các bạn sẽ đến
một vị Thầy đã chứng đạo, vị ấy sẽ chỉ dạy
cách thức vượt
qua những chướng ngại khó khăn
đó.
Vì thế,
muốn hành trì tu
tập thì phải nghe nhiều như trong
kinh đã dạy, nếu không thưa
hỏi và nghe nhiều
thì sự tu tập sẽ không tiến bộ. Cho nên, trong sự hành trì
pháp nghe nhiều là một điều lợi ích lớn
cho bước đường tu tập. Vì có nghe nhiều
tu tập mới
không sai pháp. Vì thế, khi bắt đầu
hành trì các bạn phải thưa hỏi một vị thầy đã tu tập xong, các bạn sẽ được nghe
rất nhiều kinh nghiệm bổ ích trong sự tu tập của vị
Thấy ấy. Vì thế đức Phật dạy:
‚Trong sự thọ
trì pháp, nghe nhiều được hành trì nhiều‛.
Bấy giờ
chúng ta lắng nghe đức Phật dạy tiếp:
‚Chúng con xin hỏi Tôn giả
Gotama, trong sự nghe
pháp, pháp nào được
hành trì nhiều?”.
‚ – Này
Bharadvaja, trong sự nghe pháp, lắng tai
được hành trì nhiều”.
Lời dạy này chắc
chắn ai cũng
hiểu, cũng biết, vì nghe
pháp thì phải lắng
tai nghe, nếu không lắng tai nghe
thì làm sao hiểu được. Mà không hiểu được
pháp thì làm sao thọ
trì, cho
nên lắng
tai nghe có
nghĩa là nghe rất kỹ, nghe không bỏ sót một nghĩa nào, một kinh
nghiệm nào, nghe chăm chú.
Trước khi
hành trì pháp thì phải
lắng nghe rất kỹ những pháp
hành, những hành động
tu tập nhờ
có lắng nghe kỹ nên mới
không tu tập sai pháp.
Trên đây
là những bước
tu tập để chứng
đạt chân lí, mà mọi người tu hành phải lần lượt hành trì đúng
theo qui trình
này. Bấy giờ chúng ta hãy nghe đức Phật
dạy: ‚Chúng con xin hỏi Tôn
giả Gotama, trong sự lắng
tai nghe pháp thì
pháp nào được
hành trì nhiều?‛.
‚ – Này
Baharadvaja, trong sự lắng tai nghe
pháp, thân cận
giao thiệp được hành trì nhiều. Nếu
không có thân cận giao thiệp thì
không có lắng
tai nghe pháp. Vì
có thân cận giao
thiệp nên có lắng tai nghe.
Do vậy, trong sự lắng tai nghe,
thân cận giao thiệp được
hành trì nhiều‛.
Muốn lắng
tai nghe pháp hành
mà không thân cận
giao thiệp thưa hỏi
thì làm sao lắng tai nghe pháp được.
Phải không các bạn?
Cho nên, sự
thân cận giao thiệp với thiện hữu tri thức là điều cần thiết cho bước đường tu
tập hành
trì để đạt đến mục đích
chân lí cứu cánh là một điều cần
thiết.
Kính thưa các bạn! Trong đời tu hành của các bạn
mà không có thiện hữu
tri thức thân cận thì các
bạn đã chịu
thiệt thòi rất
nhiều trên đường tu tập. Các bạn đừng nghĩ rằng cứ dựa vào kinh sách
là các bạn biết cách thức tu tập. Hầu hết những
danh từ trong
kinh sách mà các bạn tự hiểu thì kiến giải ấy sẽ
đưa các bạn vào chỗ chết, chỗ bệnh tật,
điên khùng, loạn thần kinh v.v..
Nếu không chết, không bệnh tật thì các bạn tu hành chẳng tới đâu, chỉ sống trong
tưởng mà thôi.
Rồi đây, các bạn
cũng chạy theo
danh lợi giống như
người thế tục nhưng với chiếc áo
tôn giáo.
Cho nên, thiện
hữu tri thức là người đã tu tập xong. Còn những học giả dù họ có cấp bằng tiến sĩ Phật học
mà tu hành
chưa đến nơi đến chốn, họ vẫn là
ác tri thức, sẽ hướng dẫn
các bạn vào con đường phí
công phí sức, uổng phí một
đời người, chỉ
còn muợn sắc
áo tôn giáo làm
cuộc sống danh lợi,
ngồi mát
ăn bát vàng thì có
nghĩa lý gì, là
một tu sĩ Phật giáo,
có đức, có hạnh, có giới luật tinh nghiêm.
Trong cuộc đời
tu hành gặp được một bậc thiện hữu tri thức là khó, gặp được chánh pháp cao
minh chỉ rõ chân lí của loài người cũng không phải dễ. Cho nên, kinh Pháp Cú dạy:
‚Hạnh phúc
thay đức Phật ra đời!‛
‚Hạnh phúc
thay giáo pháp
cao minh!‛
Sanh đồng thời
với một người tu chứng chân lí đâu phải dễ và gặp được họ là một hạnh phúc vô
cùng to lớn.
Phải không các bạn? Do vậy
đức Phật dạy: ‚Trong sự lắng
tai nghe, thân cận giao thiệp được hành trì nhiều‛.
Bấy giờ
chúng ta hãy nghe đức Phật dạy tiếp:
‚Chúng con xin hỏi Tôn giả
Gotama, trong sự thân cận
giao thiệp, pháp nào được hành trì nhiều?‛.
‚ – Này
Bharadvaja, trong sự
thân cận giao thiệp, đi
đến gần được hành trì nhiều. Nếu không đi đến gần thì
không có thân cận giao thiệp. Và vì có sự đi đến gần nên có
thân cận giao
thiệp‛. Cũng như quý Phật tử ở tận miền Bắc xa xôi hay có người còn ở xa hơn nữa, ở tận bên Mỹ, bên Úc, bên
Đức, bên Pháp, ... vậy
mà họ phải về
Việt
Nam lên
tận tỉnh
Tây Ninh để tìm
Thầy thưa hỏi
pháp tu hành. Đó là sự đi đến gần.
Kính thưa
các bạn! Lời
đức Phật dạy không
sai: ‚Trong sự thân cận giao
thiệp, đi đến gần được hành trì nhiều‛.
Bởi vậy những lời Phật dạy rất cụ thể,
thiết thực, không có bày vẽ những điều mơ hồ trừu tượng như kinh sách Đại Thừa
và Thiền Tông. Chính đức Phật
là người đã dạy cho con người
bốn chân lí lần
đầu tiên trên
thế gian này, chưa bao giờ có một
tôn giáo nào có bốn chân lí này. Bài
kinh ấy khéo nhắc nhở chúng ta phải đặt trọn
lòng tin nơi chân
lí của loài người, ngoài
chân lí này ra thì không
còn có một chân lí nào khác nữa.
Nhưng nếu nói được lời này, thì phải chứng
đạt chân lí này. Khi chứng đạt được những chân lí này thì mới dám tuyên bố: ‚Chỉ
đây là
sự thật, ngoài
ra đều sai lầm‛.
Chúng ta
hãy nghe tiếp đức Phật
dạy:
‚Chúng con xin hỏi Tôn giả Gotama, trong sự đi gần, pháp
nào được hành trì nhiều?‛.
‚ – Này
Bharadvaja, trong sự đi gần
lòng tin được hành trì nhiều. Nếu lòng tin
không
sinh thì không
đi đến gần.
Và vì lòng tin sinh
nên có đi đến gần;
do vậy trong sự
đi đến gần,
lòng tin được hành trì nhiều‛.
Đọc đến lời
dạy cuối
cùng này, chúng
ta thấy lời dạy của đức Phật rất
cân nhắc kỹ lưỡng
tuyệt vời, chứ
không phải như
quý Phật tử thời nay, cứ nghe ai
nói gì thì tin ngay liền, chỉ cần gắn
nhãn hiệu Phật
thuyết là tin, nhưng ngoài nhãn hiệu Phật thuyết trong
ấy toàn là thứ đồ giả mạo.
Kính thưa
các bạn! Lòng tin như
thế nào là tin đúng
(chánh tín)? Lòng tin như thế nào là tin sai (tà tín)?
Ở đây chúng
ta nghe đức Phật đã dạy rõ ràng: Phải tìm một
vị Thầy, tâm
không còn tham pháp, sân pháp, si
pháp, tức là giới luật phải nghiêm chỉnh,
tâm phải bất động trước các
pháp và các cảm thọ. Đời sống
phải ba y một bát, thiểu dục tri
túc, sống không nhà cửa, không gia đình v.v..
Những lời dạy
trong kinh này đem ra làm tiêu chuẩn xét
duyệt lại các
tu sĩ Phật
giáo hiện nay thì họ
chưa đủ tiêu chuẩn
cho quý phật tử tin tưởng
là vị thiện
hữu tri thức của
mình. Họ không
phải là người
hướng dẫn các bạn đi trên con đường tu tập giải thoát;
họ chỉ được lời nói trên ngôn ngữ, còn sự
sống hằng ngày và hành động đạo
đức đâu có
khác gì người thế tục, cũng chùa
to, Phật lớn, cũng ăn uống ngủ nghỉ phi thời v.v.. Những hành động sống này
cũng đủ tố
cáo họ, tâm
còn đầy rẫy tham
pháp, sân pháp
và si pháp,
nghi pháp, mạn pháp.
Đối với những vị Thầy tâm
còn như vậy làm
sao quý phật tử
có lòng tin nơi
họ được. Nếu quý Phật tử có lòng
tin nơi họ như vậy thì quí Phật tử là những người tin mù quáng không theo lời
Phật dạy.
Tại sao đức
Phật đã dạy
rõ như vậy,
mà quý Phật tử vội tin những người Thầy như vậy, họ chỉ là những học giả,
giỏi chắp vá nhiều tư tưởng Đông Tây
triết học, đạo học, y học và khoa học, vật lý học v.v.. còn tu hành chẳng
ra gì. Lối sống của họ có gì hơn quý Phật tử ở
chỗ nào? Hay họ chỉ hơn quí Phật tử là chỗ học tập, nghiên cứu
kinh tạng. Do chỗ học tập, nghiên cứu
kinh tạng họ chỉ
nói được chứ thực
hành đúng như pháp thì họ chưa làm được. Chưa làm được có xứng đáng gì
cho quý Phật tử tôn kính là thầy.
Bài kinh này
đã xác định cho
các bạn thấy lòng
tin mù quáng của
các vị Bà La
Môn ngày xưa, ngu si hộ trì một chân lí ảo tưởng. Vì lòng tin mù
quáng hộ trì chân
lí không căn cứ vào
chỗ nào vững
chắc, chỉ tin là
tin theo những người tu tập chưa đạt được những gì giải thoát. Tin chỉ biết tin theo
lời Thầy Tổ
nói từ người trước đến người sau
đều tu hành chưa chứng đạt chân
lí chỉ hô hào lường gạt
người khác: ‚Chỉ đây
là sự thật, còn
ngoài ra là sai lầm‛.
Hiện giờ, kinh sách
Đại Thừa cũng
chủ trương như vậy, cho những lời Phật dạy là Tiểu thừa, là ngoại đạo, cấm
tín đồ không được đọc
và không
được tu theo (giới
cấm Bồ Tát).
Có một số Phật tử không hiểu rõ ý Phật dạy, nên dựa vào bài
kinh Canki này cho Thầy Thông Lạc
chê kinh Đại Thừa
sai là Thầy
Thông Lạc sai. Có lẽ quý Phật tử
không đọc hết bài kinh hoặc đã đọc hết
mà không hiểu nghĩa,
nên vội vàng chỉ trích Thầy Thông Lạc bằng câu: ‚Chỉ có
Thầy Thông Lạc
là đúng, còn ngoài
ra là sai lầm‛. Nếu Thầy Thông Lạc tu hành chứng đạt chân lí mà
nói câu này là đúng, còn Thầy Thông
Lạc tu hành
chưa chứng đạt chân lí mà nói câu này là sai lầm.
Kính thưa các bạn! Trong kinh sách Nguyên Thủy
Phật thường dạy
cho người mới tu: ‚Thấy lỗi mình
đừng thấy lỗi người‛, nhưng khi đã tu chứng
đạt chân lí mà thấy cái sai của người khác không dám nói là người hèn nhát, là
người xu nịnh v.v.. như trên đã nói.
Trong bài
kinh này, đức Phật
cũng dạy khi chúng ta
là người mới hộ trì chân
lí và chân lí được chúng
ta hộ trì thì đừng
nên nói:
‚Chỉ có đây
là sự thật, còn ngoài ra đều là sai lầm‛.
Câu này ám chỉ nói về những
vị Bà La Môn tin mù quáng. Còn ở đây đức Phật dạy chúng ta muốn có
lòng tin thì phải xét
duyệt một vị Thầy
dạy đạo, giới
Luật có nghiêm chỉnh
không? Tức là sống có li
dục li ác pháp không?
Có chứng đạt được
chân lí chưa? Nếu một vị Thầy sống không li dục li ác pháp,
tâm chưa hết tham, sân, si thì chúng ta không nên tin lời dạy của họ. Họ là
người nói láo,
dù họ giảng kinh nào chúng ta
cũng không nên nghe. Trừ ra họ được một vị Thầy đã chứng đạt được chân lí, hướng dẫn họ thuyết
giảng theo kết quả trong khuôn khổ tu tập và được dạy những
gì được nghe vị Thầy đã chứng đạt chân lí dạy.
Để tóm lại bài
kinh này chúng ta lắng
nghe đức Phật dạy:
‚Chúng con đã hỏi Tôn
giả Gotama về
hộ trì chân lí. Tôn giả Gotama đã trả lời
về hộ trì chân lí, chúng con tùy hỉ và chấp nhận,
và do vậy chúng con hoan hỉ. Chúng con đã hỏi Tôn giả
Gotama về giác
ngộ chân lí. Tôn
giả Gotama đã trả lời
về giác ngộ
chân lí, chúng con đã tùy hỉ và chấp nhận. Do vậy chúng con hoan hỉ. Chúng con đã hỏi Tôn giả Gotama về
chứng đạt chân lí. Tôn giả
Gotama đã trả lời về chứng
đạt chân lí, chúng con
tùy hỉ và chấp
nhận do
vậy chúng con hoan hỉ. Trong
sự chứng đạt chân lí, chúng
con hỏi Tôn giả Gotama về
pháp nào được hành trì nhiều. Trong
sự chứng đạt chân lí Tôn giả
Gotama đã trả lời pháp
nào được hành trì nhiều chúng con tùy hỉ và chấp nhận, do vậy chúng
con hoan hỉ. Chúng con hỏi Tôn giả
Gotama về bất cứ một điều gì. Tôn giả Gotama đã trả lời các điều ấy, chúng con
tùy hỉ và chấp nhận, do vậy chúng con hoan
hỉ.
Thưa
Tôn giả
Gotama, xưa kia chúng con biết (sự
phân biệt) như sau: ‚Và
ai là những Sa Môn trọc
đầu tiện
nô, hắc nô, sanh từ gót chân của Phạm thiên? Và ai
là
những người
hiểu biết Chánh pháp. Thật sự Tôn giả Gotama đã làm sống dậy nơi
lòng con ái kính Sa
Môn đối với Sa
Môn, lòng tin kính Sa Môn đối với Sa Môn. Thật vi diệu thay Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay Tôn giả Gotama! …‛.
Đoạn kinh trên
đây tóm lược với
ý nghĩa rất đầy đủ để chọn cho mình một vị Thầy xứng đáng là một bậc
thiện hữu tri thức
hướng dẫn trên đường tu tập giải
thoát quá tuyệt vời. Là người Phật tử phải biết chọn cho mình một vị
Thầy xứng đáng đừng đụng đâu tôn
kính đó
là không đúng. Cho nên, ở đây đức
Phật đã chỉ thẳng và vạch
trần bộ mặt thật của những
người tu sai pháp dùng tôn giáo lừa đảo người.
Lời kết luận
của cư sĩ Bà La Môn Bharadvaja đã nói lên được ý nghĩa sâu sắc về một vị
Thầy đáng ái
kính, đáng tin
kính:
‚Thật sự
Tôn giả Gotama đã
làm sống dậy nơi
lòng con ái
kính Sa Môn đối với Sa
Môn, lòng tin kính Sa Môn đối với Sa Môn. Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay,
Tôn giả Gotama! …‛. Còn ngược lại
với những vị Thầy nào không được ái
kính và tin kính như
trong đoạn kinh này
đã dạy:
‚Và ai là
những Sa Môn trọc đầu,
tiện nô,
hắc nô,
sanh từ gót
chân của Phạm thiên?‛. Đoạn
kinh này đức Phật
dùng những danh từ rất nặng,
để chỉ cho những
người tu chưa chứng chân lí mà vội
ra làm Thầy dạy người tu tập:
‚Sa Môn Trọc Đầu, tiện
nô, hắc nô, sanh từ gót chân của Phạm thiên‛. Các Thầy Đại Thừa hiện giờ
không thể còn che giấu ai được sự lừa đảo
và giả dối của các Ngài về giới luật và tu tập. Nếu Phật tử nào
đã đọc bài kinh này thì sẽ phát
hiện rõ ràng: đâu mới là pháp chân
chánh, và đâu mới là
pháp sai lầm; đâu
là thiện hữu
và đâu không
phải là thiện hữu.
Đó chính là lời xác định
của đức Phật, của những người đã tu chứng
đạt chân lí, còn ngoài ra những người tu chưa chứng đạt chân lí thì không được
nói câu này.
Â
THÍCH HỘI HỌP
LỜI PHẬT DẠY
‚Này Ananda,
nếu Tỳ kheo
nào thích thú trong hội chúng của mình, hân hoan trong
hội chúng của
mình, hoan hỉ trong
hội chúng của
mình, thích thú trong hội chúng của
người, hân hoan trong hội
chúng của người, hoan hỉ trong hội chúng của người, có
thể là
một vị chứng
đắc tùy theo
ý muốn, chứng đắc không khó
khăn, chứng đắc không mệt nhọc, viễn ly lạc, độc cư lạc, an tịnh lạc,
chánh giác lạc, sự kiện như vậy không xảy ra‛.
(Kinh
Trung Bộ tập III trang 302-303, kinh Đại
không)
CHÚ GIẢI:
Kính thưa
các bạn! Các bạn có đọc và nghe lời Phật dạy trong đoạn kinh này không? Tỳ kheo
nào ưa thích
hội họp, ưa
thích nói
chuyện trong
nhóm của mình, trong nhóm của người
khác, thì Tỳ kheo ấy
tu hành không
có kết quả, chỉ tu chơi uổng phí một đời tu hành.
Kính thưa
các bạn! Tu
chơi thì đi tu để
làm gì. Phải không
các bạn? Tu thì phải
thật tình tu, tu thì phải
hết sức mình để mang lại
sự lợi ích lớn cho mình, cho người.
Cho nên, những
tu sĩ Phật phải lấy hạnh độc cư làm cuộc sống của
mình; phải lấy hạnh
độc cư làm ngọn
đuốc soi đường cho mình
đi; phải lấy hạnh độc cư phòng
hộ sáu căn
giúp cho thân tâm bất động thanh
tịnh; phải lấy hạnh
độc cư làm căn cứ địa để
chiến đấu với giặc
sanh tử luân hồi; phải lấy hạnh độc cư biến mình thành con tê ngưu một sừng sống
không hề
sợ hãi, khiếp
đảm bất cứ một trở ngại nào.
Người tu
sĩ đạo Phật
có thành tựu được
đạo giải thoát là nhờ hạnh độc cư. Hạnh độc cư bị phá vỡ thì con đường
tu của các bạn sẽ là
con đường cùng và đời sống của các bạn đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo.
Kính thưa các bạn! Các bạn đừng lầm lạc độc cư của
đạo Phật với độc cư của
ngoại đạo. Độc cư của
đạo Phật là giới luật,
là đức hạnh. Cho nên
‚Im lặng như Thánh‛ là giới hạnh
trầm lặng của bậc
Thánh Hiền biết sống im lặng
như Thánh để lắng nghe
các ác pháp
và các cảm thọ; để lắng
nghe tâm bất động
trước mọi hoàn cảnh,
mọi sự việc
đang diễn biến không ngừng theo qui luật
nhân quả. Cho nên, im lặng như
Thánh là để lắng nghe bốn chỗ thân, thọ, tâm và các pháp của các bạn
đang thanh thản, an lạc và vô sự hay đang bị chướng ngại. Nếu thân, thọ, tâm và
các pháp đang bị chướng ngại pháp
thì các bạn phải sử dụng ngay liền Chánh Niệm Tỉnh Giác hay Định
Niệm Hơi
Thở để nhiếp
phục tức là đẩy lui chúng ra khỏi thân, thọ, tâm, pháp để đem
lại sự bình an
cho nó. Như
vậy, im lặng
như Thánh chính là đang tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ. Người
đang tu tập pháp
môn Tứ Niệm Xứ
thì đâu
còn thời gian
rảnh rỗi mà
đi nói chuyện, mà thích hội họp.
Người không biết tu tập Tứ Niệm Xứ mới
đi nói chuyện,
mới phá hạnh độc cư. Cho nên, độc
cư là giới hạnh, giới đức để tu tập Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm
Xứ và hạnh độc cư
hai pháp
có liên quan mật thiết như
cánh tay mặt
và cánh tay
trái. Hai pháp này rất quan trọng trong sự nghiệp tu tập
tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Như vậy, độc cư
có tầm
quan trong sự
nghiệp tu hành của các bạn, các bạn
cần nên lưu ý!
Kính thưa
các bạn! có người bảo rằng:
chúng tôi không
chấp nhận hạnh độc cư, tu
là phải có đối tượng để xả tâm,
tu mà không
có đối tượng là tu tập
ức chế tâm. Với ý kiến này có
đúng không các bạn?
Với ý kiến
này chỉ
là người mới bắt đầu tu tập những đức hạnh nhẫn nhục, tùy thuận,
bằng lòng để tập sống đạo đức nhân bản -
nhân quả, sống không
làm khổ mình,
khổ người và khổ cả hai. Đây là giai đoạn tu tập của
người cư sĩ còn sống
trong gia đình,
còn tiếp duyên
với xã hội, còn giao thiệp với mọi người; còn lao tác mọi việc
vì cuộc sống
của mình, của
những người trong gia
đình thì không thể
tu tập như người tu sĩ được.
Chừng nào bước vào
giai đoạn tu tập thứ
hai, vì giai đoạn tu
tập thứ hai
này thì không giống như ở giai đoạn
thứ nhất các bạn ạ!
Khi bước qua giai
đoạn thứ II thì nhẫn nhục, tùy
thuận và bằng
lòng đã nhuần nhuyễn, nên đối với pháp này chỉ còn
là một phản ứng rất tự nhiên, vì thế nhẫn nhục mà không nhẫn
nhục, tùy thuận
mà không tùy thuận tức là không có chỗ còn ức chế chịu
đựng của tâm nữa. Vì thế, bằng lòng không còn là bằng lòng
gượng ép làm
vui lòng người
trước
nghịch cảnh của
các ác pháp. Nghịch
cảnh của các ác pháp
không tác động
được thân, tâm người đã tu tập
nhuần nhuyễn những đức hạnh nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng.
Giai đoạn thứ
hai là giai đoạn lập đức lập hạnh của những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và
Thánh cư sĩ. Đó
là sống với những đức hạnh
ăn, ngủ,
độc cư. Ăn, ngủ,
không phi thời
có nghĩa tu hành lập đức Thánh hạnh này tức là làm chủ được ăn và ngủ,
khi ăn, ngủ không phi thời thì mới sống Thánh hạnh độc cư. Chính nhờ Thánh
hạnh độc cư
mà tâm họ
không phóng dật.
Có người cho
rằng nhẫn nhục, tùy thuận, bằng
lòng là không
phải giới luật.
Họ đã hiểu sai. Nhẫn
nhục, tùy thuận
bằng lòng là giới
đức, giới hạnh và giới hành của một tu sĩ Phật
giáo.
Có bao giờ
các bạn nghe và đọc kinh sách nói đến đức
nhẫn nhục, đức
tùy thuận, đức bằng lòng chưa? Đó là những đức hạnh của
những bậc Thánh, chứ không phải người phàm phu mà sống được.
Khi các bạn
quyết tâm tu hành để tìm cầu sự giải
thoát mà các bạn thích hội họp nói chuyện
là các bạn không lập đức hạnh độc cư,
dù các bạn có
tu pháp nào,
cũng chẳng có lợi
ích gì cho các bạn cả, và có thể tâm trí của các bạn còn tệ hại hơn nữa.
Trong bài
kinh này tuy lời cảnh giác
đơn giản nhưng rất thấm thía: ‚Này
Ananda, nếu Tỳ kheo nào thích thú trong
hội chúng của mình, của người,
hân hoan trong
hội chúng của mình, của người, hoan
hỷ trong hội chúng của mình, thích thú trong hội chúng
của người, hân hoan
trong hội chúng của người,
hoan hỷ trong hội chúng của người, có thể là một vị chứng đắc
tùy theo ý muốn,
chứng đắc không
có khó khăn, chứng đắc
không có mệt nhọc,
viễn ly lạc, độc cư lạc,
an tịnh lạc, chánh giác lạc, sự kiện như vậy không xảy
ra‛.
Tóm lại, đoạn
kinh này người không sống đúng hạnh độc cư, không phòng hộ sáu căn, thường để tâm phóng dật thì sự tu hành chẳng có kết quả gì, chỉ uổng
công mà thôi.
Tâm tham, sân, si bị ức chế nên dẫy đầy sự ham muốn dục lạc thế gian. Do đó, càng tu tập
thì chùa càng to, Phật càng lớn; càng
tu tập vật chất càng nhiều, hạnh ba y một bát đâu
còn nữa? Cũng từ
nơi sống không
phòng hộ sáu căn,
sống không giữ
gìn hạnh độc
cư, sống ăn
ngủ phi thời,
sống không đúng Phạm hạnh, không thiểu
dục tri túc, không
ba y một bát, sống
trụ thế tăng,
không du tăng khất
sĩ. Vì thế, Thánh
hạnh giải thoát
của tu sĩ
đã đảo lộn, biến tu sĩ Phật giáo
thành tu sĩ Bà La Môn thật là đáng thương. Tu theo Phật giáo, trở thành tu
sĩ ngoại đạo mà không
biết chỉ có mang danh từ ‚Phật giáo Đại Thừa‛.
Các bạn hãy
lắng nghe đoạn kinh này mà suy ngẫm con
đường tu
tập của mình, ở giai đoạn thứ nhất: ‚Này Ananda, như sự an trú này đã được Như Lai toàn giác ngộ, tức là sau khi
không tác ý với
tất cả tướng, chứng đắc và an trú nội không, và nếu
này Ananda, trong khi Như
Lai an trú trong an
trú này nếu có những Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, nam
cư sĩ, nữ
cư sĩ, quốc
vương, đại thần ngoại đạo, đệ tử của ngoại
đạo đến yết kiến.
Trong khi ấy
này Ananda, Như Lai với tâm hướng
đến viễn
ly, thiên về viễn ly, nặng
về viễn
ly, sống độc cư
hoan hỉ trong dục lạc
làm cho đoạn tận tất cả các pháp dựa trên các lậu hoặc, an trú nói
lên tại chỗ ấy những lời thuần túy liên
hệ đến khích lệ‛.
Rút ra từ
kinh nghiệm tu hành của đoạn kinh này
các bạn thấy
khi an trú trong
giới hạnh độc cư, phòng hộ sáu
căn thì không được nói chuyện tiếp
duyên với bất cứ một ai, không tác
ý một tướng
nào cả thì mới
được gọi là an trú bất động tâm (nội không)
đoạn kinh dạy rất rõ:
‚Khi Như Lai an trú trong an trú
này nếu có Tỳ
kheo tăng, Tỳ
kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, quốc
vương, đại thần, ngoại đạo đệ tử của ngoại
đạo đến yết
kiến. Trong khi ấy
Như Lai với tâm hướng
đến viễn ly… làm
cho đoạn tận tất cả các
pháp dựa trên các lậu hoặc‛.
Có sống với hạnh độc cư như vậy
các bạn mới an trú được tâm bất động
(nội không), mới đạt được chỗ ly dục
ly ác pháp hoàn
toàn, mới viễn ly trọn
vẹn các ác
pháp đang tác động
trong giai đoạn tu tập thứ nhất, thứ nhì và mới sung mãn được Tứ Niệm Xứ.
Các bạn
nên nhớ những
lời Phật dạy ở
trên để viễn ly tất cả các ác pháp và các dục. Muốn viễn ly tất cả các ác pháp
và các dục mà không nhờ hạnh độc cư thì các bạn rất khó mà viễn ly nổi.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!