Kính thưa
các bạn! Nếu
các bạn xem xét kỹ lại
cho tận cùng thì bài
kinh Nguyên thủy này sẽ giúp các
bạn nhận xét những kinh sách phát triển sau thời
đức Phật nhập
diệt là loại kinh sách đã bị Bà
La Môn hóa
mang nặng tính ảo tưởng thế giới
siêu hình đa thần giáo từ các bộ ảo thư Vệ Đà tưởng giải
biên soạn rồi mạo danh kinh Phật! Để biến Phật
giáo thành Thần giáo. Thần giáo là một tôn giáo mê tín, thường lường
gạt người, để
làm giàu trên mồ
hôi nước mắt của người khác.
Muốn tu
hành cho có kết quả giải
thoát thật sự thì xin
các bạn hãy
nghiên cứu kinh sách Nguyên Thủy, nhưng đều phải dựa vào
bậc tu chứng đạt
chân lí. Vậy
các bạn hãy lắng
nghe đức Phật
dạy: ‚Vậy này,
Magandiya, hãy thân cận các vị chơn
nhân. Thời này Magandiya. Ông sẽ được nghe diệu pháp,
này Magandiya, do người được nghe diệu pháp, thời này Magandiya, Ông sẽ sống
đúng chánh pháp và
tùy pháp. Này Magandiya, do ông sống đúng chánh pháp
và tùy
pháp, thời này
Magandiya, ông sẽ tự mình
biết, sẽ tự
mình thấy: đây là những bệnh chướng, những cục bướu, những mũi
tên. Ở đây,
những bệnh
chướng, những cục bướu, những
mũi tên được trừ diệt,
không có dư
tàn. Do chấp thủ được diệt ở Ta, nên hữu diệt, do hữu diệt, sanh
diệt, do sanh diệt
già chết, sầu bi,
khổ ưu, não được
diệt trừ. Như vậy là
sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này‛.
Trong đoạn kinh này
đức Phật dạy chúng ta
nên gần gũi
thân cận một người tu chứng
đạo. Vậy hiện giờ tất cả các Thầy tu theo Phật giáo có người nào tu chứng đạo chưa? Có người nào giữ giới nghiêm chỉnh chưa?
Nếu chưa có
người tu chứng
đạo mà các bạn theo
họ tu tập
như vậy thì các
bạn sẽ bị lừa
đảo, chỉ uổng
công sức tu tập và một đời của
các bạn tu tập chẳng
ra gì, uổng công, phí
sức.
Ở đây, kinh dạy chỉ có người tu chứng mới dạy
các bạn đúng chánh pháp, còn những người tu
chưa chứng mà dạy các bạn tu
hành thì chánh pháp
cũng thành tà
pháp. Vì họ
đâu có kinh nghiệm tu
hành nên giảng
dạy sai pháp, hiểu nghĩa không
đúng chánh pháp. Do hiểu nghĩa
không đúng chánh
pháp nên mới sản
xuất ra kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ.
Tóm lại, một
người muốn tu hành cầu giải thoát thì
nên tìm một vị Thầy tu chứng đạt chân lí và giới luật
phải tinh nghiêm. Vị Thầy ấy sẽ
là chỗ nương tựa vững chắc trên bước đường
tu tập của
các bạn để
đi đến nơi đến
chốn.
Các bạn đừng
nghe những gì các nhà học
giả thuyết giảng, họ dạy không có thực hành được đâu. Chính
bản thân họ giới luật
chưa nghiêm chỉnh. Giới luật chưa nghiêm chỉnh, tu hành chưa chứng
đạo, họ nói bằng
miệng lưỡi, chứ sự sống của họ chẳng có giải thoát gì, họ sống chùa to
Phật lớn, là một điều sai; ăn uống, ngủ
nghỉ phi thời,
đau bệnh đi
bác sĩ, nằm bệnh viện, chích thuốc, uống thuốc, không
ngày nào không dùng thuốc trị bệnh. Sự sống của họ như vậy chẳng khác gì người
phàm phu, xin các bạn đừng nghe theo những cấp bằng của họ mà phí hết một cuộc đời, thật
uổng thay! Thật uổng thay!!!
Khi chọn được
một vị thầy tu chứng đạt chân lí, thì hãy
hết sức đặt trọn lòng
tin nơi họ, thì các bạn sẽ được chỉ dạy tận tình, nhờ đó các bạn mới
giác ngộ được chân lí, nhờ giác ngộ được chân lí, lòng tin các bạn tăng trưởng,
nhờ
lòng tin tăng
trưởng các bạn mới đầy đủ sức tinh tấn tu tập.
Nếu các bạn muốn
tu tập để được
chứng ngộ, chứng đạt
chân lí trong Phạm hạnh của giới
luật Phật. Thì các bạn hãy
xin vị Thầy chứng
đạo cho ở gần
thân cận bốn
tháng biệt trú để giữ gìn giới hạnh.
Nếu các bạn sống
trong bốn tháng giữ gìn giới hạnh tinh nghiêm thì các bạn mới xin xuất gia, từ bỏ
gia đình, sống không
gia đình, quyết tâm đi tới như con đại tượng
đi tới không bao giờ
ngó lui. Có như
vậy, các
bạn mới thấy sự lợi ích
lớn cho đời sống ly gia cắt ái.
‚Này
Magandiya, ai trước kia là ngoại đạo
nay muốn xuất
gia theo Phật, muốn thọ đại
giới trong pháp
và luật này
thì phải sống bốn tháng biệt trú. Sau khi sống bốn tháng biệt trú, các Tỳ kheo nếu đồng
ý sẽ cho xuất gia,
cho thọ đại giới để
thành Tỳ kheo. Nhưng
Ta nhận thấy các
tánh con người sai biệt nhau‛.
Đoạn kinh
trên đây xác định rõ ràng, đạo Phật
không khuyến dụ, không bắt buộc,
không lôi cuốn ai theo đạo mình. Người tu theo Phật giáo là phải tự nguyện,
tự giác, thích sống đời sống Phạm hạnh thì mới xuất gia tu hành theo
Phật, còn
không sống đúng thì thôi... Cho nên, kẻ nào lợi
dụng chiếc áo
tu sĩ Phật
giáo sống trong chùa to Phật lớn,
phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới. Đó
không phải là tu sĩ Phật giáo, họ không phải là Thầy của các bạn, họ là những
người đang phá hoại Phật giáo. Các bạn hãy đề cao cảnh giác
những hạng thầy
này. Ngày xưa đức Phật ví những vị thầy này là những loại
trùng trong lông
sư tử! Vậy các bạn
nên lưu ý và cẩn thận đừng
nghe theo họ
mà phí uổng một đời người.
XÁ LỢI
LỜI PHẬT DẠY
‚Dân chúng Mạt
La bảo nhau:
‚Ngọn lửa cháy mạnh quá, khó dặp
tắt e cháy tiêu hết xá lợi! Chúng ta hãy lấy nước ở đâu để tưới?‛.
(Kinh Trường
A Hàm tập I trang 228, kinh Du Hành)
CHÚ GIẢI:
Đoạn kinh
này đã xác định xá lợi của Phật chỉ là những mảnh
xương vụn, cháy chưa hết, chứ
không phải do tu
tập thiền định mới có xá lợi.
Kính thưa các bạn! Trong cuộc đời ác trược này,
người tu sĩ khi chết
mà còn lừa đảo thiên hạ
thì không bằng người
thế tục sống
lương thiện không lường gạt lừa đảo ai hết. Lợi dụng sự không biết của
tín đồ, bịa đặt ra: do tu thiền tinh tủy kết tinh lại thành xá lợi lửa đốt
không cháy. Người Phật tử nghe đâu tin đó
chứ không
xem xét kỹ
nên sự tin như vậy là tin mù quáng. Từ lòng
tin này Phật tử người ít kẻ
nhiều góp nhau xây tháp to lớn đồ sộ để thờ
xá lợi.
Chỉ có xá lợi
mà đã lường gạt biết bao nhiêu người trên thế gian này. Họ bảo rằng: Do tu thiền
định mới có xá lợi. Trong
khi mọi người chưa có ai biết thiền
định và nhập như thế nào? Vậy mà dám bảo do tu thiền định
mới có xá lợi.
Kính thưa
các bạn! Các bạn
cứ hỏi
các vị Sư, Thầy: “Thiền
định như thế nào?
Tu thiền định là tu như thế
nào?”.
Họ sẽ trả lời các bạn: “Tu
thiền định là phải điều
thân, điều tâm,
điều tức, Sổ tức
quán, Lục diệu pháp môn, chăn trâu, giữ ông chủ, biết vọng liền buông, phồng xẹp
v.v.. Đó là tu thiền”.
Người mà đã
chứng đạt chân lí, có đủ Tứ Thần
Túc, họ đã nhập định và
biết rõ thiền định như thế
nào? Vì thế,
khi nghe quý vị trình bày
những pháp môn
tu thiền định như vậy, thì họ biết ngay là quý vị chưa
bao giờ biết thiền định, chưa bao giờ nhập định. Những pháp tu tập trên
đây làm sao nhập
định được. Định mà quý vị tu tập là những pháp môn ức chế tâm, định này
mà nhập là các bạn đã bị rơi
vào định tưởng,
chứ không phải
nhập thiền định như vậy. Vì lối tu tập
của quý vị là lối
tu tập ức chế ý thức cho hết niệm khởi, chứ không phải thiền
định gì cả, đó
là một loại
thiền tưởng.
Xin các bạn hãy đọc lại đoạn kinh Nguyên Thủy này
thì sẽ rõ: ‚ Thưa Ni Sư thế nào là định? Thế nào là định tướng? Thế nào là định
tư cụ? Thế nào là định tu tập?
‚ – Này Hiền giả
Visaka, nhất tâm là định, bốn niệm xứ là định tướng, bốn tinh
cần là
định tư cụ, sự luyện
tập, sự tu tập,
sự tái tu tập của những pháp ấy là định tu tập ở đây vậy‛.
Muốn thấu
rõ thiền định thì phải
hiểu rõ những cụm từ này:
1. định
2. định tướng
3. định tư cụ
4. định tu tập
Như trong đoạn
kinh Nguyên Thủy này Ni Sư Dhammadinna đã
trả lời ngắn gọn, nhưng rất
đầy đủ cho những
ai muốn tìm hiểu
thiền
định của Phật
giáo. Vậy nghĩa
lý của những cụm từ trên đây là gì?
1- Định
là nhất
tâm. Vậy nhất tâm là
gì? Từ xưa đến
nay nhiều người
chưa biết thiền định nên họ đều nghĩ
nhất tâm là
tâm không có vọng tưởng hay nói
cách khác là tâm không có niệm khởi, ‚Chẳng niệm thiện niệm ác‛ hoặc ‚Thất nhật
nhất tâm bất loạn chuyên trì danh hiệu A
Di Đà Phật‛.
Định nghĩa nhất tâm như vậy là
các bạn đều nhai
lại bã mía của Đại Thừa và các
giáo phái Bà La Môn.
Chữ nhất tâm
của Ni Sư Dhammadinna quá ngắn gọn làm
cho người ta không
hiểu rõ. Định là nhất tâm. Thì họ
lại càng điên đầu suy diễn theo định kiến của mỗi kiến giải, càng suy diễn theo
tưởng giải khiến cho người ta lại không hiểu định là gì nữa.
Thậm chí các
nhà khoa học đem máy móc ra đo để tìm hiểu
những người nhập định, thấy bộ óc có sự
rung động thay đổi hoặc ngưng một vài bộ phận nào trên não là vội kết luận cho
những người này nhập định.
Kính thưa
các bạn! Các
bạn nên biết: Định mà các Sư
Thầy đã
nhập đó là một loại thiền định tưởng như đã nói ở trên, do ức chế ý
thức để tưởng thức
hoạt động. Cho
nên, máy móc các
nhà khoa học đo đạc
cho biết trên bộ óc có phần bị ức chế,
có phần hưng
phấn. Nhưng những loại định
này là
thiền định của ngoại đạo,
chứ không phải
là thiền định của Phật
giáo. Muốn định
nghĩa chữ ‚định‛
theo nghĩa của ngoại
đạo chứ nghĩa
của Phật giáo thì định là chỗ tâm bất động trước các
pháp ác và các cảm thọ. Định của
Phật còn có
tên là bất động tâm, còn có tên
là vô tướng tâm tức không có ba tướng làm tâm động, đó là dục lậu, hữu lậu và
vô minh lậu. Cho nên, chữ nhất tâm của Ni Sư Dhammadinna có nghĩa
là bất động tâm, chứ không phải chỗ tâm không niệm
khởi, chỗ tâm không vọng tưởng.
Các bạn có
bao giờ nghe Phật dạy:
‚giới sinh định‛ chưa? Giới
là pháp
môn ly dục ly
ác pháp,
vì thế khi tâm
ly dục ly
ác pháp thì tâm nhập Bất Động Tâm Định. Bất Động Tâm
Định không phải chỉ biết hít vô
thở ra không có vọng tưởng. Các bạn
hiểu như vậy là các bạn hiểu sai lạc.
Chỗ ly dục ly
ác pháp là chỗ tâm bất
động, chứ không phải chỗ hơi thở ra vào.
Khi tâm bất
động, tâm định trên thân hành tức là
thân động dụng chỗ
nào là tâm
biết ngay chỗ
ấy như hơi thở ra vô, chứ
không phải như người tu theo pháp Hơi
Thở dùng hơi thở để tập trung tâm, chế ngự tâm, ức chế tâm, nhiếp phục
tâm, làm cho tâm không khởi niệm. Đó là một sự hiểu sai lầm. Do sự hiểu sai lầm
thành ra tu sai lầm. Cho nên,
định là do sống không làm khổ mình,
khổ người có
nghĩa là sống mà không tham sân
si, mạn, nghi là định. Người sống giới luật nghiêm chỉnh không hề vi phạm những
lỗi nhỏ nhặt
nào, thì người ấy nhập định. Do đó mà Ni Sư Dhammadinna xác định, định tướng là
Tứ Niệm Xứ.
Kính thưa
các bạn! Tứ Niệm Xứ
là một trạng thái
tâm thanh thản,
an lạc và vô sự đó là tướng của định bất động tâm như Ni Sư
nói:
‚Bốn Niệm Xứ
là định tướng‛. Như vậy kinh sách Nguyên
Thủy đã xác định rõ
ràng về thiền định. Vậy
ai nói sai hoặc kinh sách
nào nói không đúng định tướng của Phật là kinh sách và người nói ấy đã
nói về thiền
định của ngoại đạo, chứ
không phải nói về thiền
của Phật giáo.
Ông Visakha
hỏi: ‚Tu thiền
định là
pháp môn
nào?‛.
Ni sư
Dhammadinna đáp: ‚Bốn
chánh
cần là định tư cụ‛.
Tứ chánh
cần là định tư
cụ tức là
phương pháp dùng để tu
tập thiền định. Như
vậy rõ ràng tu tập thiền định là
ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp chứ không phải tu thiền
định là ngồi kiết già, lưng thẳng, hít vô thở ra, tập trung tâm ở tại mũi, ở
trán, ở bụng phình xẹp, hay ở
đan điền v.v.. Người tu tập
phải hết sức cố gắng tập trung
tâm như vậy, làm
cho vọng tưởng
không sanh khởi. Vọng tưởng không sanh khởi, họ cho đó
là tu thiền, nhập định. Tu thiền, nhập định như vậy là sai
không đúng thiền
của Phật giáo
như Ni sư Dhammadinna dạy:
‚Bốn chánh cần là định
tư cụ‛.
Ở đây chúng
tôi xin nói với các bạn:
Nếu cứ tập trung
hít thở thì ‚Đó là loại thiền định
tưởng của ngoại
đạo, tu như
vậy chẳng có ích lợi gì.
Tâm tham, sân, si của các bạn vẫn còn nguyên, cho nên các bạn
không làm chủ bốn sự đau khổ:
sanh, già, bệnh, chết
và không chấm dứt tái
sinh luân hồi‛.
Kính thưa các bạn! các bạn có biết phương pháp tu
tập Tứ Chánh Cần chưa? Đó là phương pháp
ngăn ác diệt ác
pháp, sanh thiên
tăng trưởng thiện pháp
mà các bạn phải tu tập
trong bốn
oai nghi, đi, đứng, nằm,
ngồi, để xả tâm
ly dục ly ác
pháp và từ bỏ từ niệm tham, sân, si, mạn, nghi chứ không phải ngồi
kiết già cho hết niệm khởi.
Cho nên, khi nào tâm
các bạn hết tham,
sân, si, là
các bạn nhập định.
Các bạn có biết chưa?
Như vậy
các bạn đã hiểu định là
tâm bất động trước
các ác pháp
và các cảm thọ. Cho nên,
Ni Sư Dhammadinna dạy: ‚Định tướng là
Tứ Niệm Xứ‛, tức là
tâm thanh thản,
an lạc và vô sự. Còn pháp tu tập thiền định thì hằng ngày thì Ni Sư
Dhammadinna dạy: ‚Sự luyện tập, sự
tu tập, sự
tái tu tập của
những pháp ấy
là định tu tập
ở đây vậy‛. Các bạn có nghe lời dạy này không? Hằng
ngày luyện tập, tu tập, tái
tu tập ngăn
ác diệt ác pháp, sinh
thiện tăng trưởng thiện pháp là các bạn đã tu tập thiền định của Phật
giáo, chứ không phải ngồi kiết già lưng thẳng, hít thở hoặc giữ tâm không vọng
tưởng v.v..
Xét qua
trong kinh sách Nguyên Thủy, các bạn mới thấy kinh sách Đại Thừa và Thiền
Đông Độ
dạy tu thiền
không giống như Phật
dạy. Có đúng như vậy không các bạn?
Vậy mà
các Tổ Sư Đại Thừa bảo rằng:
kinh sách Đại
Thừa do Phật thuyết, thật là oan
cho đức Phật.
Đức Phật không dạy mà các Tổ gán cho Phật dạy những pháp
thiền định tu tập điên khùng khiến cho những người có
nhiệt tâm tu hành thành bệnh thần kinh; khiến cho những người
có lòng tin Phật
pháp trở thành những
người mê tín dị
đoan; khiến cho những người có
lòng tin Phật pháp
trở thành những người tin mù quáng. Thật đáng thương! Họ
còn cho rằng: ‚Người
tu thiền khi chết để
lại xá
lợi rất nhiều. Đó là mánh khoé lừa đảo người tu hành, khiến cho người ta
nghĩ sai về Phật giáo.
Với thân tứ
đại duyên hợp bất tịnh này là vô thường, có gì quan trọng, khi chết sẽ thành cát bụi, còn có gì quý báu nữa đâu,
thế mà lừa đảo để làm
tiền thiên hạ thật là một hành động đáng chê trách.
Tóm lại, khi
tin theo một tôn giáo nào thì các bạn phải xem xét
cho thật kỹ, tôn
giáo ấy có phải là một chân lí
không?
Kính thưa các bạn! Chân lí là một sự thật mà mọi người
ai cũng phải
nhận ra được. Nếu một tôn
giáo không phải
là sự thật
mà là một ảo tưởng thì xin các bạn hãy tránh xa, nếu các bạn tin thì đó
là các bạn tin mù quáng, các bạn sẽ trở thành
những người mê
tín, lạc hậu v.v.. Vì đó
là một tôn giáo
lừa đảo, chẳng có lợi ích
gì cho
các bạn
về trí tuệ nhân
quả, hay về sự
giải thoát bốn nỗi khổ: sanh, già, bệnh chết.
Trên đời này
các tôn giáo thường hay lừa đảo con người bằng
Thánh khải, cơ bút
giáng v.v.. hoặc tạo ra những thần thông tưởng, nói chuyện quá khứ vị
lai, trị bệnh
bùa chú, từ trường
tưởng v.v.. Các bạn đừng vội
tin vì tất cả những hiện tượng
đĩ, nó không phải là chân lí, nó lưu xuất từ tưởng uẩn của các bạn.
DANH VÀ LỢI
LỜI PHẬT DẠY
‚Này Tỳ
kheo, Trên đường
tu học
khi có danh,
có lợi thì nên ẩn bóng‛.
CHÚ GIẢI:
Lời dạy
trên đây là đức
Phật
khuyên răn chúng ta tu học khi có danh
có lợi thì nên ẩn bóng, có
nghĩa là khi có
Phật tử cung kính tôn
trọng và cúng
dường thì tâm dễ
sanh đắm nhiễm thì nên ẩn bóng, có nghĩa nên tránh xa
danh lợi, vì
danh lợi dễ làm
cho chúng ta ô
nhiễm. Các bạn
hãy lắng nghe đời sống viễn ly của đức Phật,
tránh xa danh
và lợi: “Trong khi Ngài sống viễn ly như vậy, các Bà La Môn, gia
chủ, cả
thị dân và quốc
dân bao vây xung quanh. Được bao
vây xung quanh như vậy. Ngài không khởi lên nhiễm tâm, không rơi vào dục
vọng, không khởi lên tham ái,
không trở lui lại đời sống sung túc‛.
Đây, các bạn có nghe chăng? Có danh, có
lợi như đức
Phật, thế mà Ngài không đắm nhiễm, không trở lui lại đời sống sung túc, luôn
luôn giữ hạnh ba y một bát, ngày ăn một bữa, sống không nhà cửa, không chùa to
Phật lớn. Còn các Thầy Đại Thừa và Thiền Tông thì sao? Trở lui lại đời sống
sung túc, ăn uống, ngủ nghỉ phi thời. Có đúng như vậy không các bạn?
Theo gương hạnh
của Phật khi tu hành được đôi chút chúng
ta có danh,
có lợi thì nên tránh xa danh
lợi tìm cách từ chối hoặc bằng
cách ẩn bóng hoặc không nêu lên tên tuổi của mình, đừng để cho mọi người biết.
Trong các trường lớp tu hành chúng tôi đã thấy rất
rõ ràng, người ta tu hành thời nay thường để
tạo danh tạo lợi bằng cách làm quen với Phật tử, nhất là Phật tử giàu
có, chứ không phải lo tu tập giải thoát.
NGƯỜI TU
SĨ CẦN PHÂI GHI NHỚ
LỜI PHẬT DẠY
bi.
1- Thân thường thể hiện hạnh
từ
2- Miệng thường
nói lời nhân từ.
3- Ý thường tâm
niệm thương xót,
không ôm lòng thù hận thêm bớt.
4- Chỉ nhận sự cúng dường vừa đủ.
5- Giữ
gìn giới của
Thánh hiền không tổn khuyết.
6- Nhận đạo
Thánh hiền quyết dứt hết gốc khổ.
CHÚ GIẢI:
Đức Phật dạy:
‚Thân thường thể hiện hạnh từ bi‛.
Lời dạy này đức
Phật thường nhắc nhở chúng ta mỗi
hành động nơi thân đều thể hiện lòng
yêu thương sự sống của
muôn loài. Vì thế, người
đệ tử của Phật dù cư
sĩ hay tu sĩ đều phải sống giữ gìn từng
mỗi hành động
của thân
mình, làm bất cứ một việc gì đều phải cẩn
thận, ý tứ, tỉnh thức để tránh những
hành động vô tình hay hữu ý làm tổn
thương đau khổ tất cả những
loài vật đang sống
quanh chúng ta. Vạn vật và
chúng ta đang sống
trên hành tinh này đều
sinh ra từ một
môi trường sống, cùng lớn lên trong môi trường ấy, nên
chúng ta phải yêu thương
nhau như anh em
trong một nhà cùng
cha cùng mẹ. Muốn được lòng
yêu thương ấy đối với tất cả mọi người mọi
loài trên hành tinh này
thì chúng ta thường
tác ý nhắc tâm: “Thân thường thể
hiện hạnh từ bi, thân không được
làm điều ác
luôn luôn phải thực
hiện điều thiện,
phải chánh niệm tỉnh giác trong từng hành động, tránh làm đau
khổ mình, đau khổ người và đau khổ các loài vật khác”. Khi nhắc tâm như vậy
chúng ta thấm nhuần hạnh từ bi và tâm rất tỉnh thức. Nhờ đó cuộc sống
của chúng ta
lúc nào cũng
thanh thản, an lạc và vô sự.
Nếu chúng ta
quyết tâm thân thường thể hiện hạnh từ
bi thì phải suy tư
cho cặn kẽ về sự sống
của muôn loài
thì chúng ta hiểu rằng:
“Tất cả
những loài vật đang sống
trên hành tinh này đều là
anh em, chị em cùng cha, cùng mẹ chung trong một nhà
nhân quả’’ như đã
nói
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP IV
ở trên,
chứ đâu phải vạn vật
trên hành tinh này là xa lạ. Nhưng khi sinh ra, tùy theo duyên hợp mà
có sự sai
khác hình hài,
tính tình. Do đó, chúng ta lầm chấp, phân chia ra nhiều loài khác nhau,
rồi lại ăn thịt lẫn
nhau, “con vật lớn giết con vật nhỏ, người mạnh ăn hiếp
người yếu”. Vì thế, đức Phật
thường răn nhắc
chúng ta: ‚Thân thường
thể hiện hạnh
từ bi‛. Thân thường thể hiện hạnh
từ bi, tức là thân thường hành động không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả
chúng sinh. Nhất là không bao giờ ăn thịt
lẫn nhau thì mới gọi là thân thường thể hiện hạnh từ bi.
Theo đúng
như lời Phật đã dạy: ‚Thân thường thể hiện hạnh
từ bi‛ tức là mỗi hành động phải thực
hiện lòng yêu
thương sự sống của
muôn loài trên
hành tinh này thì cuộc
đời này sẽ hạnh
phúc biết bao! Thế
gian này là thiên
đàng, cực lạc.
Có đúng như vậy không quý vị?
Đức Phật dạy:
‚Miệng thường nói lời nhân từ‛. Vậy nói lời nhân từ như thế nào?
Muốn hiểu rõ
câu này thì nên hiểu hai chữ
NHÂN TỪ. Vậy
nhân từ là gì?
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!