Cho nên câu kệ thứ ba dạy: “Không sở
hữu, không nắm”.
Ngƣời tu
sĩ tu tập mà đạt đƣợc tâm bất động nhƣ vậy thì
Đức Phật mới gọi là Bà La Môn. Một vị tu sĩ Bà La Môn mà
đƣợc Đức Phật chấp
nhận
là phải có những tiêu
chuẩn
hẳn
hoi nhƣ trên đã nói. Các bạn có nhận xét điều này không?
Bởi vậy trong thời đại này, nhìn các tu sĩ Phật Giáo trong các
hệ phái khác nhau thì chúng ta biết
rõ
Phật Giáo đã bị
chia chẻ tan nát. Chia chẻ từ hình thức ăn mặc cho đến
tinh thần giáo pháp, nhất là Đại Thừa Phật Giáo tự
vỗ ngực xƣng mình có 84 ngàn pháp môn. Có 84 ngàn pháp môn, nếu ai chấp vào pháp môn nào thì có thể chia ra làm
nhiều hệ phái khác nữa. Và nhƣ vậy Phật Giáo còn gì gọi
là nhất quán, giáo lý của Phật
chỉ là những pháp môn góp nhặt. Đó là nói
lên sự suy yếu rất lớn của Phật Giáo.
Phật Giáo chỉ có một pháp môn duy nhất, đó là “Đạo Đế”. Đạo Đế là một chân lý trong bốn chân lý bất di bất dịch của Đạo Phật, không ai có thể thay đổi đƣợc. Thế mà bây giờ lại có (84.000) tám bốn ngàn pháp môn thì các bạn nghĩ sao. Có đúng là pháp môn của Phật không?
Ngày xƣa Đức Phật tu hành không có tham vọng nhƣ các
Tổ ngày nay. Ngài tự thấy mình là một Bà La Môn, một Bà
La Môn sống có đạo đức, không mê tín, không cúng
bái,
cầu siêu, cầu an, v.v... không lừa đảo ngƣời, trƣớc mặt
cũng nhƣ sau lƣng, chỉ tu hành sống đúng Phạm hạnh, nhờ đó Ngài mới tìm thấy có sự giải thoát rõ ràng, cụ thể.
Cho nên trong kinh Pháp Cú, Ngài thƣờng nhắc nhở các
vị Tỳ Kheo nào sống đúng giới luật thì ngƣời ấy đƣợc gọi
là Bà La Môn chân chánh, còn những vị nào
sống không đúng giới luật, phá giới, phạm giới
thì Đức Phật gọi là Bà
La Môn ngoại đạo.
Trong thời gian hoằng
hóa
độ sanh, Đức Phật cũng tự cảm
thấy mình là một Bà La Môn, nhƣng một Bà La Môn sống trƣớc mặt cũng nhƣ sau lƣng mọi ngƣời không hề thiếu mƣời hai Đức
Thánh hạnh này.
Đó là:
Nhƣ Lai
A La Hán Ứng Cúng Chánh Biến Tri
Minh Hạnh Túc
Thiện Thệ
Thế Gian Giải
Vô Thƣợng Sĩ
Điều Ngự Trƣợng Phu
Thiên Nhơn Sƣ
Phật.
Thế Tôn.
Chúng tôi xin giải nghĩa của mƣời hai hiệu Đức Thánh
này:
1- Như Lai : Dịch âm tiếng Phạn Tathàgata có nghĩa là vì theo
con đƣờng nhƣ thật đi tới mà thành Chánh Giác.
Nhƣ Lai cũng có nghĩa là bậc tu hành đã xong, không còn
tái sinh trở lại cuộc đời này nữa tức là đã làm chủ sinh, tử và chấm dứt luân hồi.
Nhƣ Lai
là một
“Đức Thánh Không Đến Không Đi”.
2- A La Hán: Dịch âm tiếng Phạn Arahant. A La Hán đồng nghĩa với Ứng Cúng có nghĩa là giết
giặc phiền não, bất
sanh
mãi mãi ở trong Niết
bàn, xứng đáng nhận sự cúng dƣờng của Trời Ngƣời. Tóm lại bậc A La Hán đã
thoát khỏi phiền não, đƣợc tự do tự tại, hoàn mỹ về mặt đạo lý, làm chủ đƣợc tƣ tƣởng của mình, biết hết tất cả, có đủ sáu pháp huyền diệu, không phải chịu quả báo sống
chết lần thứ hai. Danh hiệu này Đại Thừa cho
là còn thấp kém chỉ là
quả cao
nhất
của Tiểu Thừa.
A La Hán còn gọi là “Đức Thánh Vô Lậu”. Đức
không làm khổ mình, khổ ngƣời và
khổ tất cả chúng sanh.
3-
Ứn g C ú n g : Dịch âm tiếng Phạn Arhat nghĩa là bậc đã
xa lìa mọi điều ác, xứng đáng đƣợc hƣởng thọ sự cúng
dƣờng của Ngƣời, Trời. Bậc đầy đủ phƣớc báu không ai hơn.
Ứng Cúng là đức
hạnh xa lìa những điều ác xứng đáng là
nơi phƣớc báu vô lƣợng để chúng sanh Trời Ngƣời cúng dƣờng, nên gọi
là “Đức Thánh Phước Điền”.
4-
C h án h B iến Tri : Dịch âm tiếng Phạn Samyasambuddha
nghĩa là chánh trí biết rõ mọi pháp nhƣ thật. Chánh biến
tri
còn có nghĩa là trí hiểu biết
chân chánh không bị tà
pháp, tà kiến, tƣởng kiến, tà giáo
lừa đảo, trí hiểu biết
vƣợt ra khỏi sự hiểu biết trong khuôn khổ nề nếp phong tục, tập quán và các hệ tƣ tƣởng của các tôn giáo trên thế
gian này.
Chánh Biến Tri
còn gọi là “Thánh Hạnh Liễu Tri”.
5- Mi n h Hạn h Túc : Dịch âm tiếng Phạn Vidyàcarana-
sampana có
nghĩa
là bậc có
đầy đủ trí
tuệ và đức hạnh. Trí Tuệ gồm đủ có ba:
a) Ý thức tuệ
b) Tƣởng thức
tuệ
c) Tam minh tuệ.
Tam Minh Tuệ gồm có ba:
+ Vô thời gian tuệ
+ Vô không gian tuệ
+ Vô lậu tuệ.
Thánh đức gồm có bốn:
Đức từ, Đức
bi, Đức hỷ,
Đức xả .
Thánh hạnh gồm có
năm hạnh:
Thắng hạnh,
Chánh hạnh,
Trực hạnh, Diệu hạnh, Tịnh hạnh.
6-
Thi ện Thệ : Dịch từ tiếng Phạn Sugata nghĩa là bậc đã tu tập hoàn thành con đƣờng Bát Chánh Đạo, bậc đã làm xong các hạnh lành, không còn trở lui về ác pháp và cuộc
đời
này nữa.
Thiện Thệ còn gọi là “Thánh hạnh tự tại sinh tử”.
7-
Thế Gian Giả i: Dịch từ tiếng Phạn Lokavit: Có nghĩa là
giải thích rõ các pháp trong thế gian, không còn pháp nào
mà
không giải thích đƣợc. Thế gian giải có nghĩa là
bậc thông suốt tất cả các pháp thế gian. Bậc có thể hiểu rõ các
lý và sự của loài hữu tình và vô tình.
Thế Gian Giải còn gọi
là
“Thánh hạnh giải thông suốt các
pháp thế gian”.
8-
Vô
Thư ợ n g
S ĩ : Dịch từ tiếng Phạn Anu Hara: Có nghĩa
là bậc cao hơn hết trong các hàng chúng sanh.
Một con ngƣời làm chủ tột đỉnh giải thoát,
không còn có
sự giải thoát nào cao hơn nữa.
Vô
thƣợng sĩ còn gọi
là
“Thánh hạnh giải thoát cao
nhất”.
9- Điều Ngự Trượ
n g Phu : Dịch từ tiếng Phạn
Purusa- danya-sàrathi: Có nghĩa là bậc điều khiển đƣợc mình và
tất cả chúng sanh tức là bậc đã làm chủ đƣợc mình và tất
cả
các pháp, nói một cách dễ hiểu hơn là bậc tâm đã bất động trƣớc các pháp và các cảm thọ.
Điều Ngự
Trƣợng Phu còn gọi là “Thánh hạnh nhiếp
phục
các
pháp và các cảm thọ”.
10- Thi ên Nhân
S ư
:
Dịch theo tiếng Phạn Sàtàde- vanàsyànàm: Nghĩa là bậc Thầy của Trời, Ngƣời. Dạy cho
Trời, Ngƣời những gì nên làm và
những
gì không nên làm.
Thiên Nhân Sƣ còn gọi là “Đức Thánh Thầy Trời, Người”.
11- Phật
: Dịch âm chữ Buddha có nghĩa là bậc giải thoát
hoàn
toàn, bậc Giác
Ngộ.
Phật còn gọi
là
“Đức Thánh Giác Ngộ”.
12-
Thế
Tôn : Dịch âm tiếng Phạn Bhagavat
có nghĩa là bậc
cao
hơn hết trong cõi Trời, Ngƣời, đƣợc tất cả Trời, Ngƣời đều tôn kính quí
trọng.
Thế Tôn còn gọi là “Đức Thánh tôn kính”.
Mƣời hai đức hạnh tối cao trên đây nếu ngƣời Tu sĩ nào làm đƣợc thì Đức Phật gọi ngƣời ấy
là Bà La Môn.
Tóm lại bài kệ trên đây đã xác định một ngƣời Bà La Môn đúng
tiêu chuẩn của
Phật Giáo
là không có một vật
sở
hữu nào cả suốt trong ba thời gian quá khứ, hiện tại và vị lai thì mới đúng
nghĩa:
“Ai quá,
hiện, vị lai. Không một sở hữu gì. Không sở hữu,
không nắm
Ta gọi Bà La Môn”.
Đúng vậy, lúc nào cũng
nhớ
giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh
và hạnh tri túc thì mới xứng đáng là Bà La Môn của Phật Giáo.
Đọc bài kệ
này
chúng ta mới biết Phật Giáo là do ngƣời
sau lập thành tôn giáo lấy tên là Phật Giáo, còn riêng Đức
Phật thì
không
có ý đó. Tại sao vậy?
Bởi Đạo Phật là đạo đức của con ngƣời trên hành tinh này, nó là chân lý của loài ngƣời, nên không thể
xây dựng nó thành tôn giáo đƣợc, vì tôn giáo sẽ bị hạn cuộc trong một số ngƣời rất ít, chứ không đƣợc phổ cập rộng rãi khắp mọi ngƣời, mọi nơi.
Và k h i thành
lập ra
tôn
giáo
là
sẽ ch ia ch ẻ con
n gƣời, mà
ch ia
ch ẻ
con n gƣời thì k h ôn g
còn là đ ạo
đ ức . Hình thức chia chẻ là vì quyền lợi riêng tƣ cho cá nhân hay tập thể nhỏ. Cho nên các Tổ không hiểu
điều
này, vì quyền lợi riêng tƣ mà các Tổ đã làm một việc rất sai lầm,
b iến
ch ân
l ý và đ ạo
đ ức củ a loài n gƣời thàn h ch ân
lý
và
đ ạo đ ức
riêng tƣ
củ a
tôn
giáo
. Một bằng chứng
rất
hùng hồn, từ những tham vọng ấy, các Tổ đã chia nát
Phật Giáo ra nhiều hệ phái, làm cho Phật Giáo suy yếu và mất gốc. Từ Phật Giáo của chung của nhân loại đã trở thành của riêng và còn của riêng nhiều vị Tổ nữa. Thật là đau lòng, phải không hỡi các
bạn?
Riêng
Đức Phật chỉ thấy mình là một
Bà La Môn và cố gắng làm tốt hơn cho Bà La Môn Giáo, chứ không có mục
đích
thành lập tôn giáo riêng tƣ, chỉ vì ngƣời sau không
hiểu
ý Phật nên dựa vào
12 danh hiệu của Ngài mà
đặt
tên cho tôn giáo. Từ đó mới có tên là Phật Giáo.
LỜ I
P H ẬT DẠ Y
1- Ngăn ác
2- Diệt
ác pháp
3- Sanh thiện
TỨ CHÁNH CẦN
4- Tăng trưởng thiện pháp.
CH Ö GIẢ I:
Đó là lời dạy tu tập thiền định của Đạo Phật, một thứ
thiền định ly dục ly ác pháp để khắc phục tâm tham ƣu của hành giả, để đi đến cứu cánh giải thoát hoàn toàn, làm
chủ sanh già bệnh chết, và
chấm dứt tái sanh luân hồi.
Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trƣởng thiện pháp
là pháp môn “Tứ Chánh Cần. Tứ Chánh
Cần
tức là Tấn Lực, là Định Tư Cụ,
là giới hành của Đạo Phật”.
Đây là pháp môn vô lậu đệ nhất của Đạo Phật. Khi một
hành
giả bƣớc chân vào
Đạo Phật mà đƣợc sự
hƣớng dẫn tu tập ngay liền pháp môn
này, thì chắc chắn phải thấy kết quả giải thoát không có thời gian chờ đợi. Ngƣời đƣợc hƣớng dẫn
pháp
môn này là ngƣời có duyên phƣớc đầy đủ
với đạo giải thoát
sâu xa nhiều đời.
Chúng tôi không đủ nhân duyên, nên khi bƣớc chân vào
chùa lúc tám tuổi
đời, không đƣợc dạy tu hành theo pháp này,
mà
chỉ đƣợc Thầy Tổ dạy
cho
hai thời công phu chiều
và khuya rồi học thêm ứng phú đạo tràng, đánh đẩu, trống, mõ để tụng kinh, niệm Phật, tụng niệm
đám
ma chay, cầu siêu, cầu an, làm tuần làm tự, cúng vong tiễn
linh, cúng sao giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu cất
nhà, dựng vợ, gả chồng, xây mồ mả và những lúc rảnh
rang thì lần
chuỗi niệm Phật lục tự Di Đà, v.v... Làm đƣợc những việc này
các
Thầy Tổ cho
đó
là những công phu tu tập.
Đến bây
giờ chúng tôi mới hiểu
ra
Thầy Tổ của chúng tôi chỉ dạy cho
chúng
tôi một cái nghề để sống nhƣ bao nhiêu nghề khác trong xã hội. Nhƣng những
nghề khác thì lƣơng
thiện, còn nghề của chúng tôi thì không lƣơng thiện chút
nào
cả, nó là một
nghề mê
tín chuyên lừa đảo, dối gạt ngƣời để ngồi mát ăn bát vàng. Chúng tôi ở trong chùa hằng ngày mang mõ, chuông, đẩu đi tụng niệm đám ma này hết, đến đám ma khác, không tụng đám ma thì lại
tụng kinh cầu an,
cầu
siêu, làm tuần,
làm
tƣ, v.v...
Quanh năm suốt tháng chúng tôi hành nghề này, thấy sao
mà
giả dối... Chúng tôi suy tƣ nghĩ lại rất buồn khổ trong
lòng
nhƣng không dám nói với ai, mà nếu hỏi đến các Thầy Tổ thì
bị la rầy mắng và còn bảo rằng
nói
bậy sẽ bị đọa địa
ngục.
Mãi đến khi chúng tôi
đƣợc về
thành phố vì chiến cuộc ở nông thôn bất an và đƣợc học thêm
giáo lý của Đạo Phật,
chừng đó chúng tôi nghiên cứu về
Thiền Tông thì thấy Thiền Tông hay quá, không dạy làm những điều mê tín, lừa
đảo, mà chỉ dạy tu tập ức chế tâm cho hết vọng tƣởng
để thành Phật hoặc giữ tâm không niệm thiện niệm ác thì kiến tánh thành Phật. Càng nghiên cứu sách kinh Thiền
Tông
thì lại càng thích thú. Những lời nói và hành động của các Tổ sao mà hay quá, nhất là những
công án Thiền
Tông
lại tạo cho chúng
tôi có một sức tò mò ghê gớm, cứ
nghĩ rằng Thiền Tông có một cái gì bí ẩn ghê lắm không
thể dùng tri kiến, ý thức mà hiểu đƣợc. Khi thấu hiểu
Thiền Tông nhƣ thế chúng tôi đặt trọn lòng tin ở pháp môn này. Từ đó chúng
tôi bỏ hết toàn bộ cuộc đời, quyết tâm theo tu tập thiền do HT Thanh Từ hƣớng dẫn. Suốt
chín năm
trời tu tập, đem
hết sức tu tập để ức chế tâm không cho vọng tƣởng. Trong đầu, niệm thiện niệm ác vắng bặt từ giờ này đến giờ khác. Lúc bấy giờ có 18 loại
hỷ
tƣởng hiện ra (có thể gọi đó là thần thông), nhƣng nhìn
lại cũng không tìm
thấy
sự làm chủ sanh, già, bệnh, chết,
tâm tham, sân, si vẫn còn. Cái đặc biệt nhất
là loại thiền này khi hết vọng tƣởng thì tuệ tƣởng xuất hiện. Khi nó
xuất hiện thì tất cả các công án đều thông suốt, thấy
tánh thì rất rõ ràng vì mỗi khi động tay, động chân
đều là Phật Tánh nơi đó, nhƣng lại có tật thƣờng dùng ngôn ngữ công án, vì thế nên thƣờng xảy ra những cuộc tranh luận hơn thua, dù ai nói một điều gì thì chúng tôi cũng đều dùng công án đối đáp và vấn nạn họ. Thấy
những hiện tƣợng lạ lùng nhƣ vậy, nên chúng tôi đành bỏ, dù khi ấy chúng tôi đã
nhập đƣợc Thức Vô Biên Xứ Định.
Khi tu tập không tìm đƣợc sự giải thoát nơi kinh sách Đại
Thừa
và Thiền Tông, chúng tôi phải tìm
pháp
môn khác. Sau này nhờ giới luật, chúng tôi học tập và rèn luyện sống đúng giới đức làm Ngƣời, làm Thánh của Phật Giáo Nguyên Thủy. Trong
khi
sống đúng giới luật nhƣ vậy chúng tôi tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần và
dùng pháp hƣớng tâm Nhƣ Lý Tác Ý: “Ly
dục, ly ác pháp, tâm như cục đất, ly tham, sân, si cho thật sạch”.
Chính nhờ sống đúng giới luật và tu tập nhƣ vậy chúng tôi cảm thấy tâm mình thanh thản, an lạc và vô sự, ít phóng dật, thƣờng
thích sống độc cƣ một mình. Và cũng chính nhờ tu tập
nhƣ vậy tâm
chúng tôi hết tham, sân, si và thƣờng ở trong
một trạng thái tâm bất động an lạc vô cùng, không thể diễn tả cho các bạn hiểu đƣợc vì đó
là trạng thái ly dục ly bất thiện
pháp.
Sau khi tu xong chúng tôi mới hiểu Giới Hành của Đạo Phật không phải là pháp môn nào khác
hơn là “Tứ Chánh Cần”. Tứ Chánh Cần là pháp môn ngăn ác
diệt ác pháp, sanh thiện tăng trƣởng thiện
pháp, chỉ có pháp môn này
tu tập trên Tứ Niệm
Xứ mà chúng tôi làm
chủ sanh,
già, bệnh, chết. Do
thế Đức Phật dạy:
“
Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự
tịnh
kỳ ý
Thị chư Phật
Giáo”.
ĐỨC PHẬT KHUYÊN TU TẬP BỐN TINH CẦN
LỜI PHẬT DẠY
“1- Tinh cần chế ngự
2- Tinh cần đoạn tận
3- Tinh cần tu tập
4- Tinh cần hộ trì.”
CH Ö GIẢ I:
Bốn tinh cần là
gì?
Bốn tinh cần là bốn pháp môn mà ngƣời đệ tử của Phật cần phải siêng
năng tu tập hằng ngày không đƣợc biếng trễ cũng giống nhƣ ngày nào chúng ta cũng phải ăn cơm
uống
nƣớc vậy.
B
ài tu
tập
thứ
n h ất
: TINH CẦN CHẾ NGỰ. Vậy tinh cần chế ngự
nghĩa là gì?
Muốn hiểu
bài
học thứ nhất thì chúng ta phải
hiểu
những chữ tinh cần và chế ngự cho rõ ràng. Vậy tinh cần có nghĩa là
gì?
Tinh cần có nghĩa là siêng năng, chuyên cần, giờ nào cũng làm
việc không nghỉ ngơi.
Chế
ngự nghĩa là gì?
Chế
ngự có nghĩa, ngăn chặn,
không
làm theo.
Ở đây, Đức Phật dạy chúng ta tinh cần chế ngự, có nghĩa là bảo chúng ta “tu tập
phải
từng giây, từng phút, từng sát
na siêng năng, chuyên cần liên tục, không đƣợc biếng trễ,
không đƣợc gián đoạn sự ngăn chặn, không đƣợc làm theo lòng ham muốn và tâm hung ác của chính mình” tức là hằng ngày
phải
siêng năng,
tinh cần ly dục ly ác pháp.
Để cho
hiểu dễ dàng
hơn thì cần phải có những ví
dụ:
1) Khi tâm chúng ta khởi muốn ăn phi thời thì ngay đó
chúng ta ngăn chặn quyết liệt không cho ăn.
Ngăn chặn quyết liệt không cho ăn, đó là chế ngự lòng tham muốn
(dục)
hay nói cách khác là ly
dục
về ăn.
2) Chƣa đến giờ đi ngủ mà thân tâm bị hôn trầm, thùy miên muốn đi ngủ. Chúng ta muốn ngăn chặn sự buồn
ngủ, không làm theo nó, liền đi kinh hành làm cho thân tâm không ngủ đƣợc, ấy là chế ngự tâm ham muốn ngủ, hay nói
cách khác là ngăn chặn sự buồn ngủ. Đi kinh hành ngăn chặn sự buồn ngủ tức là tinh cần chế ngự lòng ham
muốn ngủ của
mình và nhƣ vậy gọi là ly dục ly ác pháp.
3) Ngồi một mình cô đơn trong thất muốn đi nói chuyện
cho vui với ngƣời khác, ngay đó chúng ta liền ngăn chặn không đi nói chuyện. Ngăn chặn không đi nói chuyện, tức là chế ngự lòng ham muốn vui chơi của mình. Chế ngự lòng
ham
muốn vui chơi của mình tức là
ly dục ly ác pháp.
4)
Khi tâm muốn đi làm một
việc gì mà việc
ấy
phi thời thì phải ngăn chặn liền,
sự ngăn chặn không
đi làm là
chế ngự tâm mình hay
nói cách khác là
ly dục ly
ác pháp.
Tóm lại, lời dạy này khuyên nhắc chúng ta muốn tu tập
đƣợc giải thoát
ra khỏi sanh, già, bệnh, chết thì phải
thƣờng hằng siêng năng ly dục ly ác pháp. Đó là “TINH CẦN CHẾ NGỰ” tâm dục và ác pháp. Đây là bƣớc đầu tu
tập căn bản nhất của Phật Giáo mà ngƣời tu sĩ và ngƣời cƣ sĩ nào muốn tu tập cũng phải khởi sự từ nơi đây. Đó
cũng là phƣơng pháp tu tập để xây dựng cho mình một
nền tảng đạo đức nhân bản – nhân quả làm ngƣời. Không
làm khổ mình khổ ngƣời. Đó là một phƣơng pháp tu tập
thiền định xả tâm, xả đến đâu là có giải thoát đến đấy; xả
đến đâu là
có tâm thanh tịnh đến đấy. Do tu tập thiền định kết quả
nhƣ vậy
nên Đức Phật dạy:
“Pháp ta không có thời
gian đến để mà thấy”.
B
ài h ọc thứ h ai
: TINH CẦN ĐOẠN TẬN. Vậy
tinh cần đoạn
tận nhƣ thế nào?
Khi tâm tôi có tham, tôi biết tâm tôi có tham tức là biết
tâm
có dục. Biết tâm có dục thì ngay đó tôi phải siêng năng làm
cho nó hết dục. Làm cho nó hết dục tức là đoạn tận.
Theo phƣơng pháp đoạn tận tâm tham Đức Phật dạy: “Do
vậy, này các Thầy
Tỳ Kheo, nếu các
Thầy mong rằng ly dục
ly ác pháp, các Thầy sẽ chứng đạt an trú Thiền Thứ Nhất,
một
trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có
tầm,
có tứ thì Định
Niệm Hơi Thở vô hơi thở ra cần phải được
khéo tác ý”. Ở
đây
hơi thở vô, hơi thở ra cần phải đƣợc khéo tác ý nhƣ thế
nào?
Chúng ta hãy nghiên cứu lại pháp môn Định Niệm Hơi Thở
thì sẽ rõ. Trong Định Niệm Hơi Thở Phật dạy: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”.
Đó là một phƣơng pháp đoạn tận tâm
tham tuyệt vời, nếu
ai tin tƣởng giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì nƣơng vào hơi thở mà tác ý nhƣ vậy thì chúng tôi
bảo
đảm với quý vị
sẽ có kết quả ngay
liền.
Với tâm sân, quý vị cũng nên nƣơng vào hơi thở mà tác ý
nhƣ vậy: “Quán
ly sân tôi biết tôi hít vô, quán ly sân tôi biết tôi
thở ra”.
Với tâm si, quý vị cũng nên nƣơng vào hơi thở mà tác ý:
“Quán ly si tôi biết tôi
hít
vô, quán ly si tôi biết
tôi
thở ra”.
Muốn cho tâm đƣợc định tỉnh không còn bị hôn trầm, thùy
miên thì quý vị cũng nên nƣơng vào hơi thở mà
tác ý: “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô, với tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra”.
Với tâm phiền não, lo lắng, sợ hãi, v.v... thì quý vị cũng nên nƣơng vào hơi thở
mà
tác ý: “An tịnh toàn tâm tôi biết
tôi hít vô, an tịnh toàn tâm tôi
biết
tôi thở ra”.
Trên đây
là phần tinh cần đoạn tận về tâm, còn về thân thì
tinh cần đoạn tận nhƣ thế nào?
Mỗi khi
thân có đau nhức hay
bệnh tật thì cũng
nên an trú vào hơi thở mà tác
ý: “An tịnh toàn thân tôi biết tôi hít
vô, an tịnh toàn thân
tôi biết tôi thở ra”. Cứ bền chí mà tác ý nhƣ vậy đến chừng nào thân không bệnh, không còn đau khổ
nữa mới thôi.
Những lời dạy
trên đây các bạn có tin không?
Nếu
tin thì có lợi ích cho các bạn, còn không tin thì các bạn sẽ
tốn tiền thuốc thang và chịu nhiều đau khổ.
Do sự đau khổ, phiền não thân tâm
của quý bạn nên Đức Phật dạy: “TINH CẦN ĐOẠN TẬN”.
Nếu quý bạn tinh cần
đoạn
tận thì sự an vui
và hạnh phúc sẽ
đến
với các bạn.
Trƣớc khi muốn đoạn tận các sự phiền
não
và tất cả bệnh khổ đau nơi thân tâm của quý bạn thì quý bạn hãy tu tập
cách thức
an trú
ch o
đ ƣợc tron g h ơi thở,
tr
on g
b ƣớc đ i
h ay
h ơi
thở
, nói cách khác tổng quát hơn là an trú trong thân hành của các bạn. Khi an trú đƣợc thì bạn mới đẩy lui đƣợc các chƣớng ngại pháp. Đẩy lui các chƣớng ngại pháp trên thân tâm, tức là làm cho thân tâm của quý bạn
đƣợc an ổn và thanh tịnh. Do làm cho thân tâm đƣợc an
ổn và thanh tịnh, đó là một điều lợi ích rất lớn mà Đức
Phật thƣờng nhắc nhở chúng ta nên “TINH CẦN ĐOẠN TẬN MỌI KHỔ ĐAU”. Đó là một phƣơng pháp tu tập rất thực tế
và có lợi ích thiết thực
ngay liền mà trong kinh Tứ Niệm
Xứ đã dạy: “Trên thân quán thân để
khắc phục tham ưu.
Trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu. Trên thọ quán
thọ để khắc phục tham ưu….”.
B
ài h ọc thứ b a
: TINH CẦN TU TẬP. Vậy tinh cần tu tập nhƣ thế nào?
Nhƣ chúng ta đã biết những pháp môn mà Đức Phật đã
dạy gồm có:
1/ Mƣời tám đề mục Định Niệm Hơi
Thở.
2/ Định Vô Lậu.
3/ Định Chánh Niệm Tỉnh Giác.
4/ Định Sáng
Suốt.
5/ Tác ý đẩy lùi các chƣớng ngại pháp trên Tứ Niệm
Xứ.
6/ Tu Tập Thân Hành Niệm.
Trên đây là những
pháp môn cần phải siêng năng tu tập
từng giây, từng phút, từng giờ không đƣợc phí bỏ những giây phút nào
cả.
Có tinh cần tu tập
nhƣ vậy thì chúng ta
mới
“CHẾ NGỰ” mới “ĐOẠN TẬN” đƣợc lòng ham muốn, mọi
ác pháp, mọi khổ
đau
của kiếp làm ngƣời.
Lời dạy thứ ba trên đây, rất là quan trọng cho việc chế ngự và đoạn tận tâm dục và các ác pháp. Có chuyên cần
tu tập các pháp môn trên đây thì mới đủ năng lực chế ngự
và đoạn tận tâm
dục
và các ác pháp. Nó lƣu xuất từ trong
thân tâm, do các pháp ác bên ngoài tác dụng vào. Nhờ năng lực tu tập của các pháp môn trên chúng ta mới có đủ khả năng đẩy lui các chƣớng ngại
pháp, thì thân tâm chúng ta
mới
an trú đƣợc. Nếu không tu tập các
pháp
trên đây thì chẳng bao giờ chế ngự và đoạn tận các chƣớng ngại
pháp đƣợc.
Cho nên sự
tinh cần tu tập các pháp môn là điều quan trọng để
tạo ra năng lực buông xả rất mạnh và nhanh chóng. Muốn tu tập đạt đƣợc kết quả tốt nhƣ vậy thì cần phải siêng
năng tu tập không đƣợc biếng trể. Tu tập các
pháp
giống nhƣ hằng ngày
ta ăn cơm và
uống
nƣớc vậy.
B ài h ọc
thứ
tƣ : TINH CẦN HỘ TRÌ. Vậy tinh cần hộ trì nhƣ thế nào?
Trong
thân chúng ta có sáu căn:
- Mắt
- Tai
- Mũi
- Miệng
- Thân
- Ý
Sáu chỗ này
là sáu cửa ra vào của sáu trần,
nếu
ngƣời tu hành không cảnh giác cẩn thận thì giặc sanh tử sẽ lén vào
và làm cho tâm bất
an.
Vì thế Phật dạy: “Phải siêng năng luôn luôn hộ trì các căn”.
Vậy,
chúng
ta giữ gìn cửa nào
trƣớc trong sáu cửa này?
Mắt : Là cửa thành thứ nhất mà chúng ta phải giữ
gìn
trƣớc nhất, vì sắc tƣớng của sáu trần lúc nào cũng có, nên
nó
sẽ theo cửa mắt mà vào thành. Mắt đƣợc xem là cửa ải
Tam quan. Cửa ải Tam quan là cửa địa đầu của đất nƣớc, nếu một khi cửa ải này mất thì đất nƣớc bị lung lay. Cũng
vậy nếu mắt bị sắc xâm chiếm thì thân tâm bị
dao động.
Cho nên luôn phải giữ gìn mắt. Vậy giữ gìn mắt nhƣ thế
nào?
Muốn giữ gìn mắt tức
là
phòng hộ mắt thì phải chấp nhận sống độc cƣ, không tiếp duyên ra ngoài. Lúc ở trong thất cũng nhƣ lúc đi ra ngoài luôn luôn phải hƣớng tâm nhắc
mắt phải nhìn vào trong thân; phải thấy
bƣớc chân đi, khi
đi đứng; phải
thấy hơi thở ra hơi
thở vào, khi ngồi. Nếu hộ
trì
mắt đƣợc nhƣ vậy thì mắt không
dính sắc trần thì mắt
thanh tịnh, còn không phòng hộ đƣợc nhƣ vậy thì mắt dính sắc, mắt dính sắc
thì tâm phóng dật, tâm phóng dật
thì phá hạnh độc cƣ, phá hạnh độc cƣ, thì tâm có tinh cần
tu tập pháp gì thì cũng không kết quả, tâm tu tập không kết quả thì không có năng lực, không có năng lực thì không đoạn tận dục
và ác pháp, không đoạn tận dục và ác
pháp
thì không còn cách nào chế ngự đƣợc tâm. Và nhƣ vậy
thì
thân tâm của
chúng ta sẽ
chẳng bao giờ thoát khổ.
Tóm
lại,
giữ gìn mắt rất cần thiết cho sự tu tập bốn điều tinh
cần ở trên mà một ngƣời quyết tâm tu tập làm chủ
sanh, già, bệnh, chết thì không thể thiếu
đƣợc. Trong bốn
điều
tinh cần, điều
nào
cũng cần thiết, cũng cần phải siêng năng tu tập. Nhƣng phải thấy điều thứ tƣ là quan trọng bực nhất, đó là hộ trì các căn. Mà hộ trì căn mắt là một
điều
quan trọng hơn các căn khác, nhƣ những
ngƣời lính
giữ cửa ải quan.
Tai: Là căn thứ hai cũng không kém quan trọng. Phòng hộ
tai phải nhƣ thế nào?
Phòng hộ tai khi ở trong thất cũng nhƣ lúc đi ra ngoài,
phải
tác ý nhắc tai phải nghe vào tiếng chân bƣớc đi, khi đi; tiếng hơi thở ra, tiếng hơi thở vô, khi ngồi. Có phòng hộ tai nhƣ vậy tai mới không dính mắc
thinh trần, tai
không dính mắc thinh trần thì tai thanh tịnh, tai thanh tịnh thì
tâm thanh tịnh.
Tai thanh tịnh thì tu các pháp mới có năng lực, có năng lực thì mới đoạn tận, mới chế ngự
dục và ác pháp. Nhờ đó con đƣờng tu tập mới làm chủ
sanh, già, bệnh, chết.
Mũ i : Là căn thứ ba là mũi, vậy phòng hộ mũi nhƣ
thế
nào?
Mũi
thƣờng hay ngửi
mùi,
tức là hƣơng trần. Hƣơng trần gồm có:
Mùi
thơm
Mùi
thối
Mũi ngửi mùi thơm sanh ra ƣa thích, gặp mùi thối thì không ƣa thích.
Nghe mùi thơm của thực
phẩm thì con ngƣời sanh ra dục muốn ăn.
Nghe mùi thối
của
phân,
phẩn
thì con ngƣời bịt mũi đi
tránh không
ƣa.
Con ngƣời đem dâng cúng thực phẩm cho Phật khi Phật tịch là sai, vì thực phẩm của con ngƣời ăn là bất tịnh chỉ nuôi thân tứ đại bất tịnh. Cho nên chƣ Phật nghe mùi thực
phẩm của con ngƣời ăn là hôi
thối.
Chim ó. Chim kên kên và loài chó nghe mùi thịt thối thì cho là thơm, ƣa thích.
Còn con ngƣời cho là thối,
không ƣa thích.
Tính chất của hƣơng trần, loài này cho là thơm, nhƣng loài khác cho là thối. Còn cách tu nhƣ thế nào đối trị với
hƣơng trần?
Đối trị với hƣơng trần mùi thơm cũng nhƣ mùi thối, luôn luôn lúc nào cũng phải
phòng hộ mũi. Phòng hộ mũi bằng cách tác
ý hƣớng dẫn mũi ngửi vào trong thân, thân hành nội (hơi thở) và thân hành ngoại (kinh hành). Thơm
cũng
không khởi dục tham
đắm, thối cũng không trốn chạy, chỉ
có
duy nhất siêng
năng cần mẫn liên tục tác ý dẫn mũi
ngửi vào trong thân cũng giống
nhƣ dẫn tai và mắt
vậy.
Có dẫn tai, mắt, mũi nhƣ vậy thì mới tu tập nhiếp phục tâm mình đƣợc và tâm mới an trú đƣợc trong thân hành tức là tâm định trên thân. Nhờ sống hộ trì mắt, tai, mũi
đƣợc nhƣ vậy, nên tâm tu tập mới có đầy đủ năng lực để chế ngự, đoạn tận dục và
ác pháp, v.v...
Tinh cần hộ
trì mắt, tai, mũi
nhƣ vậy
chƣa đủ mà còn phải
tiếp tục hộ trì
các căn khác nữa nhƣ: miệng,
thân và ý.
Miệng
: Là căn thứ tƣ vậy hộ trì miệng
nhƣ thế nào?
Hộ trì miệng có hai phần:
1- Hộ trì miệng
về ăn, uống.
2- Hộ trì miệng
về nói.
- Hộ trì miệng về ăn uống thì không đƣợc ăn uống phi
thời, ăn uống phải có tiết
độ,
phải đúng giờ giấc, ăn uống không đƣợc ham thích ăn ngon, ăn uống phải biết quán
thực phẩm bất tịnh để sanh tâm nhàm chán. Ăn uống
phải sáng suốt, tƣ duy: “Ăn để sống chứ không phải sống để
ăn”.
Ăn để sống, sống để tu hành, để thân tâm lúc nào
cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Ăn để sống, sống để hộ
trì
các căn không cho dục và các ác pháp tác động sai
khiến hoặc xâm chiếm, làm khổ mình làm khổ ngƣời và
tất cả chúng sanh. Ăn
để
sống, sống để làm
chủ
sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi tái sanh, chứ không phải
ăn để sống, sống chạy theo dục lạc,
để chấp nhận đời sống phải chịu nhiều khổ đau. Ăn để sống, sống để làm chủ
thân tâm, khiến cho thân tâm
bất
động trƣớc các ác pháp và các cảm thọ, chứ không phải để tranh luận hơn thua,
để tranh đua về
ăn uống, để
tranh chấp về
danh, lợi hơn thiệt ở đời. Ăn để
sống,
sống để
biết thƣơng yêu
mọi ngƣời, để giúp đỡ mọi ngƣời bất hạnh trong xã hội, để an ủi, chia sẻ những nỗi thƣơng đau, những nỗi mất mát mà con ngƣời đang, sẽ phải chịu. Ăn để sống, sống để thấy
trách nhiệm bổn phận đạo đức làm ngƣời không nên làm khổ mình khổ ngƣời, chứ không phải ăn để sống, sống để
vì sự sống của mình mà chà đạp lên sự sống của bao nhiêu
ngƣời khác và loài vật khác... Đó là cách hộ trì miệng về ăn uống, mỗi
khi ăn uống chúng ta đều phải nhớ những lời dạy
này.
- Hộ trì miệng về lời nói, không đƣợc nói những lời thiếu
chân thật, xin đọc lại Thánh đức chân thật trong Mƣời
Giới Thánh Đức Sa Di.
- Hộ trì miệng về lời nói thì không đƣợc nói lời hung dữ;
không
đƣợc chửi mắng, nạt
nộ, hăm dọa
ngƣời khác; không đƣợc la lớn tiếng, không đƣợc chửi thề nói lời tục tĩu, không đƣợc xƣng hô
mày, tao, nó hắn, y...
- Hộ trì miệng về lời nói thì không
đƣợc nói thêm bớt, nói xấu
ngƣời khác, không đƣợc vu khống, vu oan giá họa,
không đƣợc nói lật lọng...
- Hộ trì miệng về lời nói thì không đƣợc nói móc lò, nói
mỉa
mai ngƣời khác,
nói giễu cợt,
nói châm chọc...
Tóm lại, hộ trì miệng là giữ gìn lời nói không làm khổ
mình khổ ngƣời, luôn nói lời êm dịu, nhẹ nhàng, ôn tồn,
nhã
nhặn, đầy lòng từ ái, ôn hòa, tha thứ, thân thƣơng và yêu mến.
Lời nói luôn đem đến mình vui
ngƣời khác vui.
Ngƣời ta còn bảo miệng là “Khẩu Nghiệp” Khẩu nghiệp có
hai phần:
1-
Khẩu
nghiệp
về ăn: Miệng ăn uống không
tiết độ, không đúng cách nên khiến cho thân thọ lấy những khổ đau, bệnh tật, nghiện ngập, tu hành không ly dục ly ác
pháp
đƣợc.
2-
Khẩu nghiệp về
nói:
Miệng nói ra phải cẩn thận, nếu
không cẩn thận sẽ mang nghiệp vào thân
khiến thân tâm phải phiền não khổ
đau, hối
hận.
Tóm lại, hộ trì miệng là điều cần thiết nhất trong cuộc sống tu hành, nên Phật dạy phải độc cƣ sống trầm lặng
một mình nhƣ con tê ngƣu một sừng.
Tinh cần hộ trì mắt, tai, mũi, miệng nhƣ vậy
chƣa đủ mà còn phải tiếp tục hộ trì
các căn khác nữa là thân và ý.
Muốn phòng hộ
trì thân, phải hộ
trì nhƣ thế nào?
- Hộ trì
thân có hai phần:
Hộ trì các hành động
của
thân.
Hộ trì thân là không cho các ác pháp xâm chiếm vào
thân.
a) Hộ trì
các hành động của thân gồm có:
- Không
cho
thân làm những
điều ác.
- Ý thức phải điều khiển thân
hành.
- Mỗi thân hành phải
đƣợc ý thức kiểm duyệt.
b) Hộ trì thân là không cho các ác pháp xâm chiếm vào thân
gồm có:
- Ngừa bệnh hơn trị bệnh, nghĩa là
phải ngăn ngừa ruồi, muỗi, sâu độc, rắn, rết, bò cạp, thú dữ, v.v... không cho
xâm chiếm vào thân, luôn luôn giữ gìn thân đƣợc an lạc
bằng vệ sinh,
bằng ăn uống tiết độ, bằng nuôi dƣỡng thiện
pháp, không đem vào thân những ác pháp, phải nuôi thân bằng chánh mạng.
- Đẩy lùi các bệnh tật trên thân. Làm chủ bệnh tật là điều hạnh phúc thứ nhất trong cuộc sống
thế gian.
- Tìm mọi cách giúp cho thân đƣợc an trú, thanh tịnh và
vô sự, theo pháp môn Định Niệm Hơi Thở.
- Bằng phƣơng pháp Tứ Niệm Xứ giúp cho thân sung mãn
dồi dào
sức lực.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!