của Phật giáo. Kinh sách Đại Thừa là kinh của Bà La Môn mạo nhận là kinh sách Phật chứ thực chất của nó nằm gọn
trong
những
bộ
kinh Vệ Đà.
Kinh sách Nguyên Thủy phần đông
trong những bài kinh như thế này đã xác định và phân biệt rõ ràng pháp nào của Phật
và pháp của ngoại đạo, không thể
lẫn lộn nhau được.
Như
đã nói
ở trên giáo pháp
của
Phật
là
một
chương trình giáo dục đào tạo những bậc A La Hán, chứ không phải là
những ngôn thuyết suông
như kinh sách Đại Thừa. Cho nên người nào
đã tu học theo
Phật giáo Nguyên Thủy đúng theo
chương trình Bát
Chánh Đạo thì không
bao giờ bị Đại Thừa và Thiền Tông
lừa đảo được.
Theo chúng tôi khuyên mọi người tu học theo Phật giáo thì
nên dựa vào Bát Chánh Đạo và phải được sự hướng
dẫn
của một
bậc Thầy đã tu chứng quả A
La Hán, thì con
đường tu tập sẽ được dễ dàng hơn,
không
còn
khó khăn và sợ bị
lừa đảo
tu sai lệch vào pháp môn của ngoại đạo.
Chúng tôi ước nguyện
ngày
mai sẽ có chương trình giảng dạy trong tám lớp học này thành lập và mở cửa đón nhận
những
người con thân thương của Phật giáo về tu học.
Chừng đó Phật giáo
mới được chấn chỉnh hoàn toàn, tà pháp
không xen lẫn vào kinh sách của Phật được nữa. Đó là ước vọng của chúng tôi, nhưng ngày mai có thành tựu
được
hay
không là do phước của chúng sanh, riêng chúng tôi sẽ cố gắng làm hết sức mình để đền đáp ơn muôn một
của
đức
Phật
Bát Chánh Đạo là chân lý của
loài người, là phương pháp triển khai cuộc sống trên thế gian trở thành cảnh giới
Thiên Đàng, Cực Lạc v.v… là chương trình giáo dục đào
tạo đạo đức nhân bản -
nhân
quả của con người để trở thành những
bậc
A La Hán (vô
lậu) hoàn toàn.
B ởi
vậy
B
át Chán h Đạo là b áu
v ật vô giá nh ất củ a loài
n gười. Kh i n ăm
an h e m
Kiều T rần
Như
đ ượ c
n gh e
Ph ật
thuyết b ài
p h áp
n ày lần đ ầu
tiên .
Kh i
n gh e
x on g
cả n ă m
n gười
đ ều
trở thàn
h n h ữn g
b ậc p h áp n h ãn
than h tịnh
, có
n gh ĩa
là
các Ngài đ ã
t h ấu
rõ các
p h áp
trên
t h ế
gian
n ày
n h ư
thật
k h ôn g còn
một sự h iểu
lầm
lạc
n ào cả, k h ôn g
còn
có một tôn giáo n ào,
một giáo p h áp n ào
lừa
đảo các Ngài
đ ược.
B
ao n h iêu
k iến ch ấp n h ữn g ph áp môn củ a n goại
đ ạo từ xa xưa n h ư k inh Vệ Đà các
Ngài
đ ều
n ém
b ỏ xu ốn g
h ết.
Vì
thế,
cá c
Ngài
mới đ ược gọi là ch ứn g
p h áp nh ãn
than h
tịnh .
Kính thưa các bạn! Chúng tôi đã vạch cái sai của Đại Thừa và Thiền Tông có chứng cứ lời Phật dạy hẳn hoi,
để dựng lại giáo pháp đúng của Phật. Đó
là Bát Chánh Đạo. Một chương trình giáo dục đào tạo những bậc
A La
Hán. Thế mà các bạn chưa chịu nhận ra sao? Hôm nay, đoạn
kinh này lời
di
chúc cuối cùng của
đức
Phật: “Trong giáo pháp
và giới luật nào không có
Bát Chánh Đạo thì không có
Sa
Môn”. Lời xác định
này
rõ ràng không còn ai chối cãi được. Lời dạy trên có nghĩa là trong giáo pháp và giới luật
nào không
có Bát Chánh Đạo là không có
đệ
tử của Ta.
Chữ Sa Môn có nghĩa là những người tu theo Phật giáo.
Khác với
Bà La Môn là những người
tu theo ngoại đạo.
Trong đoạn kinh này Sa Môn chỉ cho những người đệ tử
của Phật, chứ không phải Sa Môn giành riêng cho tu sĩ, các
bạn
đừng hiểu sai, nên hiểu chữ Sa Môn là chỉ chung trong giới đệ
tử của Phật. Chúng
đệ
tử của Phật gồm có:
Cư sĩ nam Sa Môn thứ nhất
Cư sĩ nữ Sa Môn thứ
hai
Tu sĩ nam Tăng
Sa Môn thứ ba
Tu sĩ nữ Ni Sa
Môn
thứ tư
Từ xưa đến nay người ta
hiểu
hai chữ Sa Môn là những
chữ giành riêng cho giới tu sĩ (Tăng, Ni). Nhưng trong đoạn kinh này
đã xác định chương
trình tu học Bát Chánh Đạo mới có Sa Môn thứ nhất, thứ nhì, thứ
ba
và thứ tư, như vậy Sa Môn là chỉ cho những người đệ tử của Phật, do
đó giáo pháp và giới luật nào
có Bát Chánh Đạo thì mới có đệ tử của Phật còn giáo pháp và giới luật nào không có
Bát Chánh Đạo là
không có đệ tử của Phật. Như vậy giáo
pháp
Mật tông, Tịnh Độ tông, Pháp Hoa tông, Thiền tông có Bát Chánh Đạo không? Hoàn toàn không.
Phải không các bạn?
Cho nên, giáo pháp và
giới luật của Đại Thừa và Thiền
Tông
đều không có nằm
trong chương trình Bát Chánh
Đạo thì
làm sao
gọi
là giáo pháp
của
đức Phật được. Chính nó
là giáo pháp của kinh sách
Vệ Đà.
Tóm
lại,
bài kinh này đã xác định giáo pháp của Phật là
giáo pháp Bát Chánh Đạo rất rõ ràng. Vậy mong các bạn
hãy
suy ngẫm đúng đắn, đừng để rơi vào tà kiến của các
Tổ Sư, đừng cố chấp những kiến
giải của Đại Thừa, nó sẽ dẫn các bạn đi vào con đường sai lầm. Uổng phí cả một
đời tu theo Phật giáo mà không nếm được mùi vị giải
thoát của Phật giáo,
Thật
là đáng thương.
LỜ I P H ẬT DẠ Y
HỘ TRÌ CHÂN LÍ
“Thƣa Tôn giả Gotama, cho đến mức độ nào là hộ trì chân lí? Cho đến mức độ nào chân lí hộ trì?
chúng
con
xin hỏi Tôn giả Gotama về hộ trì chân lí.” (Kinh Trung Bộ tập II
Trang
227 Kinh Canki.)
CH Ö GIẢ I:
Kính thưa các bạn! Bất cứ một
tôn giáo nào, khi các bạn
muốn đến với tôn giáo ấy thì lòng tin của các bạn là trước tiên, khi có lòng tin thì các
bạn
mới siêng năng thực
hành
giáo pháp của tôn giáo đó. Thực
hành giáo pháp đó gọi là
hộ
trì chân lí, nhưng khi hộ trì chân lí mà các bạn chưa
giác ngộ và chưa chứng
đạt chân lí đó thì các bạn không nên vội kết luận một chiều: “Chỉ đây là sự thật, ngoài ra là
sai lầm” Bởi vì các bạn là những người đang tu tập giáo pháp đó
chứ
chưa phải là người
tu chứng đạo.
Cho nên đoạn kinh trên đây do một vị Bà La Môn hỏi
Phật: “Cho đến mức độ nào ngƣời tín đồ hộ trì chân lí hay nói cách khác chân lí đƣợc hộ trì”. Ở đây các bạn nên lưu ý: “Cho đến mức độ nào ngƣời tín đồ hộ trì chân lí”. Lời
dạy này
có nghĩa là
các bạn phải
hiểu
biết về chân lí ở mức
độ phải thông suốt như thật.
Nếu sự hiểu biết của các bạn chưa thông suốt chân lí như thật mà vội tu tập là các bạn
tu tập không đúng
pháp, lòng tin của các bạn là tin mù quáng, Tin mù quáng mà các bạn tu tập thì cũng chỉ hoài
công vô ích mà thôi. Khi các bạn đã ngộ được chân lí, thì sự tu tập của các bạn là
do lòng tin
không mù quáng, lòng tin chân thật.
Từ lòng tin chân thật mà tu tập, đó là các
bạn
hộ trì chân lí hay nói cách khác là chân lí được hộ trì.
Chân lí còn đang hộ trì thì sự tu hành của các bạn chưa chứng đạt chân lí, chưa chứng đạt chân lí thì các bạn
không được
quyền kết luận: “Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều sai lầm”.
Câu này dạy
rất rõ người tu chưa
chứng đạo
thì không có
quyền nói
pháp
mình đúng nói pháp người khác sai. Các bạn có
hiểu chưa?
Ví du: Đức Phật là người đã tu tập giác ngộ và chúng đạt
chân lí, nên Người có quyền kết luận: “Chỉ đây là sự thật,
ngoài ra điều là sai lầm”. Thầy Thông Lạc cũng vậy, là người đã làm
chủ được sanh, già, bệnh, chết và chứng ngộ được chân lí. Người có quyền nói: “Đây là
giáo pháp
Nguyên Thủy của Phật là đúng, là sự thật;
còn giáo pháp
Đại Thừa và Thiền Đông Độ là sai lầm, không
đúng
chánh pháp, là giáo
pháp của ngoại đạo
lừa đảo
mọi
người.
Chúng ta hãy đọc kỹ đoạn kinh này, đức Phật đã dạy:
“Này Bharadvaja, nếu ngƣời nào có lòng tin và nói: “đây là
lòng
tin của tôi”, ngƣời ấy là ngƣời hộ trì chân lí, nhƣng
ngƣời ấy không đƣợc kết luận một chiều: “Chỉ đây là sự thật
ngoài ra đều là sai lầm”.
Đoạn kinh trên đức
Phật
đã
xác định rõ ràng: Chỉ mới có
lòng
tin tu tập giáo pháp thì các bạn không được quyền
nói
đúng, nói sai giáo pháp của ai cả. Vì nói đúng, nói sai
là các bạn sai. T r ên
đ ây là n gười mới có
lòn g tin và ch ưa
ch ắc lòn g
tin
đ ó đ ã
đ ún g . Người mới có lòng tin thì sự tu tập chỉ ở giai đoạn hộ trì chân lí bằng lòng tin của mình mà thôi, chưa có
sâu
xa.
Khi các bạn đến chùa nghe
thuyết
giảng, các bạn phải suy
tư cân nhắc mọi lý lẽ để tìm
hiểu
chân lí mà các bạn cần
phải
hiểu. Khi tìm
hiểu
chân lí ấy có đồng một quan điểm
với
các bạn không? Nếu thấy chân lí đó đồng một quan
điểm với các bạn thì các bạn nói: “Tôi chấp nhận chân lí
này,
vì nó
có đồng một quan điểm với tôi, tôi sẽ
hộ trì chân lí này”. Khi các bạn tìm hiểu và chấp nhận tu theo chân lí này đồng một quan điểm thì các bạn không được kết luận một chiều như trong kinh đã dạy: “chỉ đây là sự thật ngoài
ra là sai lầm”.
Trên đây là giai đoạn 2 hộ trì chân lí bằng nghe thuyết
giảng, tuỳ văn cùng một quan điểm. Nhưng ở
đây
chưa phải là giác ngộ chân lí.
Những điều chúng tôi chú giải trên đây là đức Phật đã
dạy:
“Này Bharadvaja, nếu có ngƣời có lòng tùy hỉ …; nếu
có
ngƣời có lòng tùy căn…, nếu có ngƣời có sự cân nhắc…, suy tƣ các lý do…; nếu có ngƣời chấp nhận một quan điểm và nói: “Đây là sự chấp nhận quan điểm của tôi” ngƣời ấy hộ trì chân lí nhƣng
ngƣời ấy không đi đến kết luận một
chiều: “đây là sự thật, ngoài ra là sai lầm”. Cho đến nhƣ vậy này Bharadvaja, là hộ trì chân lí chúng tôi chủ trƣơng
hộ
trì chân lí nhƣng ở đây chƣa phải sự giác ngộ chân
lí…”.
Tóm lại hộ
trì chân lí có 5 điều
cần phải thông hiểu:
Tín (lòng tin)
Tùy hỉ hợp ý
Tùy văn (nghe thuyết
giảng) Cân nhắc suy
tư các lý do. Chấp
nhận cùng quan điểm.
Người mới tu tập còn nằm trong năm
điều
này tức là đang hộ trì chân lí, chứ không phải giác ngộ chân lí mà cũng chưa chứng đạt chân lí. Chưa chứng đạt chân lí thì không được kết luận vội vàng cho pháp môn của mình đang tu
tập là đúng mà các pháp môn khác là
sai. Chừng nào chứng đạt
được
chân lí thì mới cho rằng: “Chỉ có đây là sự
thật, ngoài ra là sai lầm”.
Tóm
lại lòng tin do giác ngộ chân lí; do tùy hỷ hợp ý; do nghe thuyết giảng
đồng
quan
điểm; do cân nhắc suy tư các lý do; do
chấp
nhận đồng quan điểm mà hộ trì chân lí thì
không
được quyền
nói:
“Chỉ có đây là
sự thật, ngoài ra là sai
lầm”. Dù năm điều trên đây là để các bạn có lòng tin mà hộ trì chân lí, nhưng các bạn chưa giác ngộ chân lí,
nên sự tu tập của các bạn chưa chắc
đã
đạt được chân lí. Chỉ khi nào các bạn gặp được một bậc thầy tâm đoạn dứt
tham, sân, si. Người ấy khai ngộ cho các bạn thì chừng ấy
các bạn mới giác
ngộ
chân lí. Giác
ngộ
chân lí các
bạn
tu tập mới chứng đạt chân lí. Chỉ khi nào chứng đạt được
chân lí thì
các bạn mới được quyền nói câu trên đây.
LỜ I P H ẬT DẠ Y
GIÁC NGỘ CHÂN LÍ
“Thƣa Tôn giả Gotama. Cho đến mức độ nào là giác ngộ chân lí? chúng con xin hỏi Tôn giả Gotama về giác ngộ chân lí”. (Kinh Trung Bộ
tập II kinh Canki trang 728)
CH Ö GIẢ I:
Gíác ngộ chân lí tức là
hiểu
rõ chân lí. Vậy chân lí ở đây là
gì?
Đoạn kinh trên đây do Bà La Môn Bharadvaja hỏi đức
Phật muốn giác
ngộ chân lí phải làm sao?
Theo Phật giáo Nguyên Thủy thì chân lí không phải
ở đâu xa mà ở tại nơi tâm con người. Nếu một
người còn tâm tham, sân, si mà không biết mình còn tâm tham, sân, si là người ấy chưa ngộ chân lí. Người giác ngộ chân lí là người biết rõ tâm có tham, biết tâm có tham, tâm có sân biết tâm
có
sân, tâm có si biết tâm có si. Người biết như vậy là
người
đã giác ngộ chân lí.
Người giác
ngộ
chân lí là người ngay trên bốn chỗ thân,
thọ, tâm và pháp mà
nhiếp
phục các ác pháp và ly các
dục. Nhờ có ly dục ly ác pháp trên bốn chỗ thân, thọ, tâm và pháp là họ
chứng đạt được chân lí.
Người chưa giác ngộ chân lí,
nên nghe ai nói
gì hợp với quan điểm của mình là tin ngay liền. T in
một cách mù
q u án g vì
thế
b ỏ h ết cả
cu ộc
đ ời
đ i theo tôn giáo
mà ch ẳn g
có lợi ích gì và sự tu h àn
h cũ n g ch
ẳn g đ ến đ âu
cả . Các bạn
có thấy mọi người tín ngưỡng tôn giáo với lòng tin mù
quáng không?
Các Thầy Đại Thừa tin mù quáng theo kinh sách Đại
thừa, cả cuộc đời của quý Thầy chỉ chạy theo
danh và lợi
để rồi chết trong đau khổ và bệnh tật, chẳng có nếm
được
mùi
vị giải thoát.
Đây, các bạn hãy nghe
đức
Phật dạy mà suy ngẫm lại các
Thầy
Đại Thừa: “Này Bharadvaja, Tỳ kheo sống gần một
làng
hay một thị trấn. Một gia chủ hay con trai của một gia chủ đi đến vị ấy và tìm hiểu vị ấy trong ba pháp, tức là tham pháp, sân pháp và si pháp. Ngƣời này nghĩ rằng: “Không
hiểu
vị Tôn giả ấy có còn tham ái hay không?
Do những tham ái này, tâm vị ấy bị chi phối dầu không biết vẫn nói: “Tôi
biết”, dầu không thấy vẫn nói: “Tôi thấy” hay xui
khiến ngƣời khác có những hành
động khiến ngƣời ấy
không đƣợc hạnh phúc, phải đau khổ lâu dài”. Đoạn kinh này đã xác
định rõ ràng. Nếu xét thấy
vị Tỳ kheo nào còn bị tham pháp, sân
pháp, si pháp thì người ấy chưa chứng
đạt chân lí. Người chưa chứng đạt chân lí chỉ là người mới
hộ trì
chân lí. Người mới
hộ trì chân lí mà
nói
người này sai, người
kia đúng là người mù mắt mà nói mầu sắc.
Cho nên vấn đề tu tập
theo Phật giáo hành giả phải giác ngộ chân lí. Nhưng giác ngộ chân lí cũng chưa được quyền nói:
“Chỉ đây là sự thật, ngoài
ra là sai lầm”.
Người chưa giác ngộ chân lí giống như
các
Thầy Đại thừa không biết, không thấy vẫn
nói thấy biết để lừa đảo dạy
người khác tu
tập khiến cho người khác
phí
công sức, tốn
tiền bạc mà chẳng được sự an vui lợi ích gì: “Do những
tham ái này, tâm vị ấy bị chi phối dầu không
biết vẫn nói: “Tôi
biết”, dầu không thấy vẫn nói: “Tôi thấy” hay xui
khiến ngƣời khác có những hành
động khiến ngƣời ấy
không đƣợc hạnh phúc”, Bài kinh này dạy rất đúng tâm lý
của các thầy Đại Thừa.
Phải
không
các
bạn?
T
u h ành
ch ưa
đ ến
đ âu , ch ỉ ở trên k in h sác h
thu yết
giản g
ch ữ
n gh ĩa,
tâm
còn tham,
sân , si mà
n ói “ tôi
th ấy, tôi b iết”
T
h ật là lừa đ ảo n gười kh ác,
toàn
là
n ói vọn g
n gữ.
Cho
n ên
b ảo
sao
k h i
các vị ch ết
p h ải
ch ịu
b ện h tật
k h ổ đ au vô
cùng.
Những bài kinh trên đây là đức Phật cảnh cáo các Thầy
giảng pháp khi tu hành chưa chứng đạt
chân lí mà dạy
người khác tu thì chẳng đem lợi ích cho ai cả. Mong các
bạn
hiểu cho.
TÂM CÒN THAM, SÂN, SI
THÌ THUYẾT PHÁP
KHÔNG
ĐÖNG PHÁP
LỜ I P H ẬT DẠ Y
“Tôn giả ấy thuyết pháp, pháp ấy thâm sâu khó thấy, khó
chứng tịch tịnh, thù thắng, vƣợt ngoài luận lí suông, tế nhị
đƣợc ngƣời trí chấp nhận, pháp ấy không thể do một ngƣời có
lòng tham, lòng sân,
lòng
si khéo thuyết giảng đƣợc? Sau
khi
xem xét vị ấy và thấy
vị
ấy trong sạch không có những
tham, sân, si pháp, ngƣời này sinh lòng tin đối với
vị ấy. Với
lòng
tin sanh, ngƣời này đến gần, khi đến gần, thân cận giao
thiệp, do thân cận giao thiệp, nên lắng nghe, ngƣời ấy
nghe pháp, liền thọ
trì pháp, rồi tìm hiểu ý nghĩa các pháp
đƣợc
thọ trì, trong khi tìm hiểu ý nghĩa, các pháp đƣợc hoan hỉ chấp nhận. Khi các pháp đƣợc hoan hỉ chấp nhận,
ƣớc muốn sinh khi ƣớc muốn sinh. Liền cố gắng, sau khi cố gắng liền cân nhắc, sau khi cân nhắc ngƣời ấy tinh cần”. Trong khi tinh cần ngƣời ấy tự thân chứng ngộ tối thƣợng chân lí, và khi thể nhập chân lí ấy với trí tuệ, ngƣời ấy thấy. “Trong khi tinh cần ngƣời ấy tự thân chứng ngộ tối thƣợng
chân lí, và khi thể nhập chân lí ấy với trí tuệ, ngƣời ấy thấy. Cho đến mức độ này là sự giác ngộ chân lí, cho
đến
mức độ này, chân lý đƣợc giác ngộ và cho đến mức độ này, chúng
tôi chủ trƣơng sự giác ngộ chân lí, nhƣng nhƣ vậy chƣa phải là chứng đạt chân lí”. (Kinh Trung Bộ
tập II kinh Canki
trang
731.)
CH Ö GIẢ I:
Kính thưa các bạn! Khi chúng ta muốn nghe
một
vị thầy thuyết pháp thì phải tìm hiểu vị Thầy đó tâm còn tham, sân, si hay không? Nếu
một vị Thầy đó tâm còn tham, sân,
si mà thuyết pháp thì phần nhiều họ là những
người nhai
lại bã
mía
của người khác, hoặc của người xưa, họ không thể giảng những pháp thâm sâu, khó thấy, khó chứng, tịch
tịnh, thù thắng vượt ngoài luận lí suông, tế nhị thực tế, cụ thể không trừu tượng,
không
ảo giác vv…
Khi xem
xét một vị Thầy như vậy thì chúng ta không đủ
lòng
tin với họ, họ chưa đủ
trình
độ dạy
tu tập, chưa xứng đáng làm thầy
của
chúng
ta.
Kính thưa các bạn! Hiện giờ các bạn xét qua các
Thầy
Đại Thừa, các vị Thiền Sư Đông Độ, các bạn có thấy họ hết tham, sân, si chưa? Chính họ cũng không biết pháp nào tu tập hết tâm tham, sân, si; chính họ cũng không giác ngộ
được chân lí ly
tham, sân, si; chính họ cũng không
nhận
ra được chân lí tham, sân, si, thì làm sao họ hộ trì chân lí và biết lấy giáo
pháp
gì mà hộ trì.
Nếu các bạn bảo rằng: Chân lí
là Trí Tuệ Bát Nhã, Phật tánh, Chân không, Tánh không, Bản lai diện mục, Cực lạc,
Tây Phương v.v...
Thì chúng tôi e rằng đó là chân lí
ảo.
Xin thưa cùng các bạn! Các bạn có biết chân lí của đạo
Phật là gì không? Các bạn hãy nghiên cứu Tứ Diệu Đế mà
xem thì biết ngay liền. Chân lí đầu tiên của đạo Phật các bạn có biết không? Đó là tâm tham, sân, si của các bạn.
Các bạn có biết không? Nếu tâm các bạn có tham
là biết
tâm
có tham, tâm không tham là biết tâm không tham đó
là các bạn giác ngộ chân lí. Tâm
có
tham các bạn không
biết
tâm có tham là các bạn chưa ngộ chân lí.
Ngộ chân lí
không phải khó. Phải không các bạn? Chân
lí là
một sự thật của con người. Cho nên tâm tham, sân, si là chân lí
không ai có thể phủ nhận được. Ngoài tâm
tham, sân, si đi tìm
chân lí thì
không có
các
bạn ạ!
Cho n ên ,
một vị T h ầy
tâ m còn
tha m,
sân , si
mà thu yết
giản g
d ạy đ ạo
ch o
n gười k h ác tu tập thì làm sao n gười ta
tu tập đ ược. T h u yết
giản g theo k iểu
n gh ĩa
lý
suôn g,
k h ôn g
có mộ t ch ú t
k inh
n gh iêm
t ron g tu tập, thì làm
sao
n gười
k h ác b iết đ âu mà tu tập cho h ết th a m
sân ,
si ?
Bởi vậy trong đoạn kinh này dạy rất rõ ràng: “Ngƣời kia lại
xem xét thêm vị ấy về các pháp tham, sân, si do những
tham, sân,
si pháp
này,
tâm
của vị ấy bị chi
phối
đến nỗi dầu không biết vẫn nói. “Tôi biết”, dầu không thấy vẫn nói
“Tôi thấy”, hay xui khiến ngƣời khác có những hành động tu
hành, khiến ngƣời ấy không đƣợc hạnh phúc,
phải
đau khổ lâu dài”.
Đấy các bạn thấy chưa? Một người tâm
còn
tham, sân, si
mà
dạy người tu hành thì đức
Phật không chấp nhận, cho đó
là những người
lừa
đảo.
Còn xét thấy người ấy tâm hết tham, sân, si mà thuyết
giảng thì những bài thuyết giảng của họ thâm sâu, khó
thấy, khó chứng, tịch tịnh, thù thắng, vượt
ngoài lí luận
suông, tế nhị, thực tế, cụ thể, rõ ràng. Khi được nghe người ấy thuyết giảng thì sinh lòng
tin pháp, tin một cách tuyệt
đối.
Ở đây chúng ta thấy rõ ràng đức Phật dạy phải tìm một vị
Thầy
tâm không còn tham pháp, sân pháp, si pháp, phải gần
gũi vị Thầy đó thưa hỏi và thọ trì những
pháp
mà vị Thầy đó đã tu tập tâm không còn tham pháp, sân pháp và si pháp. Đó
là sự giác ngộ chân lí và
như vậy là chân lí được giác ngộ cho nên ở đây mới giác ngộ đúng chân lí,
ngoài tham pháp, sân pháp, si pháp mà giác ngộ chân lí
thì không bao giờ có
chân lí mà giác ngộ.
Do thấu hiểu bài kinh
này
nên chúng ta biết rất rõ là kinh
sách Đại Thừa không đúng lời Phật dạy, vì chân lí của kinh sách Đại Thừa không phải là chân lí của con người mà là chân lí ảo tưởng. Chân
lí ảo tưởn g là k h ôn g ph ải
ch ân lí .
Cho
n ên
k in h sách Đại thừa k h ôn g có ch ân
lí
. Muốn giác ngộ chân lí không phải khó, vì chân lí không ở đâu xa mà ở ngay trong mỗi người. Như bài kinh trên đã dạy chỉ cần thân cận với một vị thầy chứng đạt chân lí, thì
chúng ta sẽ giác ngộ chân lí dễ dàng. Khi giác ngộ được chân lí thì không bao giờ bị ngoại đạo lừa đảo bằng câu: “Chỉ
đây là sự thật ngoài ra là
sai lầm”.
Cho nên người giác ngộ chân lí thì không
bao giờ còn thối chuyển trên đường tu tập, chỉ còn chứng đạt chân lí nữa mà thôi.
Tóm lại muốn giác ngộ
chân lí thì chỉ cần thân cận với một
vị Thầy tâm không còn tham, sân, si. Vị ấy sẽ chỉ dạy cho các bạn giác ngộ chân lí và hướng dẫn cho các bạn biết
cách hộ trì và chứng đạt chân lí một cách dễ dàng không
có khó
khăn, không
sợ lạc vào tà
pháp.
LỜ I P H ẬT DẠ Y
CHỨNG ĐẠT CHÂN
LÍ
“Cho đến nhƣ vậy, thƣa Tôn giả Gotama
là chứng đạt chân
lí, cho đến nhƣ vậy chân lí đƣợc chứng đạt,
và
cho đến nhƣ vậy, chúng con thấy chứng đạt chân lí. Nhƣng trong sự
chứng đạt chân lí. Thƣa Tôn giả Gotama, pháp nào đƣợc
hành trì nhiều? Chúng con xin hỏi Tôn giả Gotama, trong sự chứng
đạt chân
lí, pháp
nào đƣợc hành trì nhiều?” (Kinh Trung Bộ tập II trang732 kinh Canki).
CH Ö GIẢ I:
Muốn chứng đạt
chân lí tức là muốn tâm thanh
tịnh
không
còn
một chút tham
pháp, sân pháp, si pháp thì phải theo lời Phật dạy trong kinh Canki này mà thực hành thì
mới có kết quả như ý nguyện.
Sau khi được
đức Phật giảng trạch cho chúng ta biết: Cho đến như thế nào là hộ trì chân lí; cho đến như thế nào chân lí được hộ
trì;
cho đến như thế nào giác ngộ được
chân lí;
cho đến
như
thế nào chân lí được giác
ngộ.
Khi thông suốt những
lời dạy này Bà La Môn Bharadvaja mới hỏi Phật: Cho đến như thế nào chứng đạt được chân lí, cho đến như thế
nào
chân lí được chứng đạt. Muốn chứng đạt chân lí pháp nào hành trì nhiều.
Đọc
bài
kinh Canki này ta thấy một giá trị thực hành rất
cao. Đức Phật dạy rất rõ ràng và tỉ mỉ, khi đọc bài pháp
này
chúng ta sẽ không lầm lạc tà pháp của ngoại đạo Đại Thừa
nữa.
Bởi vì loài người chỉ có
một
chân lí chứ không
bao
giờ có hai ba chân lí. Một chân lí chia làm 4 nhánh gọi là Tứ
Diệu Đế.
Tứ Diệu Đế là 4 nhánh chân lí của đạo Phật để xác định một kiếp người.
Nhánh chân lí thứ nhất là “KHỔ ĐẾ”. Khổ đế tức là tâm
tham, sân,
si.
Nhánh chân lí thứ hai là “TẬP ĐẾ”. Tập đế tức là tâm
tham ái
Nhánh chân lí thứ ba là “DIỆT ĐẾ”.
Diệt đế là trong tâm
hết
tham ái.
Nhánh chân lí thứ tư là “ĐẠO
ĐẾ”.
Muốn hết tham
ái (tham, sân, si,) thì phải có một chương trình đào tạo giáo
dục
đó là “ĐẠO ĐẾ”. Đạo
đế còn gọi là Bát Chánh Đạo.
Bát Chánh Đạo tức là 8 lớp học được chia ra trong 3 cấp GIỚI, ĐỊNH, TUỆ.
Người nào giác ngộ chân lí là phải giác ngộ “TỨ DIỆU ĐẾ”.
Giác ngộ Tứ
Diệu Đế mới được gọi
là giác ngộ chân lí.
Còn chưa giác ngộ chân lí, mới hộ trì chân lí,
và chân lí được hộ trì thì coi chừng phải cẩn thận để không rơi vào
tà đạo của ngoại đạo như trong kinh Canki đức Phật đã
dạy:
Người hộ trì chân lí và chân lí được họ
hộ trì là người
mới
đặt lòng tin nhưng
lòng
tin ấy dễ bị mù quáng vì họ chưa giác ngộ được chân lí. Chưa giác ngộ được chân lí mà bảo
đây là chân pháp còn tất cả đều là
sai pháp thì quá
nông
nổi.
Người giác ngộ được chân lí là để tu tập cho mình, chứ không phải giác ngộ được chân lí rồi đem ra bài bác giáo pháp của người khác: “Chỉ đây là sự thật ngoài ra là sai
lầm” Tu tập chừng
nào chứng đạt được chân lí, khi chứng đạt được chân lí mới dám bảo: “Đây là chân pháp còn tất cả đều là sai lầm”. Đó là lời khuyên của đức Phật cho nên
người mới giác ngộ chân lí cũng không
được nói. “Đây là chánh pháp,
còn
tất cả đều sai
lầm” như
trên đã dạy.
Tại sao chúng tôi nhắc nhở câu này rất nhiều? Vì ở đời có nhiều người tu hành chẳng tới đâu, lợi dụng
kiến thức học
hỏi,
cấp bằng, chỉ dùng ba tấc lưỡi chê người này, mạ
nhục, mạt sát người khác. Nhưng không nhìn
lại mình là
con
số không?
Đọc kinh sách Nguyên Thủy đức Phật dạy chúng ta rất
cẩn
thận và kỹ lưỡng, từng li, từng chút, thế
mà chúng ta
không
lưu ý, không chịu hiểu
cho
rõ ràng những
lời Phật dạy, vội cho rằng Phật dạy: “Không đƣợc nói tôn giáo
mình đúng, tôn giáo khác sai, pháp môn mình đúng pháp môn ngƣời khác sai”
Trong kinh sách Phật thường dạy
người mới tu: “thấy lỗi
mình không đƣợc thấy lỗi ngƣời”. Còn
người tu chứng đạt
chân lí thấy cái sai của các tôn giáo khác, đang lừa đảo
lường gạt mọi người mà không dám nói là người hèn nhát,
là xua nịnh vv…
Cho nên muốn
nói
một điều gì tốt thì mình hãy xem mình
có
làm điều tốt được chưa? Nếu mình làm chưa tốt được
mà
nói ra, đó là mình làm
trò cười cho mọi người. Mình
như
đống rác bẩn mà nói kẻ khác bẩn là tự mình đưa mình xuống vực thẳm. Thường người nói xấu để hạ kẻ khác là có ý tỏ ra nâng cao mình là người tốt. Nhưng
không ngờ mình nói xấu kẻ
khác, người hiểu biết, có đạo
đức
nhân bản sẽ đánh giá ngược lại kẻ nói xấu
người khác
là người xấu.
Vì thế, đức Phật thường dạy: “Thấy
lỗi mình đừng thấy lỗi
ngƣời” kẻ nói xấu người khác là kẻ xấu ác. Người xấu ác
là người không tốt, chúng ta không nên tin tưởng, thân
cận
và gần gũi những
người
nói xấu người khác.
Khi đọc kinh sách Phật các bạn đừng
đọc
một bài kinh mà
hãy
đọc toàn bộ tạng kinh thì các bạn mới hiểu được ý
Phật, nếu chỉ đọc một hai bài kinh hay một đoạn kinh thì
chắc chắn các bạn không hiểu ý Phật. Nhất là các bạn
chưa tu chứng đạo thì sự hiểu biết kinh sách của Phật hoàn
toàn
không đúng nghĩa. Đối
với kinh sách Phật người tu chứng đạo mới giảng giải nỗi nghĩa lý thâm
sâu của nó như Phật đã dạy: “Tôn giả ấy thuyết pháp, pháp ấy
thâm sâu khó thấy, khó
chứng tịch tịnh, thù thắng, vƣợt ngoài luận lí suông, tế nhị đƣợc ngƣời trí chấp nhận, pháp
ấy không thể do một ngƣời có lòng tham, lòng sân, lòng si khéo thuyết giảng đƣợc? Như trong bài kinh này dạy: Nếu
tâm tham, sân, si còn đủ thì làm
sao các bạn hiểu được
kinh sách Phật. Không hiểu mà cắt nghĩa một
đoạn
kinh đưa ra vội vàng lên
án người khác sai bằng những lời Phật
dạy
như thế này, như thế khác, để mạ lị mạt sát người
khác
khi mình còn cả
một trời tham, sân, si. Những hành động như vậy các bạn
có
biết không? Đó chính là các bạn đã phỉ báng Phật
pháp. Hiểu thì phải hiểu cho tận nguồn
gốc còn không hiểu thì thôi chứ đừng đọc ba bốn bài kinh
mà
xem mình là hiểu kinh sách Phật thì các bạn quá nông
nổi.
Cho nên khi đọc kinh sách Phật phải đọc toàn bộ những lời Phật dạy như trên đã nói, đừng đọc một hai bài kinh
mà
vội cho Phật dạy như thế này, như thế khác, và như vậy chứng tỏ các bạn không bao giờ hiểu kinh sách.
Các nhà học giả không tu chứng chân
lí mà thuyết giảng kinh
sách Phật thì sự thuyết
giảng ấy sai lệch nghĩa lí cách xa
ngàn
dậm khiến cho Phật giáo suy đồi, chánh pháp của Phật bị dìm mất, chính là những nhà học giả không tu
hành, chưa chứng đạo, nên Phật giáo mới ra nông nỗi ngày hôm
nay. Cho nên từ khi có kinh sách Phật giáo Đại
Thừa
thì chương trình giáo dục đào tạo đạo đức nhân bản
- nhân quả
đã bị đánh mất, Bát Chánh Đạo không còn là 8 lớp học của Phật giáo nữa mà đã biến tám lớp học của
Phật
giáo
(Bát
Chánh Đạo)
thành một
bài pháp
Bát
Chánh Đạo. Thật là sai!.
Xét qua những kiến giải của các Thầy Tổ Đại Thừa, họ đều là những người dò dẫm theo lối mòn tưởng giải của
nhau, giống như một chuỗi người mù, người
đầu
không thấy, người giữa cũng không thấy và người cuối cũng
không thấy mà cứ bảo nhau: “Đây là chánh pháp, còn tất
cả
đều sai lầm” Rồi xúm nhau hộ trì và bảo vệ những chân
lí ảo tưởng ấy. Thật là tội nghiệp, nhưng hễ ai đụng
chạm
đến kinh sách Đại
Thừa thì sân hận
dữ tợn dùng mọi
phương tiện thủ đoạn để hạ
kẻ
đó cho bằng
được.
Theo như lời đức Phật dạy: Muốn chứng đạt chân lí thì
phải
siêng năng tu tập, không siêng năng
tu tập thì không
thể chứng đạt chân lí. Đó là một điều chắc chắn, giác ngộ chân lí chỉ là mới hiểu rõ chân lí, chứ chưa thâm nhập vào chân lí. Chưa thâm nhập vào chân lí thì cũng giống như một người đứng nhìn cái bánh, chứ chưa ăn thì làm sao
biết
được bánh ngon, dở, ngọt, bùi, mặn, lạt, cay, đắng
vv…
Vậy
chúng
ta hãy nghe đức Phật dạy: “Trong sự
chứng đạt chân lí này Bharaduja, tinh cần đƣợc hành trì nhiều. Nếu
không tinh cần chân lí thì không thể chứng đạt chân lí. Do
vậy
trong sự chứng đạt chân lí tinh cần
đƣợc hành
trì nhiều”.
Kính thưa các bạn! Khi chúng ta
giác ngộ được chân lí mà không siêng tu tập thì cũng như con chim học nói tiếng người chẳng có
ích lợi gì các bạn ạ?
Phần đông người ta chưa giác ngộ chân lí. Chỉ nghe người khác nói chân lí một cách mơ hồ, không rõ ràng, không cụ
thể, chỉ lí luận suông: “Đây
là chân lí còn tất cả cái khác đều sai lầm”. Rồi
cứ theo đó mà hộ trì chân lí, bảo vệ
chân
lí,
nhưng không ngờ lòng tin ấy thiếu căn cứ vững chắc nên trở thành lòng tin mù quáng và sự siêng
năng tu tập
trở
thành phí công vô ích.
Bởi vậy, loài người chỉ có bốn chân lí, ngoài ra
không còn có một chân lý nào khác nữa. Bốn chân lí ấy gọi là “TỨ DIỆU ĐẾ” Chúng tôi xin nhắc lại để các bạn nhớ: Bốn chân lí này do một con người như
bao nhiêu
con
người đã tu hành làm
chủ sanh tử luân hồi. Lần đầu tiên Người đã dạy cho loài người biết rõ bốn chân
lí này. Đó là Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni.
1- KHỔ ĐẾ là chân lí thứ nhất, tức là tâm tham, sân, si.
Tâm tham, sân, si là con người ai mà không có. Do
tâm tham, sân, si mà con người đau khổ. Người giác
ngộ
được tâm tham, sân, si là khổ đau, đó là người giác ngộ được chân lí thứ nhất
2- TẬP ĐẾ là chân lí thứ hai tức là nguyên nhân sinh ra
tâm
tham, sân, si, đó là ÁI DỤC , ái dục tức là lòng ham muốn. Làm người ai mà không
có
lòng ham muốn. Do tâm ham
muốn mà sinh ra
tâm tham, sân, si nên phải chịu nhiều khổ đau. Người giác ngộ được lòng ÁI
DỤC là khổ đau,
là người giác ngộ
chân lí thứ hai.
3- DIỆT ĐẾ là chân lí thứ ba. Chân lí thứ ba là một trạng thái tâm không còn tham, sân, si, tức là trạng thái bất
động tâm trước các ác pháp và các cảm thọ. Chính là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Người giác ngộ được trạng
thái tâm này là người
giác
ngộ chân lí thứ
ba.
4- ĐẠO
ĐẾ là chân lí thứ tư. Chân lí thứ tư là chương trình giáo dục đào
tạo những bậc tâm vô
lậu (A La Hán), có
tám lớp học và ba cấp. Người giác ngộ được chương trình giáo
dục đào tạo những bậc tâm vô lậu (A La Hán), có tám
lớp học và ba cấp là
người giác ngộ được chân lí thứ tư.
Khi giác ngộ được bốn chân lí thì phải siêng
năng tu tập,
muốn siêng năng tu tập thì phải cân nhắc
kỹ
lưỡng những lời đức Phật đã dạy: “Trong sự tinh cần, này Bharadvaya
sự cân nhắc đƣợc hành trì nhiều. Nếu không cân nhắc thì
không thể tinh cần chân lí. Nếu có cân nhắc sẽ có tinh cần: Do vậy trong
sự tinh cần, cân nhắc đƣợc hành trì
nhiều”.
Danh từ cân nhắc còn có nghĩa là xem xét cẩn thận, kỹ lưỡng từng tâm niệm
của
mình. Cho nên khi siêng năng tu tập thì phải tu tập kỹ
lưỡng, tu cho có chất lượng, chứ
không phải tu chơi. Luôn luôn phải để ý xem kết quả trong sự tu tập có đạt được
chất
lượng tốt hay không? Càng
tu tập kỹ lưỡng tức là càng cân nhắc từ hành động
tỉnh giác tu tập để
ngăn, diệt ác pháp và các dục, thì cần
phải
phân biệt thấy rõ Chánh niệm hay Tà niệm sinh
khởi. Cho nên kinh dạy: Trong sự siêng năng tu tập thì cân nhắc được hành trì nhiều có nghĩa là cùng siêng
năng tu tập thì sự tu tập kỹ lưỡng phải kỹ lưỡng
nhiều hơn.
Càng tu tập kỹ lưỡng nhiều
là siêng năng nhiều. Đến đây các
bạn
đã hiểu câu này rồi chứ? Tu tập kỹ lưỡng là siêng
năng,
nhưng siêng năng hộ
trì không đúng
chân lí, là phí công, tổn sức và như vậy là lòng tin mù quáng. Lòng tin mù quáng mà tu tập thì không được gọi là chân lí được hộ
trì.
Con người ngày nay đang bị những tôn giáo lừa gạt, tin một cách mù quáng không biết đó có thật hay không thật,
cứ
cúi đầu đảnh lễ
tôn
trọng cung kính một đấng thần
Thánh siêu hình mà không căn cứ vào sự thật
cụ
thể rõ ràng, có khi còn dám
hy sinh cả thân mạng vì tôn giáo của mình, tức là hộ trì chân lí một cách vô lí, một cách cuồng
tín, làm một con vật
hy
sinh cho tôn giáo mà chẳng có lợi
ích cho mình, cho người.
Còn đức Phật dạy muốn siêng năng tu tập một pháp môn
nào
thì phải cân nhắc kỹ lưỡng về chân lí của mình muốn theo tu, xem có đúng như thật hay không thật hay nó chỉ
là một chân lí ảo tưởng. Nếu chân lí đúng
như thật là phải
KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO, ngoài ra thì con người không được gọi
những cái khác là
chân lí, vì ngoài ra bốn chân lí khổ, tập,
diệt, đạo con người không còn có những
chân lí nào khác nữa.
Cho nên siêng năng tu tập chưa đủ mà hãy cân nhắc kỹ
lưỡng thì sự tu tập mới chín chắn mới không sai pháp.
Các bạn có hiểu chưa? Đức Phật rất cẩn thận dạy chúng ta tu tập từng li từng tí một, thế mà chúng ta
không chịu
lắng
nghe cho kỹ những lời dạy này, thì rất uổng cho
những
lời dạy
của
Phật
Kính thưa các
bạn! Muốn tu tập cho có kết quả tốt đẹp thì các bạn hãy nghe đức
Phật dạy tiếp: “Trong sự cân nhắc, thƣa Tôn giả Gotama pháp
nào đƣợc hành
trì
nhiều?
Chúng con xin hỏi Tôn giả Gotama, trong sự cân nhắc
pháp
môn nào đƣợc hành trì nhiều?”
“Trong sự cân nhắc, này Bharadvaya cố
gắng đƣợc hành trì
nhiều. Nếu không cố gắng thì không có cân nhắc. Nhƣng nếu có cố gắng thì có cân nhắc, do vậy trong sự cân nhắc thì
cố gắng đƣợc hành trì
nhiều”.
Các bạn có nghe đức Phật dạy không? “Trong sự cân nhắc
thì
sự cố gắng đƣợc hành trì nhiều”. Nếu tu tập kỹ lưỡng mà không cố gắng thì làm
sao tu tập kỹ lưỡng được, Phải
không
các
bạn?.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!