Bởi vậy,
người tín đồ Phật
giáo phải tin vào đạo
đức nhân quả
làm người, không
làm khổ mình khổ
người, là một điều lợi
ích rất lớn, hãy dẹp
bỏ lòng tham vọng, ích kỷ nhỏ mọn của mình,
những mơ ước
thiếu thực tế, hãy tự lực
sống đúng đạo đức nhân
quả là đã thấy hạnh phúc
ngay liền, bỏ những sự cầu cạnh
tha lực, nương tựa vào thần quyền,
đó là những
hy vọng mơ tưởng hão huyền, đừng
tin và làm theo những điều phi đạo đức nhân quả mà trong thế giới siêu
hình tưởng thường
bày vẽ ra,
thì tệ nạn mê tín
trong xã hội sẽ được đẩy lui ngay tức khắc.
Giáo lý của
đạo Phật có những tiêu chuẩn đã được xác định:
1- Đạo đức
nhân bản.
2- Không có
thế giới siêu hình.
3- Người chết
thì năm uẩn tan hoại tất cả, chỉ còn lại nghiệp lực thiện, ác nhân quả tiếp tục
tái sanh.
4- Pháp môn
tu tập của đạo Phật duy nhất chỉ có Giới, Định, Tuệ.
5-
Ngoài Giới, Định, Tuệ
thì không phải giáo pháp của đức Phật nữa.
6- Giới,
Định, Tuệ là chỉ cho một tâm
duy nhất của ba trạng thái kết hợp tạo thành một nguồn sống giải thoát,
chứ không phải ba pháp:
- Giới là đạo
đức nhân bản - nhân quả.
- Định là tỉnh
giác.
- Tuệ là sự
hiểu biết.
Ba vấn đề
này gom chung vào một tâm, nếu tâm có hiểu biết tỉnh giác trong đạo đức nhân bản
- nhân quả, thì tâm liền có giải thoát.
Đó là một vấn đề (giới,
định, tuệ) duy nhất
của đạo
Phật, giúp cho con người
vượt qua khổ đau của kiếp làm người,
ngoài vấn đề này thì không có giáo pháp nào của đức Phật dạy cầu tha lực cả. Nếu
có giáo pháp cầu tha lực là giáo pháp của
ngoại đạo, đó là
một sự xác định
nghiêm túc của đạo Phật.
Đạo Phật cấm kỵ
nhất là
thần thông và thế
giới siêu hình, thần thông đạo Phật cho
là huyễn hóa, thế giới
siêu hình đạo Phật cho là
thế giới ảo tưởng.
Thần thông
và thế giới
siêu hình là
hai phương tiện dùng để lừa đảo, gây sự mê
tín, dị đoan trong lòng người,
khiến cho người ta
đi vào tội lỗi. Bởi vậy, những
người hiểu biết cần phải triệt tiêu và quét sạch nó trên hành tinh này.
Người ta gán
cho đạo Phật có nhiều pháp môn từ thấp đến cao, để tùy theo căn cơ của mỗi
chúng sanh mà tu tập, đó là lối biện luận lừa đảo của những người mạo danh Phật
giáo.
Ngoài Bát
Chánh Đạo để thực hiện giới, định, tuệ
thì không còn pháp
môn nào được gọi là của
đạo Phật nữa, đừng đem những tà pháp mê tín dị đoan mà gán cho đạo Phật, đó là
một việc làm tội lỗi đối với con người trên hành tinh này.
Khi quý vị
đã rõ thấu giáo pháp của đức Phật là giới, định,
tuệ, thì bất cứ một ngôi
chùa nào mà dạy
khác pháp môn giới,
định, tuệ thì quý vị không chấp nhận, không nghe theo, không cúng dường,
không đến chùa đó nữa, không thọ nhận hoặc tu tập theo giáo pháp ngoại lai đó.
Từ khi đức
Phật tịch, giáo
đoàn Phật giáo bị
phân hóa
chia thành nhiều
bộ phái do những
vị tu sĩ lãnh đạo tham danh đắm lợi. Các Ngài đưa vào những giáo pháp của
ngoại đạo để lừa đảo tín đồ Phật giáo. Do đó mới có những kinh sách dạy cầu siêu,
cầu an, xin xăm,
bói quẻ, xem ngày
giờ tốt, xấu, cúng sao, giải hạn, lên đồng, nhập xác... làm đủ mọi điều mê tín, dị đoan, nó được xem là một hiểm họa rất lớn, một tệ nạn
xã hội. Các chùa đang hành những nghề nghiệp này là
đã tạo một gánh nặng cho xã hội loài người.
Muốn đẩy lùi
những tệ nạn này, thì trong các chùa quý Thầy trụ trì phải đình chỉ ngay liền những nghề
nghiệp lừa đảo,
phi đạo đức
này thì tệ nạn
mê tín, dị đoan sẽ
được chấm dứt.
Đó là dứt trừ tận gốc phát sanh
ra nó.
Muốn đẩy
lùi tệ nạn
này thì quý vị
cư sĩ không nên
tin và không làm
theo những giáo pháp
mê tín, phi đạo đức này
thì tệ nạn mê
tín, dị đoan sẽ được chấm dứt, bằng cách không đến những ngôi chùa có
hành nghề như vậy và cũng không cúng dường cho các vị Tăng ở đây. Có như vậy mới
có thể đẩy lùi và dẹp sạch những tà giáo
phi nhân quả
này, giúp loài người thoát khỏi một gánh nặng khổ đau.
Hỏi:
Kính bạch Thầy! Câu chuyện Mục Liên,
Thanh Đề
có phải là sự báo hiếu của đạo Phật hay
không? Báo hiếu
như vậy có
đúng hay không? Xin Thầy chỉ dạy
cho chúng con được rõ.
Đáp: Kinh
Vu Lan Bồn
là kinh sách phát triển
của Đại thừa,
xây dựng đạo
lý của mình trên
hình thức cứu độ. Kinh khéo
léo dùng tập thể cứu
độ để đánh lừa người
khác, mạo nhận
là Phật dạy để
không ai truy tìm sự
lừa đảo này được.
Như chúng ta
đã biết, đức Phật đã từng dạy chúng ta: “Các con tự thắp đuốc lên mà đi”. Giáo
pháp của ngài được xây dựng trên nền tảng Đạo Đức Nhân Quả thì không có lý nào
đức Phật lại dạy một điều phi đạo đức,
phi nhân quả
như vậy sao?
Chúng ta phải
xem xét, coi lại những loại kinh sách phát triển này, chứ đừng vội tin.
Đạo đức nhân
quả là một thứ đạo đức được xây dựng trên sự công bằng, công lý và
bình đẳng với một trí tuệ
vô hạn, thấu
suốt được mỗi
hành động của con người làm thiện hay làm ác.
Vì xây dựng tôn
giáo của mình
trên một nền đạo đức công lý, công bằng và bình đẳng cho mọi người như vậy, nên trên đầu Ngài chẳng có ai là Thầy của
mình, chẳng có
ai cứu độ
cho mình
được, chỉ có
sức tự lực và trí tuệ của mình mới cứu
mình thoát ra cảnh
đau khổ của kiếp
làm người, đang bị luân lưu trong
vòng nhân qủa luân hồi.
Ngài đã tự cứu
mình bằng những
giáo pháp mà ngài tự tìm ra được.
Giáo pháp đó là một thứ giáo pháp rất thực tế
và cụ thể,
mà mỗi pháp môn đều có cách thức tu tập trực tiếp đối
trị lại từng tâm niệm
ác và sự đau
khổ của
con người trong cuộc sống, để vượt thoát ra khỏi.
Một giáo
pháp không có những hình ảnh và lý sự mơ hồ, trừu
tượng, không có những sự cầu
khẩn, van xin cứu độ;
không có cúng
bái, tụng niệm và chú thuật,
v.v...
Một giáo
pháp không có thế giới siêu hình, không
có linh hồn người
chết, không có đấng
Ngọc Hoàng Thượng Đế, không có đấng Tạo Hóa, không có thần linh và
cũng không có
ma, quỷ, v.v...
Một giáo
pháp chỉ dạy
cho chúng ta những
gì cần dứt bỏ thì
phải dứt
bỏ, những gì cần
tu tập thì phải tu tập, những
gì cần trau dồi thì phải trau
dồi, và những
gì cần thông
hiểu thì phải thông hiểu.
Người nghiên
cứu và có thực hành giáo pháp của đức Phật thì không thể nào bị người khác lừa
đảo bằng những pháp tà giáo, ngoại đạo. Chỉ có những người
chưa từng nghe đến
giáo pháp của đức
Phật thì dễ bị kẻ khác mạo nhận
pháp môn tà giáo là của Phật.
Vì giáo pháp
của đạo Phật không có một giáo pháp nào
của ngoại đạo tương đồng được. Giáo pháp
của Ngài là
Giáo pháp “xả,
ly”, với một pháp
hướng tâm Như
Lý Tác Ý tuyệt vời, với
mục đích khiến cho tâm con người bất động trước các pháp và các cảm thọ.
Giáo pháp của Phật
chỉ có tự lực cứu
mình, còn giáo pháp của ngoại
đạo thì nhờ đến
tha lực cứu mình.
Do thế ta nhận ra giáo pháp
của Phật một cách rất dễ dàng
không có khó khăn, vì một bên là tự lực và một bên là tha lực.
Vì thế,
câu chuyện Mục
Kiền Liên và
bà Thanh Đề, ta thấy rõ
đó là giáo
pháp của ngoại đạo
đang lồng trong
giáo pháp của đạo Phật, mượn
danh đức Phật để lừa gạt
tín đồ Phật giáo theo đạo của mình
mà không nghi
ngờ, đó là cái khéo léo của Phật giáo phát triển.
Kinh
sách Phật giáo
phát triển, người
ta đọc rất hấp dẫn do sự diễn đạt
qua hình thức cấu kết giống như tiểu
thuyết, giàu sức tưởng tượng theo kiểu thiền Đông Độ.
Mục Liên đi
theo Phật tu hành chứng quả giải thoát, đắc lục thông. Mẹ là Thanh Đề, trước
kia sùng kính Phật pháp, cúng dường trai
tăng tứ sự đầy đủ, sau khi Mục
Liên bỏ nhà
đi tu, bà tức
giận làm bánh nhân thịt chó để thử thách chúng tăng, nên bị tội đọa địa ngục ngạ
qủy.
Mục Liên chứng
đắc thần thông, dùng thiên nhãn thấy mẹ
mình đang đọa địa ngục ngạ quỷ,
đói khát
vô tận. Thương
mẹ, Ngài dùng
thần
thông xuống
địa ngục thăm và mang theo một bát cơm cho mẹ.
Thanh Đề đang đói
khát, thấy cơm bà đón nhận và bốc ăn liền, nhưng không
thể ăn được, vì cơm đã cháy thành than.
Mục Liên thấy
mẹ thọ lãnh qủa khổ đói khát như vậy, muốn ăn mà ăn chẳng được, chẳng biết làm
cách nào cứu mẹ được, nên Ngài trở về bạch với
đức Phật và mong nhờ
đức Phật chỉ
giáo cứu mẹ mình.
Đức Phật bày
vẽ: “Trong mùa an cư kiết hạ, chúng tăng
đang tu học
thân, tâm thanh
tịnh, ngày rằm tháng bảy là ngày giải hạ, nên cung thỉnh chư tăng
cúng dường trai phạn
tứ sự, nhờ công đức tu hành của các Ngài hợp lại
thành một sức mạnh to lớn, với công đức này có thể mới cứu mẹ Ngài thoát cảnh địa
ngục”.
Mục Liên
vâng lệnh Phật
làm y như lời dạy,
mẹ Ngài thoát cảnh địa ngục.
Qua sự tích
này đã biến
ngày rằm tháng
bảy trở thành một
phong tục trong
dân gian, ngày báo hiếu, ngày xá tội vong nhân, v.v...
Câu chuyện Mục
Liên Thanh Đề là một câu chuyện phi đạo đức trong Phật giáo phát triển. Câu
chuyện được dựng lên trong thời đại phong kiến,
lúc vua quan chuyên
ăn hối lộ,
mua quan bán chức, làm những điều
bất công, không công bằng, công lý.
Đạo Phật
Nguyên Thủy chủ trương tự độ, không cầu tha lực
độ mình. Cầu tha lực
độ mình là giáo pháp của ngoại đạo, là của Phật
giáo phát
triển như trên chúng tôi đã nói. Đó là một thứ giáo pháp phi đạo đức, phi nhân
quả, không công bằng và công lý.
Đọc chuyện
Mục Liên, Thanh
Đề chúng ta thấy
đạo Phật tổ chức giống
như chế độ
phong kiến không khác chút nào. Ăn lo hối lộ với những danh từ rất cao
thượng: “Độ chúng sanh”.
Cha mẹ làm tội ác bị nhà
vua bắt giam cầm, tù
tội, con thi cử làm
quan, không cứu
cha mẹ được vì
quá nặng, nên phải nhờ những vị
quan lớn khác bằng cách phải lo lót hối lộ (Trai tăng cúng
dường tứ sự).
Nhờ có lo
lót như vậy,
bà Thanh Đề mới thoát cảnh tù tội
A Tỳ Địa Ngục...
Đối với một
tôn giáo lớn như Phật giáo phát triển
mà còn có
hình thức ăn
lo, hối lộ như
vậy, thì trên đời này
còn có nghĩa
lý gì là đạo đức công
bằng và công
lý; còn có
nghĩa lý gì gọi
là đạo đức nhân
quả không làm khổ mình,
khổ người; còn có
nghĩa lý gì
là mang danh
là tôn giáo khi dạy tín đồ làm điều
phi đạo đức như vậy.
Nếu trên thế
gian này không có một đạo luật nhân quả thì loài
người đừng nói đến hai chữ
công bằng và
công lý. Vì
không bao giờ có
công bằng và công
lý khi mà không
có luật nhân quả. Không có một đấng
Vạn Năng hay một đấng Tạo Hóa hoặc một đức Chúa
Trời hoặc một Ngọc
Hoàng Thượng Đế nào cầm cán cân công bằng và công lý cho loài người này được, chỉ có luật nhân quả mới giữ vai trò công bằng
và công lý này mà thôi. Vì nhân quả là
do hành động của mọi người
tự làm, tội
hay vô tội đều chính nơi họ, cho nên, luật
nhân qủa chính là
con người tạo ra để xử phạt hay ban thưởng chính lại họ, chứ
không có một kẻ thứ hai nào khác thưởng phạt. Vì thế nó rất công bằng và công lý, không ai lo lót và hối lộ nó được. Kẻ
nào làm ác thì phải thọï lấy quả khổ, kẻ nào làm thiện thì hưởng được phước
báo.
Sau khi tu
hành chứng đạo, đức Phật dẫn tâm đến Lậu Tận
Minh, Ngài đã thấy luật
nhân quả rất rõ
ràng, công bằng
và công lý
vô cùng. Cũng vì
luật nhân quả có công bằng công
lý như vậy, nên
con người phải chịu
trôi lăn trong
sáu nẻo luân hồi thọ biết
bao nhiêu sự đau khổ
từ kiếp này đến kiếp khác, đều do
chính hành động nhân quả của họ.
Ở trên
đời người ta
có tiền, có thế lực
thì người ta có thể mua chuộc được tội lỗi, nhưng với luật nhân
quả thì không thể
mua tội được. Trải qua một thời gian dài từ chế độ bộ lạc
mãi nô đến chế độ phong
kiến đã chứng
minh điều này,
“đa kim ngân phá luật lệ”. Và mãi sau này dù cho bất cứ một chế độ nào
thì sự công bằng và công lý sẽ chẳng được thực thi trọn vẹn.
Dưới chế độ phong
kiến, con cháu của vua quan có làm tội giết người, cướp của vẫn
ung dung phe phẩy tự do
mà không
ai làm tội,
làm tình được, pháp
luật đối với những hạng
người này như bắt cóc bỏ đĩa.
Cho nên Đại
thừa giáo là một tôn giáo bị “thế lực
phong kiến hóa”, với sự lý luận vụng về để lộ chơn tướng thế tục: “Khi chư tăng
chấp nhận thọ dụng Trai tăng và Tứ sự
cúng dường thì hợp lại công đức tu hành
của mình thành một khối công đức vô lượng, công đức đó
sáng chói như ngọn
đuốc trí tuệ khiến cho tâm bà Thành Đề giác ngộ nên bà mới thoát
khỏi địa ngục”.
Đó là cách
lý giải không chân thật của các nhà Đại thừa, khéo che đậy, lừa đảo những
tín đồ mê tín, vô
minh, chứ không thể nào che đậy với những người đệ tử của Phật đã được
trang bị đạo đức nhân quả.
Vì giáo pháp
của đức Phật dạy quá rõ ràng và cụ thể, người
tu sĩ phải lấy đức hạnh (giới
luật) làm đầu. Chỉ có đạo đức nhân quả thì mới có công bằng, công lý và
từ bi đối với mọi người, mọi loài chúng
sanh. Và vì thế, không
thể nào có sự gian xảo
lừa đảo, dối
trá theo kiểu dạy của
kinh sách Đại thừa như kinh Vu Lan Bồn nói trên.
Bài kinh Vu
Lan Bồn chỉ gạt những
người chưa hiểu giáo lý
chân chánh và đạo đức
nhân quả của đạo Phật. Bài
kinh Vu Lan hôm nay đã trở thành một sự lừa đảo có sách vở và
đã trở thành một truyền
thống báo hiếu
vô đạo đức trong
lòng tín đồ Phật
giáo Việt Nam,
hơn cả nghìn năm mà không ai phát giác ra được.
Mùa Vu
Lan! Mùa báo hiếu! Những
danh từ này đã lặp đi lặp lại
trong lòng người
phật tử hiếu hạnh
Việt Nam, nhưng
mấy ai đã biết sự hiếu
hạnh này là phi hiếu hạnh. Vì sự “Hiếu
Tâm” mà bị lừa
đảo! Hằng năm người phật tử đã tốn biết bao nhiêu tiền của trong mùa Vu Lan!!
Mùa Báo
hiếu!!!... Một việc
làm chẳng ích lợi
gì cho những người thân
thương quá cố của mình, chỉ có làm lợi ích cho các chùa mà
thôi.
Nếu mọi
người ai cũng đều thông
hiểu Đạo Đức Nhân Quả của đạo Phật,
thì những kinh sách phi đạo đức của Đại thừa không thể lường gạt họ được như:
kinh Vu Lan Bồn, kinh Dược
Sư, kinh Địa Tạng, kinh Bát Dương,
kinh Duy Ma Cật, kinh Viên Giác, v.v... Đó là những loại
kinh sách phi đạo đức, phi chân thật, phi Phật pháp. Nó không triển
khai tri kiến giải
thoát và tri kiến đạo đức
nhân quả. Nó khiến cho
trí tuệ con người u mê, vô minh,
đen tối, thường sống với sự hiểu biết mơ hồ,
trừu tượng, mê tín
của thế
giới siêu hình tưởng.
Nó dạy người
làm những việc thiếu đạo đức và thiếu chân thật, thường cúng tế, cầu cạnh,
van xin gia hộ, độ trì, v.v...
Với lòng đại
từ, đại bi của
chư Phật và chúng Thánh tăng, theo như trong kinh Vu
Lan Bồn đã dạy ngài Mục Kiền Liên cứu
mẹ. Giả thuyết, nếu làm được
như vậy thì tất
cả chúng tăng
và đức Phật tập
trung công đức
tu hành giải
thoát của mình lại
thành một công đức vô lượng, vô
biên, như một ngọn đuốc khổng lồ cháy sáng rực, và hướng đến
chúng sanh... khiến
cho chúng sanh ngộ được đạo lý giải
thoát, để mọi người ly dục, ly ác
pháp, thoát ra cảnh
địa ngục tại
tâm, thì đâu cần gì chúng sanh phải
tu hành vất vả khổ nhọc, mà cũng vẫn được giải
thoát như thường,
cũng
giống như
chư tăng hợp
công đức tu
hành của mình lại thành một trí tuệ lớn, khiến cho tâm bà
Thanh Đề
ngộ được đạo
lý giải thoát,
liền thoát ra cảnh địa ngục
A Tỳ. Nếu
chư Phật và
chư Thánh Tăng làm được những
điều này thì thế gian lại có thêm một tôn giáo phi đạo
đức, thì chúng tôi là những phật tử chân chánh sẽ không chấp nhận điều này.
Nếu chư Thánh tăng trong thời đức Phật đã cứu độ bà
Thanh Đề thoát cảnh địa ngục như vậy,
thì với tâm đại từ, đại bi của Phật và chư thánh Tăng không lẽ không làm điều
này để
chúng sanh thoát
khổ sao? Có lý đâu
vì một
cá nhân nhỏ mọn như
bà Thanh Đề mà
chư Thánh tăng
làm, huống hồ
là với tất cả
chúng sanh trên hành tinh này đang đau khổ mà Phật và chư
Thánh tăng đều biết rõ,
mà lại làm ngơ sao? Hay phải đợi cúng dường tứ sự?
Bởi vậy,
kinh điển Phật giáo
phát triển phi đạo
đức một cách cụ thể
rõ ràng, thế
mà mọi người vì quá vô
minh, u tối nên không thấy, nên bị lừa đảo, bị lường gạt một cách
đau đớn.
Công đức tu
hành của Phật vô lượng, vô biên mà Ngài từ chối không cứu độ ai hết, Ngài chỉ
là một hướng đạo viên mà thôi. Ngài đã rõ thấu đạo lý nhân quả tường tận, mà
không ai hiểu đạo lý nhân quả hơn
Ngài. Do hiểu đạo lý
nhân quả tường tận,
dù biết rằng
mình có đủ thần lực,
có vô lượng, vô
biên công đức,
nhưng Ngài vẫn từ
chối không cứu độ ai hết, vì cứu độ
là một việc
làm phi dạo
đức, nên Ngài dạy: “Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi, Ta chỉ là một người chỉ
đường mà thôi”.
Theo đạo lý
nhân quả, ai làm ác thì phải chịu nhận lấy quả khổ, không
ai cứu khổ cho kẻ
làm ác được, chỉ
có các nhà sư
Phật giáo phát
triển mới có một đức Bồ
tát Quan Thế Âm
dám làm điều phi đạo đức này (phẩm
Phổ Môn kinh Pháp Hoa), rồi đến chư Thánh tăng và đức
Phật trong kinh Vu Lan Bồn mới
dám cả gan làm
điều phi đạo đức, phi giáo lý của
Phật để cứu bà Thanh Đề thoát cảnh địa
ngục, bằng cách ăn lo tứ sự cúng dường.
Xưa, thời đức Phật còn
tại thế, Ngài còn phải xin ăn để gieo duyên
nợ với chúng
sanh, nhờ có gieo duyên nhân quả
thiện như vậy, Ngài mới đủ duyên để thuyết giáo pháp của mình, khiến cho
chúng sanh ngộ được
chân lý giải
thoát, rồi mới lần
lần tu tập dứt bỏ
và xả ly mới
thoát khỏi cảnh địa ngục trần
gian đầy đau khổ
của kiếp làm người.
Các nhà sư
Phật giáo phát
triển xây dựng sự
cứu độ
một cách vô
lý, thiếu công bằng và
công lý, thế mà mọi người
vẫn tin theo, làm
theo với sự thiếu
suy nghĩ. Đem
công đức tu
hành giải thoát của mình, hợp lại
làm một ngọn đèn sáng, khiến cho người đang mê
gặp ngọn đèn
này thì trí tuệ bừng
sáng, thoát cảnh địa ngục
(nếu được như vậy thì
đâu cần
gì phải tu). Đó
là một thứ vọng
ngữ của các
nhà sư phát triển
để lừa đảo
những người
tín đồ thiếu trí tuệ.
Nó khiến cho những
người có trí tuệ
và những người
nghi ngờ Phật giáo
và xem thường
đạo Phật, cho rằng
Phật giáo là một tôn giáo mê tín, một tôn giáo không có đạo đức.
Nếu thật sự những
loại kinh sách này
là của Phật giáo, thì Phật giáo
không còn đất đứng trên hành tinh này nữa. Một khi thời đại dân trí càng
đi lên
và càng khoa học thì người
ta càng rõ sự
gian xảo
này. Trên hành
tinh này duy chỉ cần
phải có một nền đạo đức nhân quả, và đạo đức ấy phải được phát triển đúng mức để
quân bình vật chất và tinh thần
của con người được
cân bằng, thì xã hội loài người mới
có sự an vui, hạnh phúc. Do thế,
các tôn giáo
nào thiếu đạo đức, gây mê
tín, tạo thế giới
siêu hình trừu
tượng, viển vông, dạy
mọi người điều
phi đạo đức,
thường lừa đảo tín đồ, thì phải bị khoa học chỉ mặt, vạch
tên, và sẽ bị nhân loại đào thải khỏi cuộc sống của họ.
Bởi vậy,
câu chuyện Mục
Liên, Thanh Đề là
câu chuyện phi đạo đức,
phi công lý,
phi công bằng, phản lại đạo đức nhân qủa của Phật giáo. Sự báo hiếu của đạo Phật như trong kinh
sách là không phải của đạo Phật,
kinh sách này đã bị
dân gian thế tục
hoá Phật giáo
theo thời đại phong kiến của nó.
Người tu
sĩ đạo Phật
muốn báo hiếu
cha mẹ thì phải tu hành, sống đúng giới hạnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ, sống
thiểu dục tri túc,
ăn, ngủ, độc cư đúng
cách, tâm thường
thanh thản,
an lạc, ly dục,
ly ác pháp và nhập sâu Bốn Thánh Định, thực hiện Tam Minh làm
chủ sự sống chết và luân hồi, thì mới báo hiếu trọn vẹn.
Còn người tín đồ muốn báo hiếu thì phải
giữ gìn năm giới
nghiêm túc, thường khuyên cha mẹ giữ gìn làm điều thiện,
đừng làm điều
ác. Đó là sự báo hiếu
của Phật giáo.
Thực hiện được
những điều này qua đời sống gương hạnh
cao quý, khiến cho cha mẹ nhiều đời
nhiều kiếp vì có nhân duyên nhân quả nên quy tụ gặp lại
nhau, để nhận lấy gương hạnh
đạo đức giải thoát
và giáo pháp của Phật, hướng
dẫn cho những người
thân thương của
mình từ vô lượng
kiếp để thoát ra cảnh đời đầy đau khổ. Đó là báo hiếu cha mẹ, chớ
không phải làm lễ trai tăng cúng dường
tứ sự để nhờ công đức của
chư tăng cứu độ cha mẹ là báo hiếu.
Báo hiếu
kiểu đó là
báo hiếu không
thực tế, thua xa các nhà Nho
giáo, đạo Khổng “quạt nồng, ấm lạnh”, không
làm cho cha mẹ buồn
rầu, thường làm vui lòng cha mẹ.
Sống chửi
cha, mắng mẹ, làm cho cha mẹ buồn khổ, đến khi chết rước chư tăng cúng dường Tam Bảo
để báo hiếu,
thì thật là buồn
cười. Bày đặt chuyện báo hiếu vậy không đạo nghĩa và thực tế, đó là lối lường gạt người “tiền mất, tật
mang”, chẳng làm ích lợi gì cho ai cả?
(Trích ĐVXP
tập 6 /tr169-181)
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Kinh Di
Đà, Di Lặc, Địa Tạng, Pháp Hoa, Kim Cang, Lăng
Nghiêm và mật chú, v.v... có
phải chánh pháp của Phật
nói hay không?
Đáp: Tất cả mọi
kinh sách đã kể
ra và nêu tên ởû trên, toàn là kinh sách chịu ảnh
hưởng của giáo lý Bà La Môn. Từ pháp hành, cúng bái, tụng niệm cho đến pháp thiền
đều có vẻ mơ hồ, trừu tượng, mê tín. Trong
các kinh này luôn
luôn tạo cách tin tưởng và sợ hãi
như: “Dù cho tạo tội hơn núi ca, Diệu
Pháp Liên Hoa tụng mấy
hàng”, hoặc: “Ai không
tin kinh này đầu sẽ bể bảy miếng”.
Và cuối cùng,
kinh nào cũng tự đề cao mình
là đệ nhất pháp.
Đọc qua những
kinh sách này, nếu
người nào có trí
thì nhận ngay ra liền những
kinh này không phải
Phật thuyết. Vì thế, chúng
không phải chánh pháp của Phật.
Hỏi: Những
kinh sách nào
đáng được tin cậy để tu được giải thoát, xin Thầy chỉ dạy
cho chúng con được rõ?
Đáp: Kính
sách Nguyên Thủy
là kinh sách đáng được tin cậy.
Vì đó là lời dạy của đức Phật, tuy rằng
trong các tổ bên Nguyên Thủy cũng có thêm
bớt rất nhiều,
nhưng những lời dạy của Phật còn rõ ràng nguyên gốc hơn nhiều.
Còn kinh sách phát triển không đáng tin tưởng, vì các t ổ tự viết bằng
kiến giải theo
tư tưởng của
giáo lý Bà
La Môn mà viết
ra phát triển. Nên đường lối và cách thức tu lập đều quá sai, từ cúng bái, tụng
niệm, chú thuật đều chịu ảnh hưởng của Bà La Môn. Cho đến pháp tu về thiền định
cũng đều thuộc về thiền tưởng của ngoại đạo. Cho nên thầy tổ sau này tu hành chẳng
có kết quả giải thoát.
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Những điều trong luật Tứ Phần có đầy đủ và có đúng lời Phật dạy không?
Đáp: Luật Tứ
Phần là do các tổ biên soạn dựa theo giới kinh, nhưng
có thêm bớt rất nhiều
cho phù hợp với
hoàn cảnh, phong
tục của mỗi
dân tộc trên bước đường hành hóa truyền đạo. Do sự tùy thuận
vào mỗi nước,
mỗi phong tục của dân tộc nên các tổ đã làm lệch ý Phật qua bộ giới luật Tứ Phần.
Muốn rõ được điều
này, xin quý vị đọc Giới
Đức Thánh Sa Di
và Tỳ Kheo Tăng,
Tỳ Kheo Ni thì sẽ rõ. (Bộ Giới
Thánh Đức này do
Tu Viện Chơn Như biên tập).
Bộ luật Tứ
Phần này chưa được xem là đầy đủ, vì trong kinh Nikaya đức Phật dạy nhiều bài kinh nói về thiện
pháp, tức là giới, mà trong Tứ Phần Luật không có. Sau này có điều kiện phải được
chấn chỉnh để chỉ rõ cho mọi người biết Thánh hạnh của Sa di và Tỳ kheo tăng, Tỳ
kheo ni.
Hỏi: Kính Bạch Thầy!
Kinh Phạm Võng Bồ
Tát Giới
có phải chánh
pháp của Phật
chăng? Xin Thầy từ bi chỉ dạy cho con được rõ.
Đáp: Kinh
Phạm Võng Bồ
Tát Giới không phải
là chánh pháp của Phật,
mà là của
Bà La Môn có thâm ý muốn diệt Phật giáo nên mới chế ra Bồ Tát Giới.
Mục đích của
Bồ Tát Giới là bộ sách có hình thức tổ chức
người cư sĩ thành
một tổ chức,
để phục vụ cho Phật giáo Đại thừa Bà La Môn.
Phần thứ nhất là
khuyên dụ người
cư sĩ thọ Bồ Tát Giới để góp
công, góp của xây dựng đạo pháp của Bà
La Môn, nhưng
sự thật là phục vụ cho quý thầy Đại thừa:
1- Cúng bái tế lễ để cho phật
tử bỏ tiền
ra đóng góp.
2- Làm từ
thiện cũng do phật tử đóng góp.
3- Xây cất
chùa to, Phật lớn cũng do phật tử đóng góp.
4- Cấm phật tử
không được tu
theo Phật giáo
Nguyên Thuỷ
(Tiểu Thừa).
5- Làm tất cả
mọi công việc trong chùa, từ chuyện lớn, chuyện nhỏ hoặc chuyện nặng nề khó
khăn, đều do phật
tử đóng góp
công sức gọi là
làm công quả.
Bồ Tát Giới
là một bộ sách khuyến dụ phật tử, để lừa công sức và lừa của cải, tiền bạc của cư
sĩ!...
Bồ Tát Giới
là một loại kinh sách với thâm ý diệt Phật
giáo. Quý vị đọc cho kỹ
lại bộ sách thì mới thấy rõ âm mưu thâm độc của Phật giáo
phát triển Đại Thừa.
KINH TỨ THẬP
NHỊ CHƯƠNG
Hỏi:
Kính bạch Thầy! Sự thật bản thân con thấy, mặc
dù còn những
thử thách, tâm
mình cũng có kết quả chút xíu là những thói hư tật xấu có giảm thiểu, từ
đó cũng thấy được tường tận lẽ thật của một kiếp người ở trong muôn một chắc hẳn cũng
do luật nhân
quả chi phối.
Sự nhiệt tâm tu hành thật sự cầu
giải thoát, nên nhân duyên đã đưa
con đến với ĐVXP của Thầy
chỉ dạy về pháp môn tu Tứ Thánh Định, đi đến Tam Minh, con bừng
tỉnh và nói:
“À! có pháp
hành đây rồi”. Như
làm lại từ đầu, xong với
con chỉ như nhắc lại
cho rõ hơn và phải sắp xếp cái gì
cần làm trước mà thôi.
Dẫu sao thì nó
cũng dấy lên
trong con biết bao nhiêu là chướng ngại pháp trong tâm. Chính vì lẽ đó,
hôm nay con mạo muội hỏi; xin Thầy từ bi hoan hỷ chỉ dạy và cũng là sách tấn cho
con ngày một tinh tiến.
Kính bạch Hòa Thượng!
Kinh Tứ Thập Nhị
Chương do cư
sĩ Thiều
Chửu dịch,
kinh này có phải Phật thuyết không?
Đáp: Kinh Tứ
Thập Nhị Chương không phải Phật thuyết, mà do các tổ soạn viết dựa theo kinh
sách Nguyên Thủy A
Hàm. Cho nên kinh này
có sự thêm bớt rất nhiều, có những bài kinh làm sai ý Phật.
Quý phật tử
hãy dè dặt, cẩn thận,
đừng vội quá tin vào những loại kinh sách này, mà cần phải đề cao
cảnh giác, kinh dạy
thì có lý nhưng thực hành không có kết
quả, còn làm quý vị mất thì giờ
vô ích.
Hỏi: Kính
bạch Thầy! Chương
I - Từ thân xuất gia tu hành
bốn chân đế, chứng A La Hán, là
bậc phi hành
biến hóa (biến
hóa tự tại),
sống lâu vô cùng, bậc ấy ở đâu thì chuyển động cả trời đất ở đấy, như vậy
có đúng không?
Đáp: Đoạn kinh
này xác
định bậc A La
Hán như vậy là rất đúng,
vì khả năng
tu chứng của bậc A La Hán là một siêu nhân, không thể
lấy trí hữu hạn mà hiểu thấu năng lực siêu việt ấy được.
Vậy mà
các Tổ dám dựng lên
câu chuyện ông Ca Diếp
và ông Phú
Lâu Na tranh chấp
về sự việc bỏ những giới
nhỏ nhặt để hạ bệ
các bậc A La Hán đại đệ tử của đức Phật.
Đối với bậc A La
Hán, về việc bỏ những
giới nhỏ nhặt mà
ông A Nan
quên hỏi Phật
là bỏ những giới
luật nào thì quá
dễ. Chỉ cần
hai vị A La Hán
này nhập vào Niết Bàn hỏi Phật
thì rõ
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!