C.A Hốc Môn
phát hiện sự việc này, làm việc với N
và không cho N ở chùa nữa. Tuy vậy, từ đó
đến nay N cũng không sống chung với chồng con.
Đến năm
1998, N.V.V ngụ tại xã
Tân Phú Trung, Củ Chi. Bỗng dưng lại bị nhức đầu,
thay vì đến vịnh viện thì V lại đến chùa này đến chùa khác ở Củ Chi,
Bình Dương, Đồng
Nai để trị bệnh,
nhưng không có kết quả.
Nghe đồn ở thị
trấn Hốc Môn có chùa Vạn Đức trị bệnh rất hay, nên V nhanh chân tìm đến nhờ giúp đỡ, hy vọng sẽ nhanh
chóng khỏi bịnh.
V kể lại, thuốc
chữa bịnh của
chùa là chén nước lạnh. Trị bịnh xong, V ở chùa làm
công quả, từ Củ Chi đến Hốc Môn khá xa, sáng đi chiều về rất mệt,
nhưng V quyết
tâm vượt qua để được đóng góp chút ít công sức cho chùa.
Ngày
16/02/1999 (mùng một tết). V đến làm công
quả như thường
lệ thì được bà
Tâm trụ trì chùa khuyên bảo: “Phải về nhà tu tâm, ăn
hiền ở lành và chịu
khó nghe kinh
thuyết pháp của chùa”.
Lúc 11 giờ
ngày 03/03/1999, sau khi
đi cắt lúa về nhà,
V đứng trước
tượng Phật Thích
Ca được đặt tại
nhà, đọc lời
nguyện sẽ đi tu, không sống chung
với vợ con nữa.
Liền sau đó
V đã dùng dao chặt
đứt hai đốt
ngón tay trỏ bên trái, chặt
xong V tự băng bó vết thương. Hiện
V đang sống chung với mẹ ruột, bỏ vợ cùng
hai đứa con thơ.
Như trên,
những bài kinh của
Phật giáo phát triển
đã tác động rất mạnh
vào lòng tin của
con người. Họ dám chặt tay, đốt ngón tay, hoặc chặt một lóng ngón tay
cúng dường chư Phật để cầu pháp giải thoát.
Giải thoát
đâu không thấy, chỉ thấy toàn là sự đau khổ,
một sự ngu dại
làm khổ mình,
làm khổ những người thân và còn
làm công không cho người khác, bị lừa đảo mà không biết.
Đối với tà
giáo ngoại đạo, nếu chúng ta không đủ
trí sáng suốt, minh mẫn, thì sẽ
bị những lời đường
mật lừa đảo
như trong kinh Diệu
Pháp Liên Hoa, câu kinh này:
“Đầu mắt và
thân thể” “Điều ưa vui thí cho” “Để cầu trí tuệ Phật”
Muốn đạt được
trí tuệ giải thoát của đạo Phật, thì phải bố thí hay cúng dường thân thể hoặc một
phần của thân thể, thì sẽ được trí tuệ giải thoát.
Do lời dạy
này và những câu chuyện tiền thân đức Phật, hay những chuyện cổ tích về đạo Phật
như: “Khi đức Phật còn là Bồ tát tu hạnh
bố thí, Ngài đã thí
thân cho cọp ăn...
Thí thân cho cha mẹ ăn như thái tử Tu Xà Đề... Lấy
thân làm một ngàn ngọn đèn
thắp sáng để cầu pháp
như Chuyển Luân
Thánh Vương trong
kinh Đại Phương Tiện Phật báo
ân... Chuyện cổ Phật giáo như Diệu Thiện (còn gọi là nàng công chúa Ba) bố thí
mắt, tay để làm thuốc cho cha, gọi là báo hiếu của Phật giáo phát triển...”.
Những gương bố
thí thân mạng để cầu pháp, để báo hiếu, đối với Đại thừa thì rất
là tốt đẹp và cao thượng, nhưng lại xa
rời thực
tế và đạo đức
làm người của Phật giáo
Nguyên Thủy. Nhất
là Đại thừa không có đôi mắt nhân quả, nên thường tỏ ra những hành động
anh hùng cá nhân nhưng
vô minh, vô đạo đức với
mình (tự làm khổ mình vì người).
Đạo Phật không
chấp nhận những
điều này, chủ trương của đạo Phật
là không làm khổ mình khổ người. Thế mà tin theo lời dạy của kinh sách
phát triển, đã tự chặt tay, khoét
mắt, đốt tay để cúng dường cầu pháp giải thoát, giải thoát
đâu không thấy, chỉ thấy một sự khổ
đau của mình. Đó là tự gieo ác
pháp cho mình và còn làm khổ
cho những người thân thương của mình.
Ngày xưa,
ông Vô Não nghe một vị Bà La Môn dạy:
chặt được một
ngàn ngón tay
người thì chứng được đạo giải
thoát. Tin lời dạy này,
ông đã trở thành
một hung thần,
một ác quỷ giết
người không gớm
tay. Chặt tay
người, xỏ xâu thành
chuỗi, chờ ngày
giết cho đủ một ngàn người để chứng đạo. Đó là pháp môn ác đức,
làm khổ người. Mạng sống con người
trong kinh sách phát triển được
xem như một chiếc áo, muốn ném bỏ
lúc nào cũng
được (chiếc thân
huyễn mộng). Cái nhìn như vậy, tức
là Phật giáo bị đồng hóa pháp môn ngoại
đạo, nên làm
khổ mình mà không
biết, còn gọi
là cầu chứng
trí tuệ giải thoát. Vậy
trí tuệ giải thoát
sao lại ngu si để
chuốc lấy sự đau khổ
dường này, biến
thân thể mình thành người tàn tật?
Trong thời
gian tu hành tại tu viện Chân Không,
chúng tôi cũng
có một vài huynh
đệ chặt hoặc đốt ngón
tay để cúng
dường cầu pháp. Nhưng đến nay
đã 30 năm, chúng
tôi nhìn lại những huynh đệ đó,
đã không có sự giải thoát mà lại cơ thể nay
đau, mai ốm, mà lại ốm những
bịnh tật nan y.
Cuộc đời
của họ vì tin giáo pháp phát triển và quyết tâm tìm đường giải thoát
cho nên không tiếc
thân mạng. Dám đốt
ngón tay, dám chặt ngón
tay như cô
NTN, NVV, và còn rất nhiều người nữa, thật là có tâm cầu pháp giải thoát điên
dại.
Những pháp
môn gì mà đưa con người đến chỗ tật nguyền, cụt tay, cụt chân. Cha mẹ sanh ra
không tật nguyền, đến giờ theo Phật giáo phát triển, người
có quyết chí
tu hành cầu giải thoát thì giải thoát
đâu không thấy,
chỉ thấy mình bị
tàn tật. Thật là đau lòng!
Bởi tin theo lời
Phật dạy như vậy,
không ngờ đó là những lời của tà
sư ngoại đạo, mạo nhận là lời Phật dạy để dễ bề lừa gạt người khác.
Những người
không biết về
kinh sách Đại thừa
như các chú C.A thì cho đó
là tà giáo
ngoại đạo, còn những
người có nghiên
cứu kinh sách Đại thừa thì không
thể lầm là tà giáo ngoại đạo. Họ biết rất
rõ trong kinh sách
Đại thừa dạy rất
nhiều điều phi đạo đức, lừa đảo, lường gạt người; dạy những
điều mê tín và
hủy hoại một phần cơ
thể, cúng
dường chư Phật
để cầu pháp
Tối
Thượng thừa.
Từ ngày có
Phật giáo truyền vào đất nước chúng ta, sự mê tín dân gian không bớt, mà lại có
còn thêm
những sự mê tín
khác và
những sự hy sinh vô nhân đạo đối với bản thân
mình nữa.
Vô nhân đạo đối với mình
là sự hủy hoại cơ thể
mình, người vô đạo đức
nhân quả là tự làm khổ mình.
Xưa kia, tổ Huệ Khả chặt cánh tay, sư Trừng Quán
chặt ngón tay, gần đây
có các Thầy như P.T, P.D. Và gần đây nhất là báo
công an đã đăng tin, có một số người ở chùa Vạn Đức
Hóc Môn đã chặt ngón tay.
Huỷ hoại
cơ thể để được
những gì, hay đã tự
làm khổ mình. Và sự tu tập như vậy đã đi
ngược lại với đạo Phật. Đạo Phật chủ
trương: Khi vào đạo là
không làm khổ
mình, khổ người,
tức là giải thoát.
Cớ sao đi tu lại làm khổ gia đình,
vợ con hay chồng con, mà
gọi là đi
theo Phật? Đi theo Phật sao làm khổ mình, khổ người, mà
lại chính làm khổ những người thân thương của
mình, thì Phật nào chấp
nhận cho quý vị tu hành như vậy.
Chỉ có kinh
sách phát triển dạy người tu hành để được phước
báo giải thoát,
nhưng phước báo giải
thoát đâu không
thấy, mà chỉ thấy sự đau
khổ của mình, như trong bài báo chúng ta
đã đọc ở trên.
Hiện giờ
trong đất nước
chúng ta, thỉnh thoảng nghe báo chí đăng tin vị giáo
chủ này đến
vị giáo
chủ kia dạy nhiều
loại pháp mê hoặc và lừa đảo người khác, như giáo chủ Pháp Hoa,
giáo chủ Long Hoa Hội, giáp chủ Chân Không, sư Bán Khoai, sư Bán Chiếu, sư Mỏ Cày, v.v...
Xét lại
thì các giáo phái
này chịu ảnh hưởng
kinh sách phát triển mà sinh ra.
Giáo phái chặt
hoặc đốt ngón tay để cúng dường một phần thân thể của mình cầu pháp, thì trong kinh sách
phát triển gọi những người
dám cúng dường như vậy là bậc đại Bồ tát.
Vì những
danh từ ca ngợi rất cám dỗ của kinh sách phát triển, nên khiến cho người ta dám
chịu đau khổ, hy sinh thân mạng và bỏ cả vợ con hoặc chồng con. Họ
làm như vậy mà
không thấy rằng họ
là những người
không có đạo đức, không
có đạo đức với
chính họ và với những
người thân. Họ là những người vô
minh, mù quáng, đã tự làm khổ mình, khổ
người. Người tu
hành như vậy không
thể gọi là người tu
theo Đạo giải thoát được.
Đọc qua các
kinh sách Phật giáo phát triển chúng
ta thấy rất rõ ràng.
Phật giáo phát
triển chỉ là một
giáo pháp hỗn tạp, góp nhặt và lượm
lặt những tưởng
tri của loài người
từ Đông sang Tây
làm giáo pháp của mình.
Tưởng là hòa đồng
hay là tổng hợp giáo pháp của ngoại đạo như vậy là cao siêu,
là cao thượng. Nhưng
nào ngờ, giáo pháp
ấy là một thứ rác
bã trong các
thùng rác, giáo pháp ấy giống như
chiếc áo vá nhiều thứ vải.
Nên khi đức
Phật ra đời và
truyền đạo, Ngài đã
căn dặn chúng
ta: “Chớ có
tin... Chớ có tin... v.v... Mà
hãy tin những gì có lợi ích cho mình,
cho người, mà hãy
tin những gì đừng làm khổ mình,
khổ người”.
(Trích ĐVXP
tập 7)
NHỮNG KINH
SÁCH ĐẠI THỪA LUẬN VỀ PHẬT TÁNH,
GIÁC TÁNH
THÌ KHÔNG PHẢI PHẬT THUYẾT
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Thiền
tông gọi Phật tánh, Phật tánh có phải là ý thức hay
không?
Công án thiền
có câu chuyện thiền ngữ: “Con chó
có Phật tánh
không?”, nếu có Phật tánh,
tại sao lại chui vào
cái đãy da bẩn thỉu để làm gì
cho khổ? Cầu mong
Thầy chỉ dạy
cho con được
rõ.
Đáp: Câu
này có hai
câu hỏi, nhưng rất liên hệ với nhau (tuy hai mà một).
Câu hỏi một, trong
tất cả kinh sách
Đại thừa đã xác nhận ý thức không niệm thiện, niệm ác là “Phật
tánh”. Kinh Kim Cang dạy: “Ưng vô sở trụ
nhi sanh
kỳ tâm, Bồ
tát độ hết
chúng sanh thì
thành thật”,
kinh Thủ Lăng Nghiêm
dạy: “Tánh thấy, tánh nghe, tánh
biết và chủ, khách”, kinh Pháp Bảo Đàn dạy: “Chẳng niệm thiện ác bản lai diện mục hiện tiền”,
v.v... Tất cả đó
là chỉ cho ý thức chẳng khởi niệm, kinh sách Đại thừa
và Thiền tông cho trạng thái đó là “Phật tánh”.
Công án “Con
chó có Phật tánh không?” là của thiền sư Triệu Châu. Một hôm, có một thiền tăng
đến hỏi
Ngài: “Con chó
có Phật tánh
không?”. Ngài đáp: “Có”. Vị thiền tăng lấy làm lạ hỏi lại: “Có Phật tánh
tại sao nó lại chui vào đãy da bẩn thỉu để làm gì cho khổ”.
Phật tánh
là một “tánh
giác”, tánh giác
là tánh sáng suốt, không có si mê, thế mà không sáng suốt lại chui vào
đãy da uế trược, hôi thúi. Nếu theo ý thức
phân biệt thì đây là một điều vô lý hết sức.
Cách thức lập công
án của Thiền
tông như trên khiến cho người ta
bặt đường suy nghĩ; bặt đường suy nghĩ
thì ý thức không
hoạt động; ý thức không hoạt động thì niệm thiện, niệm
ác không có; niệm thiện ác không có thì Thiền tông và kinh sách Đại thừa cho trạng
thái đó là Phật tánh.
Mục đích câu
công án trên
giúp cho người tu thiền không suy
tư được, để nhận ra (gọi là “ngộ”) trạng thái này mà thành Phật, “kiến tánh
thành Phật”.
Ngược lại,
trong kinh sách Nguyên Thuỷ Phật dạy: Ý thức thanh tịnh (chẳng niệm thiện ác)
không liên hệ
năm căn (vô
phân biệt) thì hành
giả rơi vào
Không Vô Biên Xứ định, một loại định tưởng vô sắc của ngoại đạo trong bốn loại
định tưởng. Thời đức Phật, Ngài đã được ngoại đạo dạy và đã thực hiện
được các loại định này đến nơi đến chốn, nhưng không tìm thấy có sự giải thoát gì trong đó,
và cũng không
tìm thấy “Phật tánh” ở
đâu, nên Ngài bỏ các
pháp môn này,
trở lại lộ trình Tứ
Thánh Định. Đức Phật
đã xác định
chỗ không niệm thiện, niệm ác không phải là Phật tánh, mà là Không Vô
Biên Xứ định tưởng. Các nhà Đại thừa
và thiền Đông Độ đã lầm lạc ở
trạng thái này,
nên đã dựng
nó thành “Phật tánh”,
“thần thức”. Bồ Đề Đạt
Ma gọi là
“tâm”, lục tổ Huệ Năng gọi là “bản lai diện mục”.
Khi tu đến
đây, các thiền sư Trung Hoa và các thiền sư Trúc Lâm Yên Tử (Việt Nam) sau này
không chấp nhận: “Vô tâm còn cách một lớp rào”. Họ lấy tưởng thức làm Phật
tánh, vượt qua trạng thái Không Vô
Biên Xứ định tưởng,
nhập vào Thức Vô
Biên Xứ định
tưởng. Ở trạng
thái này, họ thấy (tưởng) các
pháp chỉ là “một”, chớ không hai (bất nhị), nên trong Thập Mục Ngưu Đồ gọi là
“Phản bổn hoàn
nguyên”, hoặc còn gọi là “Bản
thể vạn hữu”. Bà
La Môn giáo
cho đó là “Đại Ngã”, kinh sách Nguyên Thuỷ Phật giáo
cho đó là “Thức Vô Biên Xứ Tưởng”.
Như vậy, Phật
tánh chỉ là ý thức không niệm thiện, niệm
ác. Nếu Phật tánh có thật đi nữa, mà không làm chủ sanh, già, bịnh, chết,
không chấm dứt được sự luân hồi
tái sanh,
thì
chúng ta cũng ném bỏ như đức Phật
đã ném bỏ các
pháp ức chế
thân tâm và bốn
định Vô Sắc Tưởng của ngoại đạo, như ném
bỏ một chiếc giày rách.
Trong thế kỷ thứ
hai mươi, Thiền
tông đã phát triển
cao độ, người tu
theo có hàng vạn
triệu, nhưng nhìn lại ai là
người đã tu tập thiền định
này mà đã
làm chủ sanh,
già, bịnh, chết, chứ chỉ có đạt được trạng thái tĩnh lặng
và khinh an cùng một số ngôn ngữ đối đáp lý luận, và trực giác
biết chuyện quá khứ, vị lai
của người khác, tu được như vậy để làm gì?
Thưa quí vị!
Điều này quí vị cần suy ngẫm kỹ, thời gian là thước đo của sự xác chứng nghiêm
chỉnh về sự chứng đắc của loại thiền định này. Riêng chúng tôi có nói gì
xin quí vị đừng tin, mà hãy tự
xét, tự kiểm lại mình
trên bước đường
tu tập.
Hỏi: Kính
bạch Thầy! Kinh
Thủ Lăng Nghiêm dạy: Mỗi chúng
sanh đều có Phật tánh, Phật tánh tức là tánh giác, tánh giác ấy ban đầu diệu dụng sáng
suốt, không có vật gì sánh
bằng, nhưng do niệm vô minh mà
theo nghiệp báo luân hồi. Vậy con không hiểu, lý do gì mà sự sáng suốt không
còn hạn chế đó lại trở thành vô minh, xin thầy dạy rõ cho chúng hiểu ý sâu mầu
này?
Đáp: Kinh Thủ
Lăng Nghiêm là kinh phát triển của Đại thừa, do người sau viết ra mạo nhận
là Phật
thuyết, nên lối
lý luận thiếu
chân thật, không logic, thường
mâu thuẫn, v.v...
Kinh này chỉ
dạy cho chúng ta thấy Phật tánh thường hằng sáng
suốt từ vô thuỷ cho đến
nay. Tất cả chúng sanh từ loài
côn trùng, cầm thú đến loài người đều
có, nhưng có
mà ngu như con bò, nên thường chịu khổ từ kiếp này sang
kiếp khác. Thật buồn cười
cho loại kinh
sách xảo ngôn, nhưng
xét cho cùng chúng
ta thấy rất
nhiều cái sai trong kinh này như:
Tánh nghe,
tánh thấy, tánh biết, những tánh này thường hằng bất biến, thường nghe, thường
thấy, thường biết, đó là cái sai thứ nhất. Khi một người đang
ngủ, cũng như một bịnh
nhân đang gây mê để giải
phẫu thì tánh nghe,
tánh thấy, tánh biết có còn nghe,
thấy, biết nữa hay không? Hay nó đã ngủ, đã
mê không còn biết như
thân tứ đại của nó vậy?
Phật tánh
này đã có từ vô thủy diệu dụng sáng suốt không
gì bằng, đó
là cái sai thứ hai. Tại
sao sáng suốt (tánh
giác) mà bây giờ lại mê
lầm để
đến nỗi sanh
làm chúng sanh,
trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi chịu
biết bao nhiêu trong sự khổ
đau sanh, già, bịnh, chết từ kiếp
này đến kiếp khác. Đã nói là
“tánh giác” thì có cần gì đến đức Phật Thích Ca giảng dạy kinh Thủ Lăng Nghiêm
này, nó cũng vẫn phải biết tánh thấy, tánh
nghe, tánh biết của
nó, vì nó là
tánh giác. Cớ sao phải
đợi đến đức Phật Thích
Ca Mâu Ni thuyết kinh Thủ
Lăng Nghiêm thì chúng
sanh
mới biết,
thì như vậy làm sao gọi là tánh giác có từ vô thủy cho đến nay. Vả lại, tất cả chúng sanh đều có
tánh giác, nhưng
sao tánh giác lại
ngu si quá vậy, luôn luôn làm khổ
mình, khổ người, tạo biết bao nhiêu quả khổ từ đời này sang đời
khác. Thế mà họ gọi là tánh giác có từ muôn
đời ngàn kiếp, như vậy
cái tánh giác
này (Phật tánh)
có còn giác tánh hay không?
Kinh Thủ Lăng
Nghiêm dạy: “Cái
thể bản lai thanh
tịnh bồ đề niết bàn,
thì như hiện nay cái tính bản minh thức tỉnh của ông (A
Nan) sinh ra cái duyên mà lại bị bỏ rơi.
Do các chúng sanh bỏ rơi cái bản
minh ấy nên
tuy cả ngày sống trong tính bản minh
mà không tự
giác, oan uổng vào trong lục đạo”.
Đọc đoạn
kinh này ta thấy hết sức
vô lý và mâu thuẫn, dù cho lời này là Phật
Thích Ca Mâu Ni nói thì chúng ta cũng không chấp nhận mà tin
được, huống hồ
là Tổ nói.
Người ta cứ
nghĩ rằng cái gì của
Phật, Tổ, Tiên,
Thánh nói ra
là đúng
cả.
Đâu phải vậy, đức Phật Thích
Ca Mâu Ni đã dạy
chúng ta: “Cái
gì ta nói cũng đừng
nên tin, mà hãy suy ngẫm cho kỹ, cái đó có mang đến sự an vui chân thật
cho mình, cho người hay không rồi mới tin”. Đó
không phải là đức
Phật đã
xác quyết lòng
tin của chúng ta phải
được ở
nơi trí tuệ sáng
suốt của mình,
khi hành động của chúng ta tiếp xúc với các pháp mà kết quả đúng với đạo đức không
làm khổ mình,
khổ
người thì mới
chấp nhận, còn ngược lại thì không chấp nhận.
Người tu
sĩ đạo Phật
nhờ tri kiến giải
thoát tức là Chánh Niệm Tỉnh Giác, chứ không phải là tri kiến giải
thoát là tánh
giác như trong
kinh Đại thừa đã dạy.
Tri kiến cái gì
ở đây
để được giải
thoát? Và giải thoát cái gì? Tri
kiến giải thoát có hai cách:
- Thứ nhất
là tri kiến duyên
“sanh”, sanh tức là các
pháp, tri kiến tức
là biết rõ,
nghĩa là biết rõ các pháp “Vô thường, khổ, không, vô
ngã”, biết rõ các pháp
như vậy, đồng
thời dùng sức tỉnh
thức để
không bị lôi cuốn, chìm đắm, dính mắc
trong các pháp.
Do đó mới gọi là
vô lậu, giải thoát,
mới gọi là
làm chủ được
sanh, già, bịnh, chết và chấm dứt luân hồi.
- Thứ hai là tri kiến
“luật nhân quả thiện ác” để ngăn
ác, diệt ác pháp, khởi thiện, tăng trưởng thiện
pháp. Nên tâm
ly, dục ly ác
pháp nhập Sơ Thiền.
Tâm ly dục ly ác
pháp nhập Sơ Thiền
là tâm đã thanh tịnh, tức là tâm không phóng dật. Tâm không phóng dật tức
là tâm đã nhập Bất Động Tâm định.
Tâm nhập Bất Động Tâm định
là tâm vô lậu, người mà tâm vô lậu là người có tri kiến giải thoát hoàn toàn.
Cho
nên, tri kiến giải
thoát của đạo Phật là Chánh Niệm tỉnh thức trong Bất Động Tâm định,
do sự tu
tập tỉnh thức
và huân tập
pháp như lý tác
ý để khắc
phục tâm tham
ưu mà có, chứ
không phải
là tánh giác
như trong kinh
sách phát triển dạy.
Trong kinh
phát triển dạy tánh giác đã có sẵn từ vô thủy mà bây giờ lại mê lầm, vô minh, u
mê tạo nhiều nhân ác, thọ nhiều sự khổ đau, chịu tái sanh luân hồi muôn kiếp,
thì có vô lý hay không? Quý vị hãy suy ngẫm về kinh này, có đáng tin thì
quý vị
tin, còn bằng không
thì quí vị đem đốt
sạch, đừng để những loại kinh
này chẳng ích lợi
gì.
Ví dụ: có một người
đã thi đỗ Tiến
sĩ và ông cũng không bị một bịnh thần kinh, nhưng bỗng
dưng bây
giờ ông ta
quên hết, giống
như một người chưa từng
đi học, việc
này như vậy
có thể xảy ra
hay không? Chắc hẳn không
bao giờ có, phải không quý vị?
Như chúng
tôi đã từng tu tập và học hỏi giáo pháp của đức Phật. Ngài đã dạy: từ vô minh
sanh hành, hành sanh thức và tiếp tục sanh khởi các duyên, do các
duyên hành thức tạo ra các
pháp, từ các pháp sanh, diệt, vô thường đưa đến những sự đau khổ, ưu bi,
phiền não, sanh, già, bịnh, chết và tiếp tục tái sanh luân hồi.
Muốn chấm dứt
sự khổ đau của kiếp làm người thì phải
đoạn diệt vô
minh, mà vô
minh được đoạn diệt tức là phải
có “minh”. Minh ở đây tức là trí tuệ tri kiến giải thoát, trí tuệ tri kiến giải thoát
là một sự
tu tập mà
có, chứ không phải tánh giác có
sẵn.
Ngược lại,
trong kinh Đại thừa
cho tánh giác là có sẵn, tánh
giác đã có sẵn mà lại còn đi tìm tánh giác thì có vô lý hay không?
Một nhà
bác học đã học và
thông suốt mọi điều, bây
giờ ông ta còn cắp sách đến
học những điều ông ta
đã thông suốt
đó, thì đó có phải là một việc làm vô ích và vô lý hay không?
Xin quý vị vui lòng suy ngẫm, đừng vội nghe chúng tội nói mà tin.
Kinh Thập Nhị Thập Duyên
dạy rất rõ
ràng: “Con người sinh
ra từ vô minh,
nên lầm chấp dính mắc các pháp tạo
ra một thế giới đau khổ” (mười
hai nhân duyên
hợp lại thành thế giới đau khổ), chớ
không có một Phật
tánh, một tánh
giác, một Bản
lai diện mục nào ngu si đến mức độ
không tưởng tượng được, nhằm chỗ bất tịnh, ô trược, bẩn thỉu, hôi thúi mà lại chui
vào để tái
sanh luân hồi.
Như vậy mà kinh phát
triển gọi tất cả chúng
sanh đều có Phật
tánh, tánh giác từ vô thủy thì chúng
ta có tin được không?
Đạo Phật rất
thực tế, không xây dựng thế giới siêu hình. Con người
chết là mất hết không
có linh hồn, thần thức;
không có Bản
lai diện mục, Phật tánh nào cả,
chỉ còn lại những hành động nhân quả thiện ác đã huân tập nhiều năm, tháng, nên
đã trở thành nghiệp lực, nghiệp lực ấy là vô minh hoàn toàn. Cho nên mọi người
sanh ra trên trái đất này, ngay kể cả đức
Phật cũng đều là vô minh.
Xưa, đức Phật
đã làm khổ mình, khổ những người thân của mình.
Một bằng chứng hiển nhiên khi Ngài
bỏ ngai vàng,
cha già, vợ trẻ,
con thơ, đã khiến cho những người này khổ đau vô cùng, sáu năm khổ hạnh
không phải là Ngài đã tự làm khổ mình
sao?
Từ vô minh
sanh khởi các hành, các hành mới sanh
ra thức, chớ
không phải có
cái này từ đâu
mà đến
đây được, cũng
không phải nó
có sẵn. Trong kinh A
Hàm đức Phật
đã dạy: “Nếu
còn một chút xíu thức
như đất trong móng
tay ta thì con người không giải thoát và đạo Ta không ra đời”.
Kinh Thủ
Lăng Nghiêm đã lừa đảo mọi người: tánh biết, tánh thấy, tánh nghe, những tánh
này là thường, lạc, ngã, tịnh, nó
luôn luôn có trí
tuệ diệu dụng, hằng
giác, sáng suốt
vô hạn, thế mà
lại chui vào đãy da hôi thúi. Thiền sư Triệu Châu trả lời cho một thiền tăng hỏi
đạo: “Biết mà cố phạm”. Xưa, đức Phật cho những luận thuyết này là những loại
luận thuyết trườn uốn như con lươn.
Kinh Thủ Lăng
Nghiêm dạy câu
này thật là vô lý: “Do các chúng sanh bỏ rơi cái bản
minh ấy, nên tuy cả ngày sống trong tánh bản minh mà không tự giác”. Xin hỏi
cái tánh bản minh của chúng sanh với
chúng sanh là một hay là
hai? Nếu bảo rằng một thì làm sao gọi là bỏ rơi? Nếu bảo rằng là
hai tức là có cái
minh và cái vô minh,
nhưng cái minh
đã có từ
vô thủy thì làm
sao cái vô
minh lại xen vào được. Đó là một điều hết sức vô lý của kinh sách phát triển.
Theo đạo Phật,
cái vô minh
đã có sẵn từ vô thủy
vì nó là nghiệp
lực, do sự tu tập của
chúng ta đúng chánh pháp mới lần lần vén sạch màn vô minh, tức là đập
phá và diệt sạch nghiệp lực, nên gọi là minh.
Trong Thập Nhị Nhân Duyên, chúng ta không thấy đức Phật dạy
có duyên minh
bao giờ, minh mà có được là do
sự tu
tập. Vì vậy,
tánh giác không thể có từ vô thủy
được.
Vô minh và
minh như đêm và ngày, cái này có thì cái
kia không, cái này
không thì cái kia có. Do đó nói
có sẵn là không đúng, cũng như người có học thì mới biết chữ, không học thì không biết.
Trong câu
kinh Thủ Lăng Nghiêm
này cũng cho chúng ta thấy chúng
sanh và Phật
tánh là hai chứ không phải là một,
do Phật tánh mê nên mới thành chúng
sanh, nhưng Phật
tánh sao lại mê được? đó là một sự
mâu thuẫn rõ ràng. Kinh này dạy Phật
tánh hằng giác,
hằng sáng suốt từ
vô thủy,
lẽ đâu lại
mê muội mà
thành chúng sanh?
Kinh Đại thừa
còn dạy: “Mê
là chúng sanh, giác là Phật”. Câu này đã xác định
“chúng sanh tánh có trước
Phật tánh” rất
rõ ràng, vì
chúng sanh mê muội
nên phải tu tập mới lần lần
giác ngộ thành Phật, cho nên Phật có sau chúng sanh. Câu kinh này
đúng theo lời dạy của đức Phật
đã
dạy. Như vậy, kinh sách
phát triển lập luận
không nhất quán. Vì vậy, xét ra chúng ta không thể hoàn toàn tin rằng kinh sách
Đại thừa là Phật thuyết.
Vả lại,
chúng ta chưa từng
chứng kiến một vị
Tổ nào
tu theo Đại thừa mà thành tựu sự giải thoát sanh, già, bịnh, chết, chỉ có những
câu chuyện huyền thoại
tự tại sanh tử trong
kinh sách phát triển mà thôi.
Đức Phật đã
từng dạy: “Ta là Phật đã thành, chúng
sanh là Phật sẽ thành”,
từ chúng sanh tu tập thành Phật, chứ không phải Phật
đã có sẵn trong chúng sanh thì chúng sanh đâu cần gì phải tu. Nếu vị Phật
đó đã có sẵn trong
chúng sanh thì vị Phật đó
quá vô minh,
sao gọi là tánh
giác được? Nếu vị Phật đó
đã sẵn trong
chúng sanh thì Thầy tổ và chúng ta hôm nay đâu cần gì ngồi thiền, niệm
chú, bắt ấn, niệm Phật,
tụng kinh, bái sám, v.v... Nếu vị
Phật đó đã có sẵn trong chúng sanh thì chắc
thế gian này
không có con người
sanh ra đời, vì
kinh Phật đã dạy:
“Cảnh giới Ta Bà khổ! Ta Bà khổ!”.
Tánh giác
này hay là Phật tánh thì không bao giờ
có trong đạo Phật, đó chỉ là một sự tưởng
tượng của các nhà Đại thừa, khi họ tu tập lạc vào tưởng định,
phát triển tưởng
tuệ, nên tưởng
giải ra Phật tánh, tánh giác, tánh thấy, tánh nghe, tánh biết,
v.v... Từ đó mới có những loại
kinh sách tưởng. Trước khi đức Phật ra đời cũng đã có những loại
kinh sách này, nhưng
không giúp gì
cho loài
người mà còn
làm cho loài
người khổ thêm. Khi đức
Phật ra đời mới
bài bác sáu
mươi hai luận thuyết
của ngoại đạo,
và đập phá
tan tành thế giới
siêu hình để
giúp cho con
người thoát ra khỏi
những tà đạo,
bàng môn lừa đảo
này.
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Sau khi đọc kinh Viên Giác, thấy có một đoạn
kinh nghi ngờ,
con xin nghi chép ra
đây để Thầy dạy cho
chúng con hiểu: “Này thiện
nam! Đây là 25 pháp tu của Bồ tát. Vậy các Bồ tát phải y
theo đây mà tu hành.
Nếu các Bồ tát hiện tại
và chúng sanh đời
sau, muốn y theo 25 pháp
môn này mà tu
hành, thì phải giữ giới
thanh tịnh, tâm suy nghĩ
vắng lặng và phải
trải qua 21
ngày thành tâm
sám hối, rồi viết
25 pháp môn
này vào mỗi miếng
giấy, niêm lại kỹ, để
trên bàn thờ Phật và chí
tâm cầu
khẩn, rồi tùy
tay hành giả
rút một miếng giấy,
khi mở ra xem
thì hành giả sẽ biết
trình độ của mình
tu pháp Đốn hay Tiệm.
Song nếu hành giả
một niệm nghi
ngờ, thì chẳng thành tựu”.
Kính thưa Thầy, thấy trong kinh dạy làm như vậy chẳng
khác nào như
bói toán, làm một việc cầu
may. Đây có phải kinh
Viên Giác dạy
làm một việc mê tín không thưa Thầy? Thấy kinh dạy như vậy tâm chúng con
sinh ra nghi ngờ, mong Thầy giải nghi cho chúng con.
Đáp: Đến với
câu hỏi này thì đã có một cư sĩ ở miền Bắc
nhận ra kinh này là đã dạy
điều mê tín, kinh mà dạy điều
mê tín là tà
kinh chứ không thể là chân kinh.
Kinh Viên
Giác không phải kinh sách Phật thuyết mà do các Tổ thuyết, nhưng các Tổ khôn
khéo gán cho Phật thuyết để dễ lừa đảo tín đồ Phật giáo. Còn tín đồ Phật giáo
cũng dễ tin tưởng là tất cả
kinh đều do Phật thuyết,
vì kinh sách Đại thừa tập kinh nào
cũng bắt đầu bằng câu: “Như
thị ngã văn nhất thời Phật tại Xá Vệ Quốc, kỳ thọ Cấp Cô độc viên dữ...”, chỉ nội câu
này cũng đủ lừa đảo người khác rồi.
Kinh sách
Đại thừa nào
cũng có hai phần:
1- Dụ dỗ
2- Hăm dọa
Đầu kinh thì
dụ dỗ như kinh Pháp Hoa dạy: “Dù cho tạo tội hơn núi cả
Diệu Pháp
Liên Hoa tụng mấy dòng”
Cuối kinh thì hăm
dọa: “Ai chê
kinh Pháp Hoa và làm
não loạn người
nói pháp thì đầu
sẽ bể làm bảy mãnh như quả A lê”.
Lần lượt
quý vị đọc kỹ lại
kinh sách phát triển sẽ thấy rõ bộ
mặt dụ dỗ, hù dọa, trừu tượng, lừa đảo, lường gạt, mê tín, phi đạo đức, v.v...
Kinh Viên
Giác là một loại sách của các Tổ đã lấy
ý Chân Không
của ngài Long
Thọ rồi dùng danh từ Viên Giác để che mắt tín đồ.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!