm, khiến cho người vào đến ranh giới chùa là
bất
động đứng như trời trồng, ông thân của Thầy
chỉ còn ra bắt và khuyên không nên trộm cắp, nếu còn
trộm cắp măng thì ông thân Thầy sẽ đưa đến làng xã,
khiến cho người ta quá sợ.
Bùa chú của ngoại đạo mà còn mầu nhiệm
như
vậy huống là tâm ly dục ly ác pháp, thanh tịnh hoàn toàn thì sự mầu
nhiệm của tâm không thể lường được, vì thế người tu sĩ
Phật giáo đi tu không cầu mong Lục Thông Tam Minh mà
vẫn có đầy đủ Lục Thông Tam Minh, không tu luyện Lục
Thông Tam Minh mà vẫn có Lục Thông Tam Minh đầy
đủ.
Người đi tu theo Phật giáo mà còn có tâm
cầu Lục Thông
Tam Minh thì đã tu sai đường. Hãy xa lìa và đoạn trừ tâm
đó
mà chỉ cố gắng tu tập sống một đời sống ly dục
ly ác pháp, thì nơi đó là Niết
Bàn,
là hạnh phúc, là sự giải thoát
của một kiếp làm người, là đạo đức không làm
khổ
mình khổ người. Thế là đủ lắm rồi có còn mong muốn những điều
gì hơn. Phải không con?
Cho nên, Thầy biết
đủ thứ thần thông, nhưng Thầy không chấp nhận thần thông
và thế giới siêu hình, luôn luôn lúc nào Thầy cũng muốn đem lại cho con người một nền đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình khổ
người, đó là một sự lợi ích thiết thực, còn thần thôn
g ch ỉ l à
mộ t
trò lừa đ ảo,
là m k h ổ n gười . Chẳng hạn như ông thân
của Thầy, nếu ông thân của Thầy vắng mặt,
không có ở chùa thì các con nghĩ sao? Khi người trộm cắp măng này bị
bùa chú bắt cứng mình thì họ sẽ khổ biết dường nào!
Trên cuộc
đời này, con có thấy những người tu hành có
thần thông, đem lại hạnh phúc gì cho con người chưa? Hay
chỉ là những người có thần thông luôn luôn làm
việc bất chánh, làm
khổ đau người “tiền mất
tật
mang”.
Nếu Thầy không giải thích cho các con rõ, mà nhận mình
có
thần thông là Thầy đã phỉ
báng Phật giáo,
là Thầy
đã hại Phật giáo. Vì Phật giáo không phải là những tôn giáo tu tập để có thần thông, dùng thần thông cám dỗ người theo đạo mình, mà Phật giáo là tôn giáo tu tập làm
ích lợi cho mình,
cho
người.
T h ầy
k h ôn g lấy thần thôn g cá m d ỗ các
con the o
Ph ật
giáo,
mà ch ỉ lấy đ ạo
đ ức d ạy
các con
đ ối xử với
n h a u ,
đ ể k h ôn g
làm k h ổ
mìn h
k h ổ
n gười đ ó
là các con th oát kh ổ
.
Các con nên hiểu, có thần thông là không có
đạo
đức, có đạo đức là không thực hiện thần thông. Ai muốn tu theo Thầy để cầu sống một đời sống không làm khổ mình khổ
người, để tâm hồn được thanh thản an lạc và vô sự thì
theo, bằng cầu thần thông thì đi tìm
nơi khác
mà
tu, chứ ở đây
Thầy chẳng có
thần thông để dạy.
TẦM TỨ
Hỏi : Xin Thầy giảng rõ thêm
tầm,
tứ. Cách diệt tầm tứ?
Đáp
: Tầm là suy tư, suy nghĩ; tứ là ý tứ, tác ý ra. Tầm tứ có
hai loại:
1- Tầm tứ ác.
2- Tầm tứ thiện.
Muốn diệt tầm tứ,
ta phải
diệt
tầm tứ ác trước.
1-
Diệt tầm tứ ác, ta phải tu tập phòng hộ sáu căn, thiểu
dục
tri túc, ăn ngủ không được phi thời, tu Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, tu Định Vô Lậu (ly dục ly ác pháp). Tu tập Tứ Chánh Cần ngăn ác, diệt ác
pháp, sanh thiện, tăng
trưởng thiện pháp.
2- Diệt tầm tứ thiện, ta phải tu Định Niệm
Hơi Thở, định
diệt
tầm giữ tứ, tu tập pháp hướng tâm, tu tập định diệt tứ.
Tóm lại tầm tứ là sự tác ý và sự tư duy, suy nghĩ của ý thức. Con nên đọc thêm
bài
kinh Song Tầm và An Trú
Tầm, thì mới rõ nghĩa tầm tứ một cách cụ thể hơn, mà đức Phật đã chỉ dạy một cách tường tận trên bước đường
hành thiền theo Phật giáo. Chính Ngài cũng nhờ sự tu tập
này mà thành Chánh giác.
Muốn diệt tầm
tứ,
chỉ có Tứ Thần Túc
thì diệt tầm tứ rất dễ dàng, ngoài Tứ Thần Túc diệt tầm tứ rất khó khăn.
“Chƣ Tỳ Kheo, trƣớc khi
Ta
giác ngộ,
khi chƣa thành
Chánh Giác và còn là Bồ Tát, Ta suy nghĩa nhƣ sau: “Ta sống suy tƣ và chia hai suy tầm.
Chƣ Tỳ
Kheo, phàm có dục tầm nào, (Dục tầm là lòng ham
muốn khởi lên
trong ta, bất cứ
một sự ham muốn điều gì
đều là dục tầm)”.
Ví dụ: Chúng ta đang tu tập giữ gìn tâm không phóng dật,
thì bỗng dưng khởi niệm thần thông, nếu tu tập có thần thông mình sẽ phóng hào quang hoặc tịnh chỉ hơi thở cho phóng viên báo chí, truyền thanh, truyền hình biết, để
loan tin thì chắc
chắn người ta sẽ theo
đạo
Phật nhiều và như vậy chúng ta sẽ
chấn hưng Phật giáo rất nhanh. Những niệm khởi như vậy gọi là dục tầm. Sân tầm nào, (Sân
tầm là lòng tức giận khởi lên trong ta) Hại tầm, (Hại
tầm là lòng nham hiểm, độc ác khởi lên tìm cách này cách nọ để nói xấu người khác, hoặc tìm mưu cách hãm
hại khiến cho người khác
đau
khổ, khiến cho người khác
mất
uy tín, khiến cho tín đồ không còn theo tu
tập, khiến cho người khác mất nghề nghiệp
đói
khổ v.v...)
“Ta phân
thành phần thứ nhất; phàm có ly dục tầm nào (ly dục tầm là
lìa lòng ham muốn) Vô sân tầm nào, (Vô sân tầm
là tâm không còn giận hờn) Vô hại tầm nào (Vô hại tầm nào là tâm không còn mƣu đồ tính toán hại ngƣời, nói xấu ngƣời) Ta phân làm phần thứ hai. Chƣ Tỳ Kheo, rồi Ta sống không phóng dật, nhiệt
tâm tinh cần. Khi dục tầm
khởi
lên, Ta tuệ tri: “Dục tầm này khởi lên nơi Ta và dục tầm này đƣa đến tự hại, đƣa đến hại ngƣời, đƣa đến hại cả hai, diệt trí tuệ, dự phần
vào
phiền não, không đƣa đến Niết Bàn. Chƣ Tỳ Kheo khi Ta suy tƣ: “Dục tầm này đƣa đến tự
hại, dục tầm này đƣợc biến mất. Chƣ Tỳ
Kheo khi Ta suy
tƣ: “Dục tầm đƣa đến hại ngƣời, dục tầm đƣợc biến mất.
Chƣ Tỳ Kheo khi Ta suy tƣ: “Dục tầm đƣa đến hại cả hai, dục tầm đƣợc biến mất. Chƣ Tỳ Kheo khi Ta suy tƣ: “Dục tầm
diệt trí tuệ, dự phần
vào
phiền não, không đƣa đến Niết
Bàn,
dục tầm đƣợc biến
mất. Chƣ Tỳ Kheo, nhƣ vậy Ta tiếp tục trừ bỏ,
xả ly và đoạn tận dục tầm,
sân tầm, hại tầm”.
Qua đoạn kinh
này
chúng ta xét thấy một phương pháp
tu thiền định rất thực tế của đạo Phật.
Ở đ ây
chún g
ta
kh ôn g
thấy đ ức
Ph ật
d ạy n gồi
thiền
, n h iếp
tâm
b ằn g cách n ày,
cách
k h ác
mà ch ỉ d ạy
ch ú n g
ta
cách
thức
tư
du y,
su y n ghĩ
về
lòn g h am
mu ốn
củ a
mìn h , xe m
coi lòn g
h am mu ốn củ a
mìn h có
còn h am
mu ốn
cái gì k h ôn g
. Nếu còn
thì Đức Phật gọi là “Dục Tầm”, nếu thấy lòng mình không còn có ham muốn thì đức Phật gọi đó là “Ly
Dục Tầm”, nếu chúng ta còn dục tầm thì đức Phật dạy chúng ta quán xét dục tầm, dục tầm sẽ đưa đến tự hại ta, hại người và hại cả
hai.
Bởi vì còn dục tầm sẽ làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh, do hiểu biết như vậy ta liền xa lìa
dục
tầm, nhờ có xa lìa dục tầm
ta
mới thấy được tâm
thanh thản, an lạc và vô sự; tâm than h thản
, an lạc và vô
sự
là
tâ m ly d ụ c ly á c
p h áp ; tâm ly d ụ c ly á c
p h áp
là
tâ m
n h ập S ơ
T
hiền; tâm n h ập
S ơ T h iền
là
tâm
lì a tham,
sân,
si; tâ m
lì a tha m
sân , si là tâm than
h tịnh
; tâm than
h tịnh
ấy
là th iền đ ịnh củ a đ ạo Ph ật .
Như vậy bài Kinh Song Tầm là bài kinh dạy chúng ta tu
thiền
định của đạo
Phật.
Chúng ta nên đọc
thêm
một bài kinh nữa, đó là bài kinh An Trú Tầm. Bài kinh Song Tầm đức Phật dạy chúng ta lựa chọn tầm thiện,
loại trừ tầm ác ra
khỏi tâm.
Qua bài kinh này chúng ta đã biết cách lựa chọn tầm
thiện, nhưng chưa biết cách sống trong tầm thiện, vì thế
đến bài kinh An Trú
Tầm, đức Phật dạy chúng ta cách
thức tu tập để được an trú trong tầm thiện,
đó là một phương pháp rất đặc biệt của Phật giáo trong việc nhập định, mà không có một giáo pháp nào của ngoại đạo có
được.
“Chƣ Tỳ Kheo, Tỳ Kheo muốn thực hiện tu tăng thƣợng tâm
cần phải thƣờng thƣờng tác ý năm tƣớng. Thế nào là
năm?”
“Tỳ Kheo y cứ tƣớng nào, tác ý tƣớng nào, các ác bất thiện tầm
liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ
đến
si sanh khởi, thời này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ấy cần phải tác ý một
tƣớng khác liên
hệ
đến thiện không phải tƣớng kia. Nhờ tác ý một tƣớng khác liên hệ đến thiện, không phải tƣớng kia, thì
các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục,
liên hệ đến sân,
liên
hệ
đến si đƣợc diệt trừ, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm đƣợc an trú,
an tịnh, nhất tâm định tỉnh”.
Đây là
phương pháp thứ
nhất mà Đức Phật dạy:
Khi
tron g
thân , thọ, tâm,
p h áp
củ a
ch ún g
ta
có ác p h áp xâm
ch iếm, thì p h ải tác ý một
tướn g
k h ác
tướn g
ác
đ ó, tức
là
mộ t
tướn g
thiệ n ,
tướn g
thiện
là
một tướn g đ i
n gược
lại
với
tướn g
ác
đ ó . Nhờ có tác
ý một tướng thiện đối trị lại tướng ác đó, nên tướng ác đó bị đoạn trừ và tiêu diệt, lúc bây giờ tâm chúng ta mới đẩy lùi chướng ngại pháp, tức là ngăn ác, diệt ác pháp để tâm được an trú trong tầm thiện, để
được an trú,
an tịnh, nhất tâm,
định tỉnh tức là nhập định.
“Chƣ Tỳ Kheo, Nếu Tỳ Kheo ấy tác ý một tƣớng khác với tƣớng kia, liên hệ đến thiện mà các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ
đến
sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên. Thời
này
chƣ Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ấy cần phải quan sát các nguy hiểm của những tầm ấy: “Đây là những tầm bất thiện, đây
là những tầm có tội, đây là những tầm có khổ báo. Nhờ quan sát các nguy hiểm của những tầm ấy, các ác bất thiện
tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si đƣợc trừ diệt, đi đến diệt vong.
Chính nhờ diệt
trừ chúng, nội tâm
đƣợc an
trú an tịnh,
nhất tâm định tỉnh”.
Đây
là phương pháp thứ
hai, d ù n g q u án tư d u y đ ể n găn
ác
d iệt ác p h áp ,
đ ể tâm đ ược an trú
tron g
tầ m t h iện, tức
là
an trú
tron g
đ ịn h
. Một người tu thiền định để tìm sự giải
thoát, thì không thể
thiếu phương pháp tu tập này được.
“Chƣ Tỳ Kheo, nếu Tỳ
Kheo ấy trong khi quán sát các nguy hiểm của những tầm ấy, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn còn khởi lên, thời
này
chƣ Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ấy cần phải không ức niệm, không tác ý những tầm ấy. Nhờ không ức niệm, không tác ý các tầm ấy, các ác bất thiện tầm liên
hệ
đến dục, liên hệ đến
sân, liên hệ đến si
đƣợc diệt trừ, đi đến diệt vong. Nhờ chính diệt trừ chúng, nội tâm đƣợc an trú, an tịnh, nhất tâm, định
tỉnh”.
Đây là phương pháp thứ ba, để an trú trong tầm thiện, tức là ngăn ác diệt ác pháp, để tâm ly dục ly ác pháp nhập bất động tâm
(Sơ thiền), do ly dục tầm
mới
được tầm tứ thiện, mới được nhất tâm, định tỉnh. Ph ươn g p h áp
tu
tập n ày
cũ n g giốn
g n h ư n gười
kh ôn g mu ốn n h ìn thấy các
sắc
p h áp
n ên
n h ắm
mắt h oặc
n h ìn
ch ỗ
k h ác
. (phòng
hộ các căn
không để tâm phóng
dật).
“Chƣ Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo ấy trong khi không ức niệm,
không
tác ý các tầm ấy, các ác bất thiện
tầm
liên hệ đến dục,
lên hệ
sân,
liên hệ đến si vẫn khởi lên. Chƣ Tỳ
Kheo, vị Tỳ Kheo ấy
cần
phải tác ý đến hành tƣớng các tầm và sự an trú các
tầm.
Nhờ tác ý đến hành tƣớng các
tầm và sự an trú các tầm
ấy, các ác bất thiện
tầm liên hệ đến dục, đến sân, đến si đƣợc an trú,
an tịnh,
nhất
tâm, định tỉnh”.
Đây là phương pháp thứ tư, để an trú trong tầm thiện
bằng cách tác
ý các hành trong thân và giảm
các
hành dần để đi đến an trú, an
tịnh, nhất tâm, định tỉnh, nhờ có an
trú, an tịnh, nhất
tâm,
định tỉnh thì tâm mới không phóng
dật, tâm không phóng dật thì tâm mới ly dục, ly ác pháp
dễ
dàng. Phương pháp
ngăn
ác diệt ác pháp này, tu tập có hiệu
quả
hay không, là do
đặc
tướng của mỗi
hành giả.
Ph áp
n ày đ ược x e m là p h áp môn
tu
tập
tron g
T
h ân Hành
Niệ m đ ể
an
trú tầm thiệ n và rất
có h iệu q u ả k hi một
n gười
có n h iệt tâ m tu
h àn h
.
“Chƣ Tỳ Kheo, nếu Tỳ
Kheo ấy trong khi tác
ý đến hành tƣớng
các
tầm và sự an trú các tầm, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, đến sân, đến si vẫn khởi lên, thời chƣ Tỳ Kheo, Tỳ Kheo phải nghiến răng, dán chặt lƣỡi lên nóc họng. Lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm đánh bại tâm.
Nhờ nghiến răng dán chặt lƣỡi lên nóc họng, lấy tâm chế
ngự
tâm, nhiếp phục tâm đánh bại tâm, các
ác bất thiện tầm
liên hệ đến dục, liên hệ đến sân và si đƣợc trừ diệt, đi đến diệt vong”.
Đây là phương pháp thứ năm, của pháp an trú tầm thiện cũng là phương pháp cuối cùng trong khi chiến đấu với
các
ác bất thiện pháp.
Phương pháp này chúng tôi thường gọi là niệm lực hay là
pháp
gom tâm vào tụ điểm để nhẫn nhục trước các ác bất
thiện pháp, để diệt trừ tâm loạn động, để diệt trừ tâm si mê ham ngủ nghỉ (hôn trầm thùy miên vô ký), để diệt trừ
tâm tham dục, để diệt trừ tâm đang tức giận, để diệt trừ tâm đang khi thân bị bệnh khổ, v.v... Ph ươn g
p h áp
n ày là
p h ươn g p h áp
ch ốn g tr ả lại các
ác
p h áp
rất
mãn h li ệt đ ể
tận d iệt ch o b ằn g đ ược các ác b ất th iện p h áp .
Tóm
lại,
trong năm phương pháp tu tập để an trú tầm
thiện, đức Phật đã trao cho chúng ta tất cả kinh nghiệm tu hành để đưa đến chỗ
tâm
không phóng dật.
Năm phương pháp an trú tầm
là năm phương pháp dùng để ngăn ác diệt ác pháp tuyệt vời, mà một người tu tập
phải
luôn luôn sống với pháp môn này như hơi thở mà
chúng ta đang thở, nếu hơi thở dừng thì chúng ta
ra
người thiên cổ, còn pháp môn này rời khỏi chúng ta thì chúng
ta sống trong hỏa ngục cũng
như người chết
chưa chôn.
Trên đường về xứ Phật, đức Phật đã trang bị cho chúng ta
đủ mọi thứ cần thiết để vượt
qua
những đoạn đường gian
nan
khốn khổ và nguy hiểm, nếu chúng ta bền chí, kiên
cường, dũng cảm
thì chắc chắn sẽ đến nơi, đến chốn an
toàn.
LỜ I P H ẬT DẠ Y
TỪ BỎ TÂM THAM
“Điều này đã đƣợc Thế Tôn nói
đến, đã đƣợc bậc
A La Hán nói đến, và tôi đã đƣợc nghe: “Này các Tỳ kheo, hãy từ bỏ một pháp. Ta bảo đảm cho các Ngƣơi không có tái sanh.
Thế nào là một pháp? Tham này, các Tỳ
kheo! Là một pháp
các
Ngƣơi
hãy từ bỏ Ta bảo đảm cho
các
Ngƣời
không đi tái
sanh.” (Kinh Thuyết
Như Vậy trang 413 Chương I Tập Một Pháp).
CH Ö GIẢ I:
Kính thưa các bạn! Đọc qua lời Phật dạy trên đây chúng
ta có đặt trọn lòng tin nơi lời này
dạy hay
không?
Riêng chúng tôi khi tu tập Thiền Đông Độ bị bế tắc, không biết đường tiến tới nữa, nên đọc được lời dạy này chúng tôi nỗ lực hằng ngày tu tập với câu tác ý: “Tâm nhƣ đất ly
th am ,
sân , si ch o th ật sạch ,
vì tâm th am , sân ,
si là ác ph áp,
là đau kh ổ
”. Khi tác ý mỗi lần như vậy nếu có điều
gì
khiến tâm khởi lên tham, sân, si là chúng tôi quyết định
dừng lại một cách kiên cường dũng mãnh, không để một phút giây tham, sân, si trong tâm mình tác động. Do đặt trọn niềm tin nơi những lời Phật dạy, vì thế,
chúng tôi nhiếp phục tâm mình một cách dễ dàng, không có khó khăn, không
có mệt nhọc, không có
phí
sức.
Trong
lời dạy này chỉ cần có “từ
bỏ tâm tham” là
chấm dứt tái sanh luân hồi. Nhớ lời dạy này,
nhất
là lời dạy ấy có cả sự
quả quyết của đức Phật: “Ta bảo đảm cho các Ngƣơi”.
Vì thế, sáu thán
g trời ch ú n g tôi ch u yên cần
tu
tập
từ
b ỏ
tâ m
tha m,
sân , si, đú n g
p h áp
n h ư
lý
tác
ý,
thế
là
ch ú n g
tôi
đ ã thành
tựu đ ạo
giải thoát, làm ch ủ
san h tử, ch ấm d ứt
lu ân
h ồi n h ư lời đ ức Ph ật đ ã b ảo đ ảm .
Bởi vậy bài kinh
này
lấy tên là. (Tập Một Pháp) trong Tập Kinh Phật Thuyết Như Vậy. Để bảo đảm lời dạy này đức Phật đã đọc một bài
kệ
ngắn gọn:
“Với tham bị
tham
đắm
Chúng sanh đi
ác thú (tái sanh)
Bậc thiền quán chánh trí
Từ bỏ tham ái ấy
Từ bỏ không
bao giờ
Trở lại đời này nữa”
Kính thưa các
bạn! Vậy tâm tham ái là
gì?
Tham là sự tham lam, ham muốn, thường con người ai cũng có tâm tham
lam
và ham muốn: Nhưng có người
tham muốn nhiều, lại có người tham muốn ít.
Muốn từ bỏ
tâm
tham muốn là các
bạn
nên lưu ý từng hành động nhỏ
nhặt
của các bạn như: Ăn, uống,
ngủ
nghỉ, vui chơi, giao
tiếp với bạn bè v.v…khi muốn từ bỏ tâm tham muốn các
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!