Ngƣời đã xả hết chỉ còn ba y một bát, đi xin ăn, sống rày
đây,
mai đó, không nhà, không gia đình, thiểu dục, tri túc,
tâm
hồn trắng bạch
nhƣ vỏ ốc, phóng khoáng nhƣ hƣ không. Ngài là hiện thân gƣơng hạnh buông xả và đã nhờ buông xả mà Ngài đã tìm thấy đƣợc chân lý. Con đƣờng
giải thoát
cho
chính mình và cho mọi
ngƣời mai
sau. Gƣơng hạnh sống buông xả của Phật, thật là tuyệt vời. Cuộc
đời Ngài nói đƣợc làm đƣợc, đó là lời nói đi đôi với hành động: “Xả của cải tức là xả cái duyên lìa tội ác”. Ngài
đã sống đúng nhất quán, lìa
tội ác.
Hỡi các
bạn
đồng tu! Đức Phật thì xả cái duyên lìa tội ác,
còn
các bạn thì sao?
Sao
các b ạn
lại
tích lũ y củ a cải
n h iều
thế? Chù a
to
Ph ật
lớn,
tiền b ạc
n h iều,
xe
cộ, đ ồ
đ ạc,
p h òn g
ốc san g đ ẹp n h ƣ ôn g
Chú a, b à Hoàn g
,… của
cải không thấy
bớt,
ngày càng thêm
nhiều...Nhƣ vậy các
bạn có
biết không? Các bạn có xả cái duyên tội ác không? Tích lũy của cải là tích lũy tội ác đấy các bạn ạ! Hãy tránh xa của cải thì tội ác mới tiêu trừ. Nhƣ vậy
con đƣờng tu hành của các bạn mới
tìm
thấy sự giải thoát.
Qua lời dạy trên đây chúng ta thấy rất rõ cái duyên tội ác
là do của cải, tài sản. Cho n ên ai tích
lũ y
của cải tài
sản
n h iều
là
n gƣời tạo du yên
tội
ác
n h iều,
ai
tích lũy
củ a
cải tài
sản ít
th ì tạo du yên tội
ác ít .
Một ngƣời tu theo Đạo Phật khi đã hiểu
biết duyên nào gây
ra
tội ác, thì chúng ta
nên từ bỏ và tránh xa duyên đó. Phải
không các
bạn? Nếu không tránh xa duyên tội ác đó thì chúng ta đừng nên tu theo Đạo Phật, vì có tu chẳng có ích
lợi gì cả. Duyên tội
ác là
gì các bạn. Là
của
cải, tài sản,
ruộng vƣờn, đất đai,
nhà
cửa, chùa to, Phật lớn, v.v…
Xả của cải tài sản, v.v... là xả cái quả của tội ác nhƣ trên,
còn xả cái nhân tội ác. Thì đến câu hai Đức Phật dạy: “Xả
tham đọa tức là xả cái nhân lìa tội ác”. Vậy tham đọa là nghĩa gì?
Tham đọa tức là tham độc, một trong ba độc: Tham, sân,
si.
Tham đọa có nghĩa là lòng tham muốn đƣa chúng ta vào sự
khổ
đau; tham đọa còn có nghĩa là do lòng tham muốn đƣa chúng
ta vào cảnh khổ hay
địa ngục.
Lòng còn tham muốn là cái nhân của tội ác. Ngƣời tu
theo Đạo Phật phải thấy rõ cái nhân này: “Tâm tôi có tham tôi
biết tâm tôi có tham”, tức là tôi biết tâm tham là nhân của tội lỗi. Do đó tôi phải ngăn và diệt nó, ngăn và
diệt
cái nhân tội lỗi là diệt lòng
tham muốn của mình.
Qua lời dạy này tôi biết
rất
rõ nhân của tội ác là tâm tham muốn của tôi. Vậy từ đây tôi quyết tâm diệt trừ cái nhân
gây ra tội ác. Nhờ có quyết
tâm ấy, tâm tham của tôi chấm
dứt.
Lời dạy
này tuy ngắn ngủi nhƣng nó mang đầy
đủ
tính chất
đạo giải thoát
của
Phật Giáo.
Theo
nhƣ lời
Phật dạy: “Xả
tội ác tức là dứt các nghiệp
sanh tử”. Ở đây Đức Phật dạy: “Xả
tội ác”. Vậy xả tội
ác nhƣ thế nào?
Nhƣ hai lời
dạy ở trên:
- Duyên của tội ác là của cải.
- Nhân của
tội ác là lòng tham muốn.
Theo nhƣ lời dạy trên đây chúng ta đã biết duyên và nhân
của
tội ác. Vậy xả tội ác thì chỉ có
xả nhân và duyên của
nó, thì tội ác sẽ không còn nữa.
“Xả tội ác tức xả của cải và tâm tham muốn của chúng ta”.
T
u theo
Ph ật
Giáo q u á đ ơn giản p h ải kh ôn g
các b ạn ? Chỉ
cần
xả
củ a
cải và tâ m
t h am
mu ốn
củ a
mìn h
t h ì
k h ôn g còn
tội lỗi và d ứt
n gh iệp
san h
tử
. Nói thì dễ nhƣng làm đƣợc việc này
không
phải
dễ. Phải không các bạn?
Hiểu biết thì dễ và rất đúng nhƣng làm sao xả của cải và
tâm tham muốn của mình cho đƣợc. Không đơn giản đâu các
bạn. Cả một công trình vĩ đại của một
đời ngƣời tu tập. Xả
của cải thì dễ, nhƣng xả lòng ham muốn thì khó. Khó lắm các bạn ạ!
Chỉ có
n h ữn g b ậc
thấy
b iết đ ời n ày
k h ổ
nh ƣ
thật thì mới là m
đ ƣợ c và làm rất
d ễ d àn g . Còn chúng ta là
những hạng cóc, nhái, đời cũng muốn mà đạo cũng muốn. Cả hai đều muốn hết nên cóc, nhái cũng chỉ là cóc, nhái mà
thôi. Phải không các bạn?
***
Đức Phật đã xác
định: “Không xả bỏ của cải thì pháp sám
hối
không thành”. Ngƣời đời thƣờng hay
đến chùa lạy hồng danh Phật để sám hối hoặc phát lồ sám hối trƣớc một vị
thầy để mong cho tiêu tội, nhƣng sám hối phát lồ hay lạy hồng danh chƣ Phật mà không xả bỏ của cải của mình thì
pháp
sám hối không thành có nghĩa là tội lỗi không dứt, không bao giờ hết.
Trên đây là
lời kết thúc của Đức Phật cho chúng ta thấy lạy lễ hồng danh chƣ Phật và phát lồ sám hối không thể tiêu tội
nghiệp chƣớng đƣợc. Ngƣời n ào d ạy ch ú n g ta
lạy
Ph ật
n h iều
và
ph át
lồ
sám
hối ch o tiêu
tai
n ghiệp
ch ƣớn g là d ạy
mê tín, là đ i
n gƣợc lại lời d ạy
củ a
Đức
Ph ật; n gƣời ấy
là
đ ạo sĩ B
à La
Môn đ an g lừa đ ảo tín đ ồ .
“Không xả bỏ của cải thì pháp sám hối không thành”. Các
bạn có nghe lời
dạy
này không?
“Tánh tội vốn không do tâm tạo
Tâm đã diệt rồi tội sạch không
Tội trong
tâm
ấy cả hai không
Thế mới
là chân sám hối.”
Đây
là sự sám hối của Thiền Tông và Đại Thừa, nhƣng sự sám hối này không giống nhƣ lời
Đức Phật dạy: “Không xả
bỏ của cải thì pháp sám hối không
thành”. Chúng ta hãy nhìn sự thật về Thiền Tông và Đại Thừa. Thiền Tông và Đại Thừa thì của cải tài sản càng lúc càng đồ sộ. Chùa to
Phật
lớn hằng tỷ bạc, vật
chất
xe cộ đầy đủ không thiếu vật
gì, giống nhƣ ngƣời thế gian. Có đúng nhƣ vậy không các bạn? Vậy sám
hối
của Thiền Tông và Đại Thừa có tiêu tội
không
các
bạn hay chỉ là
lời nói suông mà thôi.
***
Đức Phật đã xác định: “Không xả tâm tham thì nhân luân hồi không dứt.” Nhờ lời dạy này chúng ta biết rõ nguyên nhân luân hồi là tâm tham. Cho nên, n gƣời n ào tâm
còn
tham là còn
lu ân h ồi;
ngƣời n ào
d ứt tâ m
tha m là d ứt
lu ân
h ồi. Do lời d ạy
xác
đ ịn h n ày
mà trên đ ƣờn g tu tập ch ú n g ta
b iết rất
rõ mìn h còn
lu ân h ồi
h ay đ ã
h ết
luân
h ồ i. Tâm
tham còn là
còn luân hồi, tâm tham hết là hết
luân hồi.
Nhƣ vậy, Đạo Phật không có dạy điều gì là mơ hồ trừu tƣợng mê tín, mà là một sự luân hồi rất cụ thể rõ ràng. Vì
tâ m
tôi
h ết
tha m thì sẽ tƣơn g
ƣn g
n ơi
đ âu tâm k h ôn g có
tham, còn tâm tôi có tham thì
tôi
p h ải
tƣơn g ƣn g với
tâ m
tham củ a mọi
n gƣời tr ên
thế
gian
n ày, vì
mọ i
n gƣời
trên
thế gian n ày
tâm
đ ều
có tham . Luân hồi là nhƣ vậy, là một điều thực tế nhƣ vậy, không thể có ai chối bỏ đƣợc thuyết
luân
hồi này là không có. Anh còn tham thì anh tránh đ âu
k h ỏi ch ỗ lu ân h ồi;
an h
h ết
tham
thì
lu ân h ồi
ch ẳn g làm gì
an h
đ ƣợc.
Ví nhƣ: Tâm tham của anh là một tảng đá, dù
anh không muốn nó chìm xuống đáy hồ, nhƣng khi ném nó xuống hồ thì nó vẫn chìm xuống tận đáy. Còn tâm anh
không tham ví nhƣ giọt dầu, dù anh muốn nó chìm xuống đáy
hồ, nhƣng khi
ném nó
xuống hồ
nó vẫn nổi.
Qua ý nghĩa này
chúng
ta mới hiểu rõ nghĩa lời Phật dạy: “Ta chỉ còn có một kiếp này nữa mà thôi”. Nhƣ vậy một ngƣời đã tu chứng đạo thì không còn luân hồi trở lại thế
gian này nữa, dù ngƣời ấy có muốn cũng không đƣợc, vì
họ đã trở thành giọt dầu rồi, trong thế gian này còn chỗ nào
đâu
mà tƣơng ƣng họ tái sanh luân hồi. Ch o
nên thu yết B ồ
T
át tu
thàn h ch án h quả
còn trở
lại
đ ộ ch ú n g san h là h ọc
thu yết củ a B à L a Môn
. Khi tu tập hết tham rồi, bây giờ vì
độ
chúng sanh nên phải tu tập tham trở lại để
luân hồi. Cũng nhƣ học thuyết Phật tánh. Đã là Ph ật tánh là
tánh
giác, mà
lại
còn mê
mu ội
ch u i vào cái
đ
ãy d
a hôi thối (thân
tứ đại), lại còn tham chùa to Phật lớn, tham xe hơi nhà lầu, v.v…Phật tánh là tánh giác thì làm sao có điều vô lý này
đƣợc. Phải không các bạn?
Đúng là cái
lý thuyết Phật tánh là lừa đảo
mọi
ngƣời. Tỏ ra lòng đại bi, Bồ Tát thƣơng xót chúng sanh nhƣ con một.
T h ật
ra mìn h tu ch ƣa xon g
mà mu ố n
làm
c ổ xe lớn
đ ộ
chúng sanh. T
h ật là mộ t n gƣời mù d ẫn
đ ƣờn g ch o một
đ á m
n gƣời mù !...
Luân hồi không phải là linh hồn đi luân hồi, nhƣ mọi ngƣời tƣởng, mà là nghiệp tham đi luân hồi. Cho nên ngƣời tu hành là cố tâm tu tập tạo thành nghiệp không tham nơi
tâm
mình. Tâm không còn nghiệp tham thì chấm
dứt
luân hồi. Do những lời dạy
này,
chúng ta biết mình tu tập đến
đâu. Có làm chủ sanh tử và chấm dứt luân hồi đƣợc chƣa?
Tu tập có giải thoát hay chƣa giải thoát đều biết rất rõ ràng. Vì tu tập đến đâu có kết quả đến đó. Cho nên Đức
Phật nói:
“Pháp Ta không có
thời gian, đến để mà thấy...”
T
u theo
Ph ật
Giáo ch ú n g ta k h ôn g
sợ
lầ m đ ƣ ờn g
lạc
lối , vì
giới lu ật
là
mộ t
n ền
tả n g
vữn g ch ắc.
Ai
k h ông sốn g đ ú n g
giới lu ật
thì
b iế t
n gƣời đ ó
tu
k h ôn g đ ún g
p háp . Dù họ có nói nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam
Thiền, Tứ Thiền mà
giới lu ật
kh ôn g n gh iêm ch ỉn h
thì
b iết h ọ
ch ƣa
ly
d ụ c
ly
b ất
thiện p h áp .
Chƣa ly d ục, ly b ất
thiện
p h áp
thì
S ơ T h iền
còn
ch ƣa n h ập
đ ƣợc, h u ốn g
là
T
am thiền
, T
ứ T
h iền
và
làm
ch ủ
san h , tử,
ch ấm
d ứt lu ân h ồi,
ch ỉ
là
vọn g n gữ
mà thôi . Nhờ những lời dạy
này, chúng ta xét về Thiền Tông và Đại Thừa mới biết rõ giáo pháp của họ là giáo pháp lừa đảo. Xin các bạn cảnh giác đừng để khỏi sa ngã vào đƣờng tội lỗi (diệt
Phật Giáo).
Đức Phật dạy:“Không
xả tội thì hạnh ô nhiễm không quên”. Nhƣ chúng ta đã biết không xả bỏ của cải và diệt tâm tham
thì tội không bao
giờ hết, mà tội lỗi không bao giờ hết thì
hạnh ô nhiễm không
bao
giờ quên.
Ví dụ: Ăn uống phi thời, ngủ nghỉ
phi
thời... đó là những
hạnh ô nhiễm khó quên, hút thuốc lá, uống rƣợu... đó là những hạnh ô nhiễm khó quên…Tham, sân, si, mạn, nghi...
Đó là những hạnh ô nhiễm khó quên. Muốn để cho hạnh ô
nhiễm không còn nữa thì phải ngay từ lúc này từ bỏ không chạy theo vật chất của cải tài sản, không tham lam, ngăn
chặn lòng ham muốn thì hạnh ô nhiễm mới giữ gìn trọn
vẹn.
LỜ I P H ẬT DẠ Y
NHẤT TÂM VÀ TÁN LOẠN
“Thế nào tâm không tán loạn?
- Quán thân trên thân tinh cần không giải đãi, ghi nhớ
không
quên để trừ bỏ tham ƣu ở đời” .
“Thế nào gọi là nhất tâm ?
- Thân hành niệm trong tất cả
thời không mất oai
nghi”.
CH Ú GIẢ I:
Tâm tán loạn là gì? Tâm tán loạn là tâm còn nhiều tham ƣu, nên niệm này kế tiếp niệm khác, suy tƣ lo nghĩ ƣu phiền, lúc nào tâm cũng bất an. Muốn đối trị tâm
tán loạn thì Đức Phật đã dạy: “ Quán th ân
trên
th ân
ti nh
cần kh ôn g
giải đãi, gh i
n h ớ
kh ôn g
qu ên
đ ể trừ bỏ th am
ƣu ở đờ i ”. Vậy quán thân trên thân tinh cần không giải đãi, ghi nhớ không
quên, để trừ bỏ tham ƣu ở đời là
nhƣ thế nào?
Câu dạy này trong kinh Tứ Niệm Xứ Phật dạy về tu tập
bốn
chỗ thân, thọ, tâm, pháp, tức là phƣơng pháp truy quét tâm
hay
còn gọi là pháp môn đẩy lui các chƣớng ngại pháp trên thân và tâm để thân tâm đƣợc thanh thản,
an lạc và vô sự tức
là tâm không tán loạn.
Nhất tâm là gì? Nhất tâm là tâm định trên thân. Tâm định trên thân nhƣ thế nào? Tâm
định trên thân
nhƣ Phật đã
dạy:
“Thân hành niệm trong tất cả thời không mất oai nghi” Thân hành niệm trong tất cả thời không mất oai nghi là nhƣ thế nào? Là đi tôi biết tôi đi, đứng, nằm, ngồi hay hít thở
đều biết không quên. Đó là thân hành niệm.
T
h ân h àn h n iệm là mộ t p h áp môn
tuyệt
vời tr on g T ứ Niệm
Xứ,
k h ôn g nh ữn g
n ó là mộ t p h áp môn
tu
tập
n h ất
tâm
mà
còn
là
p h áp
môn tu tập có
đ ủ mƣ ời
côn g
đ ức (thần lực siêu
việt không thể nghĩ lƣờng).
Qua lời dạy
trên đây Đức Phật đã trang bị cho chúng ta những pháp tu tập xả tâm rất tuyệt vời, chứ không nhƣ kinh sách Đại Thừa thƣờng dạy chúng ta tu ức chế tâm
bằng
những pháp môn kiến giải,
khiến cho chúng ta không
thể ly tham, sân, si đƣợc. Do chỗ ức chế tâm mà ngƣời tu theo các nhà
Đại Thừa rơi vào danh,
lợi, sắc, thực, thùy. Một bằng chứng cho ta thấy tu sĩ Đại Thừa càng tu tập tâm
danh lợi càng nhiều, cho nên chùa to Phật lớn bắt đầu mọc
khắp nơi.
THẾ GIỚI QUAN CỦA PHẬT GIÁO
LỜ I P H ẬT DẠ Y
“Này Bà La Môn, năm dục trƣởng dƣỡng này đƣợc gọi
là thế
giới trong luật
của bậc Thánh”.
CH Ú GIẢ I:
Thế giới quan của Phật Giáo là năm dục trƣởng dƣỡng. Vậy năm dục trƣởng dƣỡng là
gì?
Năm dục trƣởng dƣỡng nhƣ trong kinh Tăng Chi Bộ tập 4
trang 184 dạy: “Các sắc do con mắt nhận thức
khả
lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái liên hệ đến dục, hấp dẫn. Các tiếng do tai
nhận
thức... Các hƣơng do mũi nhận thức... Các vị do lƣỡi
nhận
thức... Các xúc
do thân nhận thức
khả
lạc, khả hỷ, khả
ý,
khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn” Thế giới
quan của Phật
Giáo
rất thực tế không có mơ hồ trừu tƣợng. Đó
là một thế giới khổ đau, nếu muốn cho thế giới này
hết
khổ
đau
thì tu tập từ pháp ly dục ly ác pháp đến pháp Tam Minh thì cả thế
giới này mới chấm dứt khổ
đau.
Nói nghe đơn giản nhƣng tu tập không
đơn giản chút nào. Khi nhãn căn tiếp xúc nhãn trần sinh ra cảm thọ, từ cảm thọ sinh ra khả
ái, khả lạc. Một thế giới quan hiện bày đầy
đủ tính đau khổ. Muốn
cho thế giới này không hiện bày thì ngƣời tu sĩ phải ngay nơi căn trần xúc chạm sinh ra thọ thì ngay nơi thọ lạc ta không bị lôi cuốn, nhƣng khi thọ khổ thì ta đừng sợ hãi, dao động tâm. Chỉ n ơi
d u yên t h ọ mà
tâ m t a
b ất đ ộn g thì thế giới qu an sẽ b ị
d iệt . Thế giới
quan sẽ bị
diệt
thì con đƣờng đau khổ sẽ chấm dứt.
Nói đến: “Năm
dục trƣởng dƣỡng này đƣợc gọi là thế giới trong luật của bậc
Thánh”. Trong luật của bậc Thánh là 12
nhân
duyên, nói
đến 12 nhân duyên là
nói
đến thế giới
quan của Phật Giáo. Nói đến thế giới
quan của Phật Giáo là nói
đến
bậc Thánh
Duyên Giác. B ậc T h án h Duyên Giác là
n gƣời xôn g thẳn
g vào c ửa
T H Ọ
giữ
tâ m b ất
đ ộn g,
T H Ọ L Ạ C
không tham;
T H Ọ KH Ổ
k h ôn g sợ. Chỗ
tâm b ất đ ộn g n ày
p há
vỡ
các d u yên
k h ác
n h ƣ : Ái, hữu, thủ, sanh, ƣu, bi, sầu, khổ, bệnh, tử, chấm dứt.
T ừ đ ó
thế
giới
q u an
đ au kh ổ củ a Ph ật
Giáo
b ị sụp
đ ổ tan tành
. Ngƣời ấy chứng Thánh quả Duyên
Giác
A La Hán đầy đủ Tam Minh Lục Thông. Cho
nên Đức Phật gọi: “Năm dục trƣởng dƣỡng này đƣợc gọi là thế
giới trong luật
của bậc Thánh”.
LỜ I P H ẬT DẠ Y
TÁNH THẲNG THẮN
“Thấy
cái
dở mà không dám chê
là hèn kém, là nhút nhát, là dua
nịnh”
“Thấy cái hay mà không dám khen là ganh tị, hẹp hòi, cao ngạo”.
CH Ú GIẢ I
Phật dạy: “Thấy
cái dở mà không dám chê là hèn kém, là
nhút
nhát, là dua nịnh”. Đúng vậy, khi chúng ta biết kinh sách
nào Đại Thừa và Thiền Đông Độ là không phải giáo pháp của Phật, mà chính do các
Tổ biên soạn theo giáo lý
của Bà La
Môn, với mục đích
là dìm
và diệt Phật Giáo, mà không dám nói ra, lại còn tán dƣơng, a dua, nịnh bợ theo, thì
thật là hèn nhát, những ngƣời nhƣ vậy không xứng đáng là tín đồ Phật Giáo. Ngƣời tín
đ ồ Ph ật Giáo
p h ải
gan
d ạ, p h ải thẳn g thắn d ám ăn ,
d á m
n ói, ch ỉ thẳn
g n h ữn g
cái
sai, cái
k h ôn g p h ải củ a Ph ật Giáo
. Dựng lại những gì của
Phật Giáo đang bị ném bỏ. Đừng có a dua theo kinh sách
Đại
Thừa mà trở thành kẻ hèn nhát các bạn ạ!?
Ngƣời có trí mà không thấy cái sai trong kinh sách phát
triển Đại Thừa và Thiền Đông Độ thì đâu đƣợc gọi là ngƣời có trí. Nhƣ Phật dạy: “Mình ngu mà biết mình ngu là mình
có
trí, mình ngu mà không biết mình ngu là mình chí ngu”.
Cho nên, mình là những tu sĩ
và cƣ sĩ của Phật
Giáo
mà không thấy cái sai của kinh sách phát triển Đại Thừa thì
không thể gọi mình là ngƣời có trí. Bởi vì kinh sách phát
triển Đại Thừa có rất nhiều cái sai, chứ đâu
phải
có một hoặc hai. Chắc các bạn đều thấy biết rất rõ, nhƣng các
bạn quá sợ hãi trƣớc cái khối lực lƣợng Đại Thừa quá đông
đảo. T rƣớc mộ t thế lực đ ôn g đ ảo
nh ƣ Đại
T
hừa h iện n ay,
mà d á m n ói
thẳn g cái
sai
củ a
giáo
p h áp Đại T h ừa
là
mộ t
n gƣời tốt, n ói
đ ể sửa sai
ch ứ
k h ôn g
p h ải n ói xấu mà
sợ
.
Phải không
các
bạn?
Ví dụ: Một Quan Gián Nghị Đại Phu dám can ngăn nhà vua, là vì lợi ích hạnh phúc cho toàn dân, cho đất nƣớc đó. Một tu sĩ Phật Giáo hay một cƣ sĩ
Phật Giáo
dám
nói cái sai của kinh sách Đại Thừa là vì lợi ích cho Tăng,
Ni và tín đồ Phật Giáo. Ngƣ ời n h ƣ vậy
mới là n gƣời có trí
tuệ,
n gƣời có
lòn g thƣơng yêu rộn g lớn
đ ối
với đ ạo cũ n g n hƣ đ ời .
Phật dạy: “Thấy
cái hay mà không dám khen là ganh tị, hẹp
hòi, cao ngạo”. Đún g
vậy, là tu sĩ Đại Th ừa th ấy cái
đ ú n g
củ a
Ph ật
Giáo Nguyên T h ủ y mà k h ôn g
d ám k h en , là gan h
tị,
h ẹp
h òi, là cố
ch ấp ,
k iến ch ấp ,
là
k h ôn g th ấy xa, h iểu
rộn g . Làm con ngƣời thì phải có trí tuệ thông minh, phải nhận biết đâu đúng, đâu sai, chứ đâu phải là ngƣời
đui, ngƣời điếc.
Thấy ngƣời khác hay
hơn
mình, biết rất rõ mà không dám
khen đó là do lòng ganh tị, hẹp hòi, cao ngạo; ngƣời nhƣ vậy
là ngƣời xấu,
ngƣời không đáng cho ta kính trọng.
Tóm
lại hai câu trên đây, chúng ta phải hằng ghi nhớ trong
lòng, để mình không trở thành ngƣời hèn kém, nhút nhát, lúc nào
cũng
là ngƣời dám ăn, dám nói thẳng
một
sự thật.
LỜ I P H ẬT DẠ Y
TỨ NIỆM XỨ
1/
“Này các Tỳ Kheo, có năm pháp
làm
suy yếu sự tu tập. Thế
nào là
năm”?
“Sát sanh, trộm cắp,
dâm
dục, nói láo,
uống rƣợu”.
“Này các Tỳ Kheo để đoạn tận năm pháp này. Bốn Niệm Xứ cần phải
tu
tập”.
2/ “Này các Tỳ Kheo
có
năm triền cái.
Thế
nào là năm”?
“Dục tham triền cái, sân triền cái, hôn trầm thùy miên triền
cái, trạo
hối triền
cái, nghi triền cái”.
“Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm triền cái này. Bốn Niệm
Xứ
cần
phải tu tập”.
3/ “Này các Tỳ Kheo có năm dục trƣởng dƣỡng. Thế nào là năm”?
“Các sắc do
mắt nhận thức,
khả lạc, khả ý, khả ái
liên hệ đến dục, hấp dẫn. Thinh do tai…Hƣơng do mũi…Vị do lƣỡi...
Xúc
do thân...”
“Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm dục trƣởng dƣỡng này.
Bốn Niệm Xứ cần phải tu tập”.
4/
“Này các Tỳ Kheo có năm thủ uẩn. Thế nào
là năm”?
“Sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tƣởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn”.
“Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm thủ uẩn này. Bốn Niệm
Xứ cần phải tu tập”.
5/ “Này các Tỳ Kheo có năm hạ phần kiết sử. Thế nào là năm”?
“Thân kiến, nghi,
giới
cấm thủ, dục tham, sân”.
“Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm hạ phần kiết sử này.
Bốn Niệm Xứ cần phải tu tập”.
6/
“Này các Tỳ Kheo có năm sanh thú.
Thế nào
là năm”?
“Địa ngục, loài bàng
sanh,
ngạ quỷ,
Ngƣời, Trời”.
“Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm sanh thú này. Bốn Niệm
Xứ cần phải tu tập”.
7/ “Này các Tỳ Kheo
có
năm xan tham. Thế
nào là năm”? “Xan tham trụ xứ, xan tham gia đình, xan tham lợi dƣỡng,
xan tham dung
sắc, xan tham pháp”.
“Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm xan tham này. Bốn
Niệm Xứ
cần
phải tu tập”.
8/ “Này các Tỳ Kheo có năm thƣợng phần kiết sử. Thế nào là năm”?
“Sắc ái,
vô sắc ái, mạn, trạo cử,
vô minh”.
“Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm thƣợng phần kiết sử
này. Bốn Niệm Xứ cần phải tu tập”.
9/ “Này các Tỳ Kheo có năm tâm hoang vu. Thế nào là
năm”?
“Này các Tỳ Kheo, ở đây vị Tỳ kheo nghi ngờ, do dự, không quyết đoán,
không
tịnh tín đối với bậc Đạo Sƣ”.
“Này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo nào nghi ngờ, do dự, không quyết đoán, không tịnh tín đối với bậc Đạo Sƣ, Tỳ Kheo ấy
không
hƣớng về sự nỗ
lực,
hăng
hái, kiên trì
và tinh tấn”.
“Khi tâm của vị ấy không hƣớng về nỗ lực, hăng
hái,
kiên trì và tinh tấn, nhƣ vậy gọi là
tâm hoang vu thứ
nhất”.
“Này các vị Tỳ Kheo, lại nữa, vị Tỳ Kheo nghi ngờ đối với
pháp… (nhƣ trên...) đối
với
Tăng... (nhƣ trên…) đối với Học
Pháp... (nhƣ trên...) tức giận đối với
các
vị đồng Phạm hạnh, không hoan hỷ, tâm dao động, trở thành hoang vu”.
“Này Tỳ Kheo, khi một vị Tỳ Kheo phẫn nộ đối với các vị
đồng Phạm hạnh,
không hoan hỷ,
tâm dao động trở thành
hoang vu, Tỳ
Kheo ấy không hƣớng về nỗ lực, hăng hái, kiên trì
và tinh tấn. Nhƣ vậy gọi
là tâm hoang
vu
thứ năm”.
“Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm tâm hoang vu này. Bốn
Niệm Xứ
cần
phải tu tập”. (Tăng Chi Kinh tập 4 trang
225 –
230).
CH Ú GIẢ I:
DIỆT NĂM ĐIỀU ÁC
Trên đƣờng tu tập có năm pháp làm cho chúng ta tu tập rất khó khăn, không thể tu tập đƣợc. Nhƣ các bạn đã biết muốn tu tập để
đƣợc giải thoát thì phải ly dục và ác pháp, cho nên năm pháp này là pháp cản đƣờng cản lối, khiến
cho chúng ta không thực hiện đƣợc. Các bạn hãy lắng nghe Đức Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo, có năm pháp làm suy yếu sự tu tập. Thế nào là năm? Sát sanh,
trộm
cắp, dâm dục, nói láo, uống rƣợu”.
Năm pháp làm suy yếu sự tu tập là năm giới của ngƣời Sa
Di. Nhƣ vậy các b ạn thấy rất rõ, n ếu giới
lu ật k h ôn g
n gh iêm ch ỉn h
thì
các bạn
k h ôn g
b ao giờ
tu
tập
ly
dụ c
ly
ác
p h áp đ ƣợc.
Năm pháp này
gồm có nhƣ sau:
1/ Giết hại chúng sanh, ăn thịt chúng sanh, đó là một
pháp cực ác.
2/ Tham lam trộm cắp cƣớp của, lấy của không cho,
đó là một pháp cực ác.
3/
Dâm dục là một pháp dục đệ nhất.
4/ Nói vọng ngữ là một pháp cực ác không có pháp ác nào
không làm.
5/ Uống rƣợu là một pháp cực ác, nó hại ngƣời uống
rƣợu không còn trí thông minh, từ đó không có một pháp ác nào mà
ngƣời uống rƣợu không làm.
Nhƣ trên Đức Phật đã dạy. Năm giới này muốn đƣợc giữ
gìn trọn vẹn nghiêm
chỉnh không hề
vi phạm thì chúng ta phải tu tập Tứ Niệm Xứ trong giai đoạn đầu tức là tu tập Tứ Chánh Cần, Định Niệm Hơi Thở, Định
Vô Lậu, Định
Sáng Suốt và Định Chánh Niệm Tỉnh Giác. Nên kinh dạy:
“Này các Tỳ Kheo để đoạn tận năm pháp này. Bốn Niệm Xứ
cần
phải tu tập”.
Theo nhƣ lời
Đức Phật dạy muốn giữ gìn năm giới
nghiêm chỉnh từ
thân, miệng, ý của mình thì phải tu tập Tứ Niệm
Xứ nhƣ trên đã nói. Đọc đến bài kinh này chúng ta mới
thấy kinh Tứ Niệm Xứ rất quan trọng cho việc giữ gìn giới luật. T ừ
lâu
n gƣời ta n gh ĩ rằn g, ch ỉ h ọc
giới rồi giữ
giới,
ch ứ
đ âu n gờ
mu ốn
giữ
giới
lu ật n gh iêm ch ỉn h
thì
p h ải tu
tập
p h áp
môn T ứ Niệ m
Xứ
. Đúng là pháp môn Tứ
Niệm
Xứ
tuyệt vời.
NGŨ TRIỀN CÁI
Năm triền cái là năm cái màn ngăn che làm cho các bạn không thấy đƣợc tâm mình tham,
sân, si, mạn,
nghi. Vì thế khi đứng trƣớc ác pháp các bạn mới thấy tâm tham. sân,
si…hiện rõ. Vậy chúng ta hãy lắng nghe Đức Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo
có năm triền cái.
Thế nào là năm?
1-
Dục tham triền cái;
2- Sân triền cái; 3-
Hôn trầm, thùy
miên
triền cái; 4- trạo hối
triền cái; 5- Nghi triền cái”.
Dục tham triền
cái : Là cái màn ngăn che lòng tham muốn,
khiến cho ta không
thấy, nhƣng nó vẫn còn nguyên.
S ân triền
cái : Là cái màn ngăn che lòng sân giận, khiến cho
ta không thấy, nhƣng lòng sân giận vẫn còn y nguyên.
Hôn
trầ m, thù y
miên t riền cái
: Là cái màn ngăn
che
hôn trầm thùy miên khiến cho ta không thấy, nhƣng hôn trầm,
thuỳ miên vẫn còn y
nguyên.
T rạo
h ối triền
cái : Là cái màn ngăn che trạo hối khiến cho
ta không thấy, nhƣng trạo hối vẫn còn y
nguyên.
Nghi triền
cái : Là cái màn ngăn che nghi khiến cho ta không thấy, nhƣng nghi vẫn còn y
nguyên.
Năm triền cái này là
năm pháp ngăn che làm cho tâm
chúng ta không thanh
tịnh, tức là không ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Do đó nội tâm ta không đủ nội lực Tứ Nhƣ Ý Túc để thực hiện
Bốn
Thiền và Tam Minh.
Muốn đoạn tận năm triền
cái này thì chúng ta hãy tu tập Tứ Niệm
Xứ, chỉ có pháp môn Tứ Niệm Xứ mới đoạn tận
năm triền cái. Vậy chúng ta hãy
lắng nghe Đức Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm triền cái
này. Bốn Niệm Xứ cần phải
tu
tập”.
NĂM DỤC TRƢỞNG DƢỠNG
Muốn tu tập năm dục trƣởng dƣỡng thì phải hiểu rõ năm
dục trƣởng dƣỡng. Vậy năm dục trƣởng dƣỡng là gì?
Năm dục trƣởng dƣỡng là
năm thứ nuôi lớn lòng dục. Năm
thứ
nuôi lớn lòng dục gồm có:
- Mắt thấy sắc sinh ra dục (ƣa thích),
càng thấy sinh
ra dục càng
nhiều nên gọi
là trƣởng dƣỡng.
- Tai nghe âm thanh sinh ra dục (ƣa thích) càng nghe
sinh
ra dục càng nhiều nên gọi là
trƣởng dƣỡng.
- Mũi ngửi mùi hƣơng sinh ra dục (ƣa thích) càng
ngửi
mùi hƣơng sinh ra dục càng nhiều nên gọi là trƣởng dƣỡng.
- Lƣỡi nếm mùi vị sinh ra dục (ƣa thích) càng nếm
mùi vị sinh ra dục càng nhiều nên gọi là trƣởng
dƣỡng.
- Thân xác chạm êm ái sinh ra dục (ƣa thích) càng xúc chạm êm
ái sinh ra dục càng nhiều nên gọi là trƣởng dƣỡng.
Ngƣời
ở
đ ời
k h ôn g b iết
n ên
lú c n ào
cũ n g tr ƣởn
g d ƣỡn g
n ăm thứ d ụ c n ày,
Vì
thế
sự
k h ổ
đ au
càn g
chồn g
ch ất
ch o
đ ến
k h i
ch ết tiếp
tục
tá i san h
càn g
lớn
mạn h
h ơn
n h iều,
d o
đ ó đ ời
n ào cũ n g k h ổ
và k h ổ mãi k h ôn g b ao giờ d ứt .
Năm dục trƣởng dƣỡng này chỉ có pháp môn
T ứ Niệ m
Xứ
thì mới
đ oạn d iệt, n goài
T
ứ Niệ m Xứ thì k h ôn g có p h áp
d iệt n ó
đ ƣợc . Vậy, chúng ta hãy lắng nghe Đức Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo có năm dục trƣởng dƣỡng. Thế
nào là năm”?
“Các sắc do mắt nhận thức, sinh ra khả lạc, khả hỷ, khả ái
liên hệ đến dục, hấp dẫn. Thinh do tai…Hƣơng do mũi…Vị
do lƣỡi ... Xúc do
thân...”
“Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm dục trƣởng dƣỡng này. Bốn
Niệm Xứ cần phải tu tập”.
Đức Phật đã xác định cho
các
bạn biết pháp nào diệt năm
dục
trƣởng dƣỡng rõ ràng. Khi biết rõ nhƣ vậy các
bạn
sẽ không lầm lạc pháp môn giả hiệu.
Phải
không
các
bạn?
NĂM THỦ UẨN
Mỗi thân ngƣời gồm có đầy đủ năm thủ uẩn. Vậy năm thủ uẩn là gì?
Năm thủ uẩn là
năm
duyên hợp lại tạo
thành thân ngƣời:
1- S ắc thủ u ẩn
: Là phần hữu hình của thân ngũ uẩn,
nó gồm có bốn đại: Đất, nƣớc, gió, lửa. Thân tứ đại sử dụng
sáu căn: Mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý và sáu thức: Nhãn
thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý
thức
tiếp xúc với
sáu trần: Sắc, thinh, hƣơng, vị, xúc,
pháp.
2-
T h ọ
u ẩn : Là phần vô hình của thân ngũ uẩn. Thọ uẩn có
ba
thọ: Thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ. Có ba thức sử
dụng
thọ này: Sắc thức, tƣởng thức, thức thức. Thọ là cảm giác
nhận ra: An lạc, mừng vui, đau khổ,
phiền não, tức
giận v.v…
3- T ƣởn g
u ẩn : Là phần vô hình của thân ngũ uẩn. Tƣởng uẩn hoạt
động mà ngƣời đời và tất cả tôn giáo đều hiểu lầm
lạc, cho sự hoạt
động của tƣởng là
thế giới siêu hình. Chiêm
bao cũng là một
dạng tƣởng uẩn hoạt
động,
nhƣng nó
thuộc về ý thức tƣởng.
4- Hàn h u ẩn
: Là
phần
vô hình của thân ngũ uẩn. Hành uẩn
là những hành
động của sắc uẩn, tƣởng uẩn, thức uẩn. Nếu thân
ngũ uẩn không
có hành uẩn là không thành thân ngũ uẩn là thành một vật bất
động vô tri, vô giác.
5-
T h ức
u ẩn : Là phần vô hình của thân ngũ uẩn. Thức uẩn
là phần hoạt động siêu không gian và thời gian. Nó thuộc về
trí tuệ Tam Minh, Lục
Thông
của
những ngƣời đã tu chứng quả A La Hán, còn ngƣời tu chƣa chứng quả A La Hán
thì không bao giờ sử dụng đƣợc nó. Thức uẩn đối với mọi ngƣời bình thƣờng thì
nó đang bất động không hề hoạt
động một chút nào cả. Chúng ta hãy lắng nghe Đức Phật dạy:
“Này các Tỳ Kheo có
năm
thủ uẩn.
Thế nào là năm?
“Sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tƣởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn”. Trên đƣờng tu tập theo Phật Giáo thì năm thủ uẩn này cần phải
đoạn diệt. Muốn đoạn diệt đƣợc năm thủ uẩn này thì chỉ có pháp môn Tứ Niệm Xứ. Vì thế Đức
Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm
thủ uẩn này.
Bốn Niệm Xứ cần phải tu tập”.
NĂM HẠ PHẦN KIẾT SỬ
Năm hạ phần kiết sử là năm sợi dây trói buộc của phần
thấp. Vậy năm sợi dây trói buộc của
phần
thấp nghĩa là
gì?
Năm sợi dây trói buộc của phần thấp nghĩa là năm
sợi dây
trói
buộc của dục giới. Năm sợi dây trói buộc của dục giới gồm
có:
1-
T h am
k iết : Phiền não của tham dục tức là do lòng tham muốn không đạt đƣợc sinh phiền
não.
2- S ân k iết:
Phiền não của giận dữ tức là giận dữ do lòng
tham muốn không
đạt
đƣợc sinh ra
phiền não.
3-
T h ân
k iến k i ết
: Phiền não của ngã kiến tức là do
chấp
ngã mà
sinh
ra phiền não.
4-
Giới
thủ
k iết :
Phiền não do giới cấm phi lý của ngoại đạo
(Ngồi thiền chân đau tê không xả ra) tu đứng, tu ngồi, tu hạnh con bò, tu hạnh con chó,
v.v…
5- Nghi k iết:
Phiền não do lòng nghi hoặc, tức là thấy ai nói
hay làm một hành động nào
đó rồi
cho họ nói xấu mình.
Muốn diệt trừ năm
hạ
phần kiết sử này thì chỉ có tu hành
theo pháp môn Tứ Niệm Xứ. Vậy chúng ta hãy nghe Đức
Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo có năm hạ phần kiết sử. Thế nào
là năm”?
“Thân kiến, nghi,
giới
cấm thủ, dục tham, sân”.
“Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm hạ phần kiết sử này.
Bốn Niệm Xứ cần phải tu tập”.
CÓ NĂM TRẠNG THÁI CỦA TÂM
Năm trạng thái của tâm để xác định ngƣời ác ngƣời thiện gồm có:
Địa n gụ c:
Một trạng thái
đau
khổ nhƣ đang
cơn
bạo bệnh.
Loài bàng
sanh: Một trạng
thái giống nhƣ loài bàng sanh.
Ngạ qu ỉ : Một trạng thái đau khổ đang bị
đói.
Ngƣời : Một trạng
thái giữ gìn năm giới đƣợc trọn vẹn.
T rời
: Một trạng
thái giữ gìn 10 điều thiện đƣợc trọn vẹn.
Muốn tu tập để thoát ra những trạng thái đau khổ và chấm
dứt tái sanh luân hồi thì chỉ có tu tập pháp
môn
Tứ Niệm Xứ. Chúng ta hãy lắng nghe Đức Phật dạy: “Này các Tỳ
Kheo
có năm
sanh
thú. Thế nào là năm”?
“Địa
ngục, loài
bàng sanh, ngạ quỷ,
ngƣời, Trời”.
“Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm sanh thú này. Bốn Niệm
Xứ
cần
phải tu tập”.
NĂM XAN THAM
Đời ngƣời có một tính xấu xa nhất, đó là tính keo kiệt.
Tính
keo kiệt gồm có
năm:
1-
Xan tham trụ
xứ
: Tâm dính mắc nơi mình ở, không rời bỏ
đƣợc, nếu ai
xâm phạm đến đất đai,
nhà cửa chỗ ở là các bạn sẽ ăn thua đủ với họ. Tình trạng kiện thƣa đất đai. Ở
trên đất ngƣời khác mà muốn chiếm luôn, tranh chấp từng tấc
đất theo ranh giới, tính keo kiệt về đất đai nơi mình ở.
Đó là xan tham trụ xứ.
2-
Xan tham gia đ ìn h : Tâm dính mắc gia đình, không rời bỏ đƣợc gia đình, nếu có sự rời bỏ gia đình là buồn khổ và đau đớn.
Có
nhiều ngƣời muốn đi tu vì biết
đời là khổ, nhƣng không rời
bỏ gia đình đƣợc, luôn luôn viện
cớ bằng cách này, bằng
cách khác,
đó cũng
chính là xan
tham gia đình.
Ngƣời
quyết tâm đi tu rời bỏ gia đình là ngƣời không xan tham gia
đình, là ngƣời đầy đủ nghị lực, kiên cƣờng và có tính
cƣơng quyết,
nên mới
xả đƣợc tâm xan tham.
3-
Xan tha m
lợi
d ƣỡn g
: Tính ƣa ăn ngon mặc đẹp, muốn cho mình sống đầy đủ phủ phê, sung sƣớng bằng của đàn na
thí chủ không phải bỏ sức
lao động.
4-
Xan tham d u n g
sắc
: Tính ƣa thích sắc đẹp. Ƣa thích sắc
đẹp là ƣa thích sắc dục, ƣa thích tính sắc dục là thân tâm
cấu
uế, bất tịnh, thân tâm không thanh tịnh.
5- Xan tham pháp: Thấy mọi vật gì cũng sinh tâm ham thích: Nhà, cửa, ruộng vƣờn, đất đai, thú vật,
vàng bạc, của
báu,
xe cộ, đồ đạc, v.v….
Làm một con ngƣời mà có đủ năm thứ xan tham này thì
cuộc đời rất là đau khổ. Cho nên muốn thoát
khổ
không gì
hơn là phải đoạn trừ năm xan tham này. Muốn đoạn trừ năm
xan tham này thì phải tu tập Tứ Niệm
Xứ,
ngoài Tứ Niệm Xứ ra thì không có pháp nào diệt trừ đƣợc. Chúng ta
hãy
lắng Đức Phật dạy: “Này
các Tỳ Kheo có năm xan tham.
Thế nào là năm”?
“Xan tham trụ xứ, xan
tham gia đình, xan tham lợi dƣỡng, xan tham dung sắc, xan tham pháp”.
“Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm xan tham này. Bốn
Niệm Xứ
cần
phải tu tập”.
NĂM THƢỢNG PHẦN KIẾT SỬ
Trong cuộc đời tu hành để tìm cầu sự giải thoát thì năm sợi
dây
trói buộc phải đƣợc bứt sạch. Trƣớc khi muốn bứt
sạch năm sợi dây trói buộc này thì phải hiểu nghĩa. Vậy nghĩa của nó là gì?
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!