mang theo,
khi gặp quỷ sứ tra xét đưa cuốn kinh này
ra, quỷ sứ biết đó
là đệ tử của Phật
không tra xét và không
buộc tội. Người
nào đến chùa được
làm lễ quy y Tam
Bảo thì được phát cho lá phái hay
tờ điệp. Khi chết một tờ đem thiêu đốt cháy thành tro than, đem bỏ xuống giếng
hoặc mang ra sông bỏ, một tờ xếp nhỏ để vào lòng bàn tay người chết mang đi.
Làm như vậy có đúng không, thưa Thầy? Mong Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Điệp
phái quy y
Tam Bảo là do
Phật giáo bị phân chia ra làm nhiều bộ phái, các tổ muốn biết số người theo Phật
giáo bao nhiêu nên lập ra Điệp phái.
Khi truyền
giáo từ Trung Quốc sang Việt Nam, các tổ Đại thừa biến tờ Điệp phái thành loại
giấy thông hành cho người
chết. Khi xuống Địa Ngục, nhờ những tờ điệp phái này mà vua Diêm Vương cùng quỷ sứ giảm
khinh tội trạng
và sớm được đầu
thai. Nếu ai không
có giấy này
thì không được giảm tội, và có thể ở tù chung thân không được đi đầu thai. Đây
cũng là một sự lừa đảo,
lường gạt của các nhà sư Đại thừa, để lôi cuốn người khác
theo tôn giáo
mình. Cũng như thời
Pháp thuộc cai trị ở Việt Nam, người dân
bản xứ nào được giấy tờ giặc pháp cấp nhập quốc tịch Pháp thì hưởng mọi quyền lợi,
và không bị bắt bớ tù tội. Cho nên, người nào được làm lễ quy y Tam Bảo là được
“nhập quốc tịch Thích Ca”, và quỷ sứ vua
Diêm Vương không hành phạt.
Thật là một điều bất công,
phi đạo lý. Sống
trên dương gian chuyên
làm điều ác, chỉ cần có
giấy Điệp phái của các thầy Đại thừa, thay Phật cấp cho là
khỏi bị tù tội! Các
nhà Đại thừa
đã biến Phật giáo
thành một tôn
giáo mê tín, chuyên lừa đảo lường gạt người khác, bằng
những điều mê tín, lạc hậu, phi đạo đức. Trong khi đức Phật xác định, kẻ nào giết
hại chúng sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu sẽ bị đọa Địa Ngục. Thế
mà các nhà Đại thừa
đi ngược lại lời dạy của đức Phật, làm một điều gian xảo, chỉ cần có giấy
chứng điệp là thoát tội Địa Ngục.
Các nhà Đại thừa lại còn dạy rằng, khi trẻ con mới sanh đem vào chùa quy y Phật sẽ
không bị tà ma, quỷ quái bắt làm cho đau bịnh, hay hoặc trẻ mới sanh đem đến
chùa quy y Phật sẽ được mạnh giỏi và không bị đau ốm, nhờ chư Phật phù hộ cho mạnh
giỏi. Trên đây là những điều mê tín mà
quý Thầy trong
các chùa thường
dạy tín đồ như vậy, để thu hút
tín đồ thường đến chùa cúng bái, chỉ cần dạy bảo những điều mê tín đó là các thầy
chẳng tu hành gì, ngồi không mà ăn (ngồi trong mát ăn bát vàng).
Khoảng mười
năm gần đây, có xuất hiện một loại kinh
nhỏ bằng
gói thuốc hút
có tên là
kinh Kỳ Cầu. Trong
kinh Kỳ Cầu dạy, nếu có quỷ sứ hay vua Diêm Vương tra hỏi, thì đưa kinh Kỳ
Cầu ra liền mới không
bị tra hỏi và được đi tái sanh,
không sa Địa Ngục:
“Mạng chung
số thác
Quỷ sứ hỏi cầu
Đã có Kỳ Cầu
Diêm Vương
tra hỏi
Đứng lại mà
nói
Đã có Kỳ Cầu” (trang 2,3)
Đó là một loại
mê tín, phi đạo đức. Nếu
làm tội lỗi, tức
là làm ác,
thì chỉ có làm việc thiện mới chuyển hóa được, để thoát khỏi cảnh
khổ hay là cảnh Địa Ngục,
chứ không phải
có Kỳ Cầu là
tiêu tai thoát nạn.
Thật là những
tà giáo Đại thừa bày nhiều điều phi đạo đức.
Kinh Kỳ Cầu
là một loại
kinh tà giáo, ngoại đạo,
mượn danh Phật
pháp để lừa đảo tín đồ Phật giáo làm việc mê tín, lạc hậu.
Kinh Kỳ Cầu giống như giấy
thông hành của giặc Pháp,
cấp cho những người dân bản xứ trong vùng chúng đã chiếm trong thời chiến
tranh. Trong kinh này còn dạy, nếu ai có kinh này thì chư Phật mới biết mà cứu
độ:
“Chẳng có Kỳ
Cầu
Phật mới biết
đâu
Lâm chung cứu
độ” (trang 9)
Đúng là một loại
kinh tà giáo, chỉ cần cuốn kinh chớ
không phải cần tấm lòng
giải thoát. Trong khi ấy, đức Phật dạy phải ly dục,
ly ác pháp thì tâm
thanh tịnh, tâm thanh tịnh tức là Tịnh Độ hay là Cực Lạc:
“Chư ác mạc
tác
Chúng thiện
phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật
giáo” (Kinh Pháp Cú)
“Tự tịnh kỳ ý” tức là
tâm ly dục, ly ác
pháp, tức là Tịnh Độ hay Cực Lạc hiện tiền. Làm ác thì phải chịu tội, thọ
khổ, thọ tai ương, chớ không có ai cứu mình được. Phải dứt trừ làm các điều ác,
thường làm các điều thiện
thì vạn tội tiêu trừ, chứ đâu phải tụng kinh mà được vạn tội
tiêu trừ.
“Tụng kinh kỳ
cầu
Vạn tội tiêu
thiên” (trang 4)
Họ còn nói,
cần mang theo trong người để đi đường đều có thần nhân ủng hộ
lúc sống cũng như khi chết (bỏ kinh vào ngực áo người
chết):
“Kinh bỏ túi
áo Để mà hộ thân Đi xa về gần
Tiên thần ủng
hộ” (trang 15) “Đến ngày lâm chung
Con cháu có
lòng
Bỏ vào trong
ngực
Thiên trừ tống
thực
Phật độ về
tây” (trang 15)
Đấy là những
giọng lừa đảo, dối gạt người, khiến cho những người ngu si, mê muội tin tưởng.
Tóm lại, từ
tờ Điệp phái biến thành bùa hộ mạng trị bệnh
trẻ con, đến “giấy
thông hành” đi đường
là một sự lừa đảo
của giáo pháp Đại thừa,
mà trong
các chùa hướng
dẫn phật tử.
Đây là giáo dục tín đồ mê tín, lạc
hậu, để dễ bề móc tiền một cách công khai
mà pháp luật nhà nước không
bắt tội cướp
giựt tài sản công dân. Làm điều ác tâm
còn đầy đủ tham, sân, si, nếu được về Tây
Phương thì Tây Phương không
còn là Cực Lạc
mà là Địa Ngục, vì bọn
người này sẽ về đó trộm cắp lung tung.
Kinh này viết
ra chỉ gạt người vô minh, người còn lạc hậu, mê tín chứ làm sao gạt những người
tu sĩ
chân chánh đệ tử của Phật được.
Tại sao vậy? Tại
vì toàn bộ đệ tử của Phật
được dạy về đạo
đức nhân quả,
nên không có một giáo
pháp mê tín nào lường
gạt được. Chỉ
có những người chưa học đạo đức nhân quả thì dễ bị kẻ
khác lừa đảo. Là một
tín đồ Phật giáo,
chúng tôi rất
đau lòng khi gặp những
cuốn kinh này mạo danh Phật giáo, dạy dân gian làm những điều
phi đạo đức.
Cuối cùng,
các con hãy cảnh giác, tờ Điệp phái là một giấy
chứng thật các con đã
quy y theo Phật, chớ không phải là bùa hộ mệnh và
cũng không phải là giấy thông hành. Đó là cách thức lừa đảo của quý thầy Đại thừa.
Các con nên
nhớ, tự quy y Phật, tự quy y Pháp, tự quy
y Tăng, tức là không cần phải giấy
tờ chứng điệp
gì hết. Nếu lòng của các con
hướng về Phật,
Pháp, Tăng để tìm
đường thoát khổ của cuộc đời, thì khi thực hành, với tất cả tâm
thành, các con sẽ
thấy sự giải
thoát thật sự. Đó
là các con đã
quy y Phật, Pháp, tăng rồi.
Đời sau người ta muốn kiểm
tra xem số tín đồ
Phật giáo
đã quy y được bao nhiêu
mới bày ra điệp phái.
TUẦN THẤT
Hỏi:
Kính bạch Thầy, khi nhà có người chết,
trong chùa quý Thầy dạy làm tuần thất, cho đến
7 thất,
tức là 49
ngày, thường tụng
kinh Địa
Tạng Vương.
Vậy thưa Thầy, có lợi ích
gì cho người chết
và những người
còn sống trong
gia đình không, thưa Thầy?
Đáp: Xưa, đức
Phật đã không chấp nhận thế giới
siêu hình, thì làm
gì có linh hồn người
chết mà cầu siêu làm tuần thất, tụng kinh Địa Tạng.
Kinh Địa Tạng
Vương là một loại kinh mê tín của Đại thừa
giáo, do các Tổ
biên soạn ra dựa theo sự mê tín của những người dân còn
lạc hậu, tin rằng người chết có linh hồn, nên kinh này đặt ra Bồ Tát Địa Tạng xuống Địa Ngục giải cứu những
linh hồn tội lỗi.
Nếu ai tụng kinh này
và cúng bái, tế lễ sẽ
được ngài Địa Tạng
cứu khổ thoát
khỏi vòng lao lý ở Địa Ngục. Khi người mới chết linh hồn
được quỷ sứ bắt về
hành
tội, do lúc
ông bà ở trên
dương thế làm điều ác đức, nên chết xuống Địa Ngục bị hành xử đủ mọi
cực hình. Nên khi trong nhà có người chết
phải đến nhờ
quý thầy Đại
thừa đến tụng kinh cầu
siêu, mà thường
là đem kinh Địa Tạng Vương ra tụng
để cầu ngài cứu họ thoát cảnh Địa Ngục.
Mỗi thất đều
có cúng dâng lên hương hoa, trà quả cùng những thực
phẩm bánh trái, cơm canh cúng
chư Phật, và cầu
ngài Địa Tạng xuống Địa Ngục giải cứu. Suốt trong 49 ngày được
cúng bái như vậy thì vong linh người chết sẽ khỏi tội đi tái
sanh.
Làm như
kinh sách Đại thừa dạy như vậy là làm
một điều phi đạo đức.
Nhờ có làm tuần và tụng kinh Địa Tạng trong 49 ngày mà tiêu tội
ư? Tức là trong 49 ngày những người thân còn sống rước
Thầy tụng kinh và
mua lễ vật
cúng bái... Đây là hành động phi
đạo đức.
Trong kinh Địa
Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện dạy: “Như có người nào sắp mạng chung, hàng thân quyến trong nhà
nếu có một
người vì người bịnh sắp chết đó mà niệm lớn tiếng danh hiệu
của một đức Phật, thời người chết đó trừ năm tội lớn vô gián, các
nghiệp báo khác
điều tiêu sạch cả”
(kinh Địa Tạng, trang 133).
Lời như trong
kinh này là một lời dạy phi đạo đức rất lớn, lừa đảo những người mê tín,
lạc hậu.
Luật nhân quả
là một đạo luật công bằng và công lý, làm sao lại có Bồ tát hoặc đức Phật nào
dám giải cho kẻ làm
ác? Kẻ làm điều
cực ác nên mới đọa
vào Địa Ngục vô
gián, thế mà chỉ cần có một người
niệm giúp thì cũng thoát ra khỏi
Địa Ngục vô gián,
như vậy có phải là
lời lừa đảo
người không? Thảo
nào có nhiều
người đem
công đức tụng kinh này, hoặc làm đàn tràng
thỉnh mời các sư
về tụng
niệm, để cầu
cho người thân thương của mình
thoát cảnh Địa Ngục và tất cả các nghiệp báo khác điều tiêu sạch.
Kinh
sách Đại
thừa dối gạt
người bằng nhiều hình
thức mê tín, khiến
cho con người hao tài, tốn của rất
nhiều về vấn đề cúng bái, tụng niệm, cầu an, cầu siêu, mà chẳng có ích lợi gì
thiết thực cho người còn sống và người chết.
Đây là một đoạn
kinh lừa đảo, dối gạt, làm hao tốn
tiền của con người:
“Có thể họ vẽ, cho đến
dùng vàng, bạc, đồng, sắt
đúc nắn hình tượng
Địa Tạng Bồ Tát đốt hương
cúng dường, chiêm lễ ngợi khen, thì
chỗ người đó ở có 10 điều lợi ích. Những gì là mười?
- Một là đất
cát tốt mầu.
- Hai là nhà
cửa an ổn mãi mãi.
- Ba là người
chết được sanh lên cõi trời.
- Bốn là người
còn sống hưởng sự lợi ích.
- Năm là cầu
chi cũng được toại ý cả.
- Sáu là
không có tai họa về nước và lửa.
- Bảy là trừ
sạch việc hư hao.
- Tám là dứt
hẳn ác mộng.
- Chín là
khi ra, lúc vào có thần hộ vệ.
- Mười là
thường gặp bậc thánh nhân”.
(Kinh Địa Tạng,
trang 155)
Trên đây là
những lời nói xảo trá. Làm gì có chuyện
vẽ hình đúc tượng Bồ
Tát Địa Tạng, thờ cúng mà đất ở đó lại tốt mầu. Đất xấu là
đất xấu, chỉ có bón
phân, đổ rác mục thì đất
mới có mầu
mỡ, trở lại.
Còn đất tốt là đất tốt, đất phù sa nên mới tốt, chứ đâu phải thờ hình tượng bồ
tát Địa Tạng mà tốt được. Thật
là kinh sách gạt
người, chỉ có người mê muội mới tin nó mà thôi.
Từ cuốn kinh
Địa Tạng, chúng ta suy ra tất cả những
cuốn kinh khác cũng đều là loại kinh xảo trá
lừa đảo gây
mê tín cho người. Đây
là một đoạn kinh nói láo nhất,
chúng tôi xin trích ra để quý vị nghiên
cứu: “Chiêm lễ hình tượng của Địa Tạng Bồ
Tát và đọc tụng kinh bổn nguyện này tự nhiên
được rốt ráo
xa lìa biển
khổ, chứng đạo Niết
Bàn an vui,
vì thế nên được ủng hộ một cách lớn lao như thế” (trang 154, kinh Địa
Tạng).
Muốn lìa biển
khổ của cuộc đời để chứng đạo Niết Bàn đâu phải là một việc dễ làm. Biết bao
nhiêu người tu
hành bỏ cả
công sức vô
cùng, vô tận mà chưa chắc
đã đạt được.
Xưa, đức Phật Thích
Ca sáu năm khổ hạnh gần như muốn chết, sau đó nhờ
49 ngày miên mật mới chứng được Niết Bàn. Vậy mà trong kinh này dạy: “Chỉ cần chiêm lễ
và tụng niệm
kinh bổn nguyện thì tự nhiên giải thoát biển khổ thế gian, chứng
đạo Niết Bàn”. Thật là kinh đại vọng ngữ!
Nếu được
như trong kinh này
dạy thì Bồ Tát Địa Tạng
Vương là hiện
thân cho sự
phi công bằng và
công lý, là hiện thân của ma vương, của ác pháp.
Tóm lại, đạo Phật
chủ trương không
có linh hồn nên làm tuần thất là
mê tín. Kinh Địa Tạng là kinh Bà La Môn, ngoại đạo dạy những điều phi
đạo đức
và lừa đảo.
Nhìn vào cuốn
kinh có hình Địa Tạng Vương
cỡi con sư tử lông
xanh, hình ảnh ấy phản lại đạo đức
từ bi, bình đẳng của đạo Phật. Một vị tu
sĩ mà bắt con vật chở mình đi thì còn
nghĩa lý gì là tu sĩ đạo Phật. Hình ảnh
đó là bắt loài thú
làm nô lệ,
đó là hình ảnh giai cấp
vua chúa.
Không có
linh hồn thì cầu siêu cho ai, cầu như vậy
có ích lợi
gì? Xin quý phật tử cứ đọc
kinh sách của Phật giáo Nguyên Thủy rồi suy ngẫm, đừng để mắc lừa tà
giáo khác.
CHẾT GIỜ TỐT,
XẤU
Hỏi:
Kính bạch Thầy, trong gia đình nào có người chết rất quan trọng là giờ phút
lúc tắt thở. Họ đến nhờ ông thầy cúng xem người chết lúc đó giờ tốt hay xấu, giờ
trùng hay không trùng, nếu ông thầy nói chết được giờ tốt không có trùng thì
gia đình
yên tâm, nếu
ông thầy bảo giờ xấu có
trùng thì ông thầy ấy cho bùa
yếm để trong gia đình không có người chết nữa. Như vậy
có đúng không, thưa Thầy?
Đáp: Không
đúng con ạ! Đó là những kinh sách
mê tín lạc hậu của người
xưa, khi đời sống con người còn lạc
hậu, dân trí chưa cao, kiến thức khoa học chưa có, tầm hiểu biết không
nhìn rộng,
thấy xa được. Con
người thời ấy bản chất
còn mang tính thú vật, chưa biết đạo đức là gì, chỉ đi lượm trái cây rừng
hoặc đào rễ cây mà ăn.
Cho nên trước
những hiện tượng thiên nhiên thời tiết thì họ
không thể nào hiểu được,
nên đành dùng tưởng tri để hiểu. Do tưởng tri để hiểu thì những cái
không hiểu được đã biến thành một thế giới siêu hình. Từ tưởng tri thế giới siêu hình, họ mới tưởng
tri ngày, tháng, năm để hoàn thành lịch và
dịch số chiêm tinh. Do chỗ không thấu rõ hiện tượng thiên nhiên vũ trụ,
nên các nhà tôn giáo và triết
gia sản xuất ra biết
bao nhiêu loại kinh sách tưởng để
thuyết minh các hiện tượng siêu hình.
Hiện tượng
siêu hình ngày nay đã biến thành một tai họa
rất lớn cho con người
trên thế giới; muốn
phá bỏ nó thật là điều nan giải. Nó
đã in sâu vào tâm khảm và truyền
từ thế hệ trước đến thế hệ sau những
cái không đúng sự thật,
chỉ là tưởng mà thôi, những cái
tai hại cho con người vô cùng to lớn từ đời
này đến đời
khác, những cái phi
đạo đức đã đưa
con người đến chỗ
hung ác, gian xảo
hơn loài cầm
thú, dùng mọi
cách lừa đảo, lường gạt. Báo công
an đã tường thuật không biết bao
nhiêu là
mánh khóe cưỡng
đoạt tài sản của kẻ khác, chỉ cần 100 ngàn hay 1 triệu
đồng là xem mạng sống con người không ra gì. Những kẻ đầu trộm,
đuôi cướp này chỉ mua một
cuốn sách tử vi
xem ngày tốt, xấu rồi đi trộm
cướp, giết người lấy của, mà
không bị ai bắt thì cần gì phải đi lao động khó nhọc mà chưa chắc đã có tiền
như
đi ăn trộm,
ăn cướp. “Một đêm ăn trộm bằng ba năm
làm”, đó là tục ngữ
dân gian đã dạy như vậy.
Trên cuộc đời
thứ nhất là danh, thứ hai là lợi. Các
nhà triết học
đua nhau đưa ra triết thuyết này triết thuyết khác đủ mọi thứ mọi
loại, phần nhiều đều nằm ở trong tưởng thức mà luận ra, không thực tế, mơ hồ, trừu
tượng, khi áp dụng vào
đời sống con người,
vốn đã khổ đau
lại càng khổ đau hơn. Như thuyết hiện
sinh, thuyết vô ngã của Đại thừa giáo, thuyết hữu ngã của thiền Đông độ, thuyết
vô sản của
Kark Marx, thuyết
hữu thần của các tôn giáo khác, thuyết âm dương của Trung Quốc,
thuyết luân hồi
tái sanh của Phật
giáo Đại thừa và các tôn giáo khác,
v.v... đều đưa con người quay cuồng
trong các học
thuyết đảo điên và điên đảo.
Thuyết âm
dương của Trung Quốc mới có xem giờ
tốt, xấu, coi
cung mạng xung khắc trong
càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài. Họ lý luận rằng con người
khi chết, cũng như
lúc sanh ra phải ở trong một cung nhất định. Các nhà học
giả thời nay đua nhau nghiên cứu triết thuyết trừu tượng này,
và đã tốn biết bao nhiêu
tâm lực và giấy
mực. Nhưng nó
có đem lại lợi ích cụ thể thiết thực cho loài người đâu, chỉ toàn
là luận thuyết để mà cầu danh và càng
làm thêm rắc rối cho tư tưởng con người.
Những loại
triết thuyết này đưa ra biến thành một
cuộc nội chiến
trong tâm của mọi người.
Có
những người
cuồng tín, tin một cách
mù quáng, biến mình thành những công cụ cho những triết thuyết
sai khiến. Đó là những tín đồ hăng say, điên
khùng xông vào
cái chết, và giết người
như cỏ rác mà chẳng xót thương.
Năm, tháng,
ngày, giờ tốt, xấu, đó là một triết thuyết về luật âm dương, đưa con người đến
chỗ mê tín tận cùng, mỗi khi làm việc gì cũng xem ngày, giờ tốt, xấu và tuổi
tác có hợp hay không. Hiện giờ ai cũng biết đó việc mê tín, lạc hậu, phi đạo đức,
vậy mà người ta không thể bỏ được tập quán,
thói quen này,
ngay kể cả
người có học thức, có kiến thức về khoa học.
Đạo đức nhân
quả đã xác định, kẻ
làm ác dù có
xem ngày, giờ, tuổi
tác tốt, xấu
khi cất nhà, dựng vợ, gả chồng
cho con cái, hoặc xem giờ an táng, hoặc xem tuổi tác
người chết tránh
trùng tang, liên táng,
bằng mọi cách
mua bùa về yểm cho tai qua, nạn khỏi,
bệnh tật được
triêu trừ và hưởng được phước báo đầy nhà, thì chẳng
bao giờ được. Nếu được thì đó là một điều vô đạo đức, không công bằng và công
lý.
Người ta
sanh ra ở đời phải chấp nhận luật nhân quả. Nếu ta làm điều thiện thì ngay đó
tâm ta được an vui,
thanh thản, đó
là phước báo của
mình làm ra, còn nếu mình làm ác mà cầu phước báo thì chẳng
bao giờ có được,
dù cho những bậc xem ngày, giờ tốt, xấu giỏi như
Trương Lương, Tiêu Hà, Khổng Minh, Quỷ Cốc
Tử, cũng không tránh
khỏi luật nhân
quả. Cho
nên Trương
Lương phải ẩn bóng, Tiêu Hà bị chết, Khổng Minh thất bại trong việc chấn hưng
nhà Hán.
Xét cho cùng,
từ xưa cho đến nay,
có mấy ai xem
ngày, giờ tốt, xấu mà
làm nên sự
nghiệp đâu. Làm nên sự nghiệp đều do nhân quả thiện của mình. Người xưa nói: “Tích
ác phùng ác, tích thiện
phùøng thiện”, làm
ác gặp khổ,
làm lành gặp phước an vui, thanh
thản.
GIỜ HẠ HUYỆT
Hỏi: Kính
bạch Thầy, khi
linh cữu đưa ra khỏi nhà, vào lúc hạ huyệt có phải xem giờ
không thưa Thầy? Người mới chết có cần phải cúng cơm
49 ngày mới
thôi không thưa Thầy?
Đáp: Theo sự
mê tín, lạc hậu của những người xưa thường sống
trong tưởng thức, nên dễ bị ảnh hưởng
của sách vở
mê tín, phi đạo đức của nền
văn minh
Trung Quốc, cho nên
xem giờ tốt, xấu rồi
mới được chôn cất để
không ảnh hưởng
xấu đến con cháu sau này.
Phật giáo
truyền sang qua Trung Quốc, thấy dân chúng ở xứ này đang tin tưởng vào ngày, giờ,
năm, tháng, tuổi tốt, xấu của những người giàu tưởng tượng, nên cũng chế ra những loại sách
vở mê tín để bói
toán, xem số mạng,
vận nước tốt,
xấu. Những
nhà thiên văn, địa lý dựa vào luật âm dương, tạo ra
sách vở chiêm
tinh, bói toán, dịch số, như Châu Văn Vương sống trong tù bảy
năm ở Vạn Lý Gia soạn bộ dịch số, Quỷ Cốc Tử, Tôn Tử, Trương Lương, Khổng Minh,
đều là những tay bói toán thần kỳ, biết trước
những sự việc xảy ra. Thế
mà Châu Văn
Vương không tránh
khỏi 7 năm tù ăn thịt con, Trương
Lương vào núi ở ẩn, Khổng Minh tan mộng phục hưng nhà Hán.
Tất cả những
sự thành bại trong đời người đều do nhân
quả, không có
nhà chiêm tinh bói
toán nào giải quyết được luật nhân quả, không thể nào xem giờ tốt, xấu cất
nhà, hạ huyệt, an táng mà tránh khỏi luật nhân quả.
Nếu là
chiêm tinh gia, tiên
tri mọi việc, sao quý vị không xem giờ tốt xấu để cãi lại
luật nhân quả số phận của mình,
để mình giàu
sang và quyền cao quan
tước trọng. Cớ sao
lại đi
ngồi ngoài hè đường phố, hoặc mở phòng xem bói, chiêm tinh, tử
vi, hoặc ẩn
náu trong chùa,
mang hình thức tu
sĩ Phật giáo
làm chuyện phi Phật,
phi pháp, phi đạo đức, lừa đảo
tín đồ bằng cách xem ngày, giờ tốt, xấu như các nhà Nho lỗi
thời. Đúng là không
biết nghề nào
làm ăn, mượn
ba thứ sách mê tín, dị đoan để gạt người nhẹ dạ.
Phần nhiều
những hạng người có học Nho như các Thầy đồ
Nho, học hành,
thi cử thất bại,
và các ông Thầy chùa, tu chẳng ra tu, mượn chiếc áo Tỳ kheo làm
những điều mê
tín, lường gạt người bằng
những trò bịp bợm xem ngày,
giờ tốt, xấu,
cung mạng,
sao hạn, để khiến người khác sợ hãi, bỏ
tiền ra cúng
bái, tế lễ
và tiền tổ, tiền sư, đủ mọi thứ để rồi tiền mất, tật mang. Luật
nhân quả rất công bằng
và rất cụ thể, nếu ai
làm điều
ác, dù xem ngày, giờ tốt, xấu cũng không tránh khỏi tai họa, nếu ai làm
một việc lành, dù chẳng
xem ngày, giờ tốt, xấu, chẳng cúng sao hạn mà phước báo vẫn cứ đến.
Xưa, đức Phật
dạy: “Nếu một người làm ác, như cục đá ném xuống hồ, dù cho tụng kinh niệm chú, cầu khẩn
cho cục đá nổi lên
thì nó chẳng bao giờ nổi. Nếu một người làm thiện, giống
như những giọt dầu nổi
trên mặt nước, dù
không cần tụng
kinh, niệm chú và cầu khẩn, giọt
dầu vẫn nổi, không ai làm nó chìm được”.
Theo đạo Phật,
chết là nên thiêu đốt, và chôn cất không
cần phải xem
ngày, giờ tốt, xấu, vì thây
người chết bất tịnh, uế trược, hôi thối, để lâu sình ra truyền nhiễm những bịnh tật khổ
đau cho người còn sống.
Không có giờ, ngày
nào là tốt
hay xấu. Tốt xấu
là do hành động
thiện ác của
con người tạo ra để rồi thọ lấy
tai nạn, bịnh tật,
khổ đau, chớ không phải
người chết nhằm
giờ, ngày xấu,
hoặc hạ huyệt vào giờ, ngày xấu mà con cháu, những người thân
trong gia đình xảy ra tai
nạn, bịnh tật. Đạo Phật
không hề có chủ trương
sự mê tín như vậy. Đạo Phật xây dựng tôn giáo mình
trên một nền đạo đức khoa học, phá vỡ những điều mê
tín mù mờ, dị đoan, tưởng
tượng của những
loại kinh sách phản khoa học, phi đạo đức, v.v...
Đạo Phật chủ
trương ai làm ác người ấy chịu
quả, chứ
không có kẻ
này làm mà người khác chịu. Đạo Phật không có dạy rằng cha giết
người mà con bị tù tội, cha ăn trộm mà con bị chặt tay. Quý phật tử hãy tin nhân
quả, và sống cho đúng nhân
quả, đừng làm khổ mình,
khổ người, thì cuộc đời sẽ được an vui và hạnh phúc, không bao giờ có tai
nạn, bịnh tật
nan y xảy đến. Chết muốn chôn giờ nào, ngày nào cũng đều tốt,
vì ngày, giờ là thời gian tự nhiên của vũ trụ, không bao giờ có tốt, xấu. Nếu lúc
nào chúng ta cũng
làm thiện, làm
lành, thì hà tất phải sợ những tai nạn, bịnh tật.
Xem ngày, giờ
tốt, xấu để chôn cất là những người lạc hậu,
mê tín, bị kẻ
khác lừa đảo,
tiền mất chẳng ích lợi gì. Hãy mạnh dạn, đừng sợ hãi, bất chấp mọi thử
thách, lúc nào cũng làm lành, không
làm khổ mình,
khổ người rồi mọi sự tốt
đẹp sẽ đến với mình.
LỜI BẠT
(Trích Lời
Nói Đầu ở bộ sách
Đường Về Xứ
Phật)
“Người đi tu mà không học là tu mù, người có học
mà không tu
như cái tủ đựng kinh sách”. Người tu có học hiểu mà không
thưa hỏi kinh nghiệm của thiện hữu tri thức, tự kiến giải, tự tu thì cũng giống
như người đi lạc trong rừng sâu chẳng biết đường ra, trăm ngàn người đều tu
sai, tu không tới nơi tới chốn. Tự kiến giải
tu, tu tập chưa tới đâu vội đem ra hướng dẫn người khác tu hành, thì cũng
giống như người mù, dắt một bầy
mù đi.
Tất cả đều
có thể sa hầm,
lọt hố và chết
chìm nhau cả đám.
Tất cả những người tu theo đạo Phật hiện giờ đều đang đi
trên lộ trình này,
đang lạc vào mê hồn
trận của kiến
giải, tưởng giải.
Ngôn ngữ danh từ
không đủ để diễn tả
chính xác những trạng
thái kinh nghiệm tu
hành. Một khi muốn hành
động tu tập
thân tâm một điều gì thì cần phải thưa hỏi rất kỹ, đừng vội vàng
nghe những lý thuyết suông
của người khác,
và cũng đừng tự
nghĩ cho rằng
mình đã hiểu,
rồi cứ theo sự suy nghĩ
hiểu đó mà
tu tập thì chẳng
bao giờ có kết quả. Hãy bắt đầu tu tập từng bước một,
không vội vàng, không nôn
nóng, mỗi bước
tu tập là mỗi
kết quả
cụ thể. Tu tập
như vậy càng
ngày càng thấy tiến bộ rõ rệt, không
sợ bị tà
giáo, ngoại đạo phỉnh gạt
mình. Nhận thức được điều ấy giúp cho
mình vững niềm
tin ở pháp môn
mình đang tu chính là pháp môn của đức Phật, không còn sợ
sai nữa.
Tu sai lạc, nhất
là đi vào chỗ thiền ức
chế tâm
rất là nguy hiểm
có khi bị điên khùng,
tẩu hỏa nhập ma. Đường tu bị dậm chân tại chỗ không tiến bộ, tu mãi chẳng đi đến
đâu, chỉ uổng phí một đời tu, chẳng lợi
gì cho mình, nói gì đến lợi ích
cho người.
Trong giai
đoạn Phật giáo hiện nay, người ta bảo rằng Phật giáo có tám mươi bốn ngàn pháp
môn (84.000). Nếu không vấn đạo rõ ràng, chúng ta sẽ bị Đại thừa giáo lừa đảo bằng câu
này: “Pháp pháp đều
vô ngại và
dung thông”. Theo như Đại thừa thì pháp nào cũng của đạo
Phật, người có duyên với pháp môn nào tu cũng đều tốt, cũng được giải thoát,
cũng được giác ngộ tùy theo căn cơ của mỗi
người có thấp,
có cao, nên pháp môn
tu hành cũng vậy. Thế
là hiện giờ, tất cả mọi
người ai cũng
tin lời nói này.
Không ngờ, nhiều người
bỏ hết sự
nghiệp, gia đình,
vợ dại, con thơ, cha già,
mẹ yếu và cả cuộc đời mình để
đi tu,
cuối cùng chẳng
thấy gì là giải
thoát sanh tử, luân hồi, làm chủ tâm
tham, sân, si, mạn,
nghi và phiền não của mình. Bởi vậy, kẻ
nào cho
tất cả các
pháp môn tu cũng đều tốt, cũng được, cũng
thiện, cũng được
giải thoát, cũng
chấm dứt đau khổ và luân hồi, thì đó là kẻ nông nổi, u mê,
không biết tai hại
về sau như thế nào,
không trí tuệ, thiếu
nhận xét, nhắm mắt
tin càng, tin bừa, để rồi phải ân hận về sau. Thử hỏi, nếu các pháp tu đều
tốt, đều thiện,
đều tu tập có kết quả giải thoát như nhau,
thì đạo Phật ra đời để làm gì? Có phải bằng dư thừa không?
Chúng ta
còn nhớ, khi xưa
đức Phật tu các
pháp môn
của ngoại đạo,
nhập đến Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng Xứ định, nghiệm xét lại thấy thân tâm mình
không giải thoát.
Sáu năm trời
khổ hạnh, Ngài tu tập mọi loại pháp môn ức chế tâm, nhất là
pháp môn hơi thở, Ngài
nín thở ức chế
tâm tối đa, tưởng chừng như Ngài sắp chết. Nhận thấy pháp môn này không giải
thoát, nên Ngài chuyển qua pháp môn ức chế
thân khổ hạnh tối
đa, ngày ăn bảy hạt mè hoặc một ít cháo đậu. Cơ thể vì tiết thực
nên kiệt quệ,
Ngài đi hết nổi.
Nhờ bát sữa dê, phục hồi cơ thể, Ngài tỉnh táo và tư duy, biết các pháp ức chế thân tâm không thể tu tập đi đến giải thoát được, Ngài từ bỏ và viễn ly các pháp đó.
Ngài đã ra
đi, tự
mình tìm ra một giáo
pháp, một đường lối, một đạo lộ tu tập riêng đi đến giải thoát cứu
kính, làm chủ sanh, già, bịnh, chết. Lục
Sư ngoại đạo và các tôn giáo khác thời bây giờ không có pháp môn này, một giáo
pháp chỉ có 49 ngày tu tập
nhiệt tâm, quyết
chí xả ly,
lìa tâm
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!