ràng, có
đâu mà lại
tranh chấp hơn
thiệt để mang tiếng là bậc A La
Hán mà tư tưởng vẫn bất đồng nhau. Theo chúng tôi thiết nghĩ, vấn đề bỏ những
giới nhỏ nhặt, điều đó không khó đối với ông Ca Diếp và ông Phú Lâu Na, chỉ có
người sau không hiểu mới có câu chuyện vô lý này.
Như chúng
đã biết, từ giới luật
mà sanh ra chư
Phật và A
La Hán, ngoài
giới luật ra thì không
có Phật và
A La Hán. Vậy mà giới luật nào lại bỏ được? Giới luật là hành động
đạo đức của chư Phật và A La
Hán, dù là giới
luật nhỏ
nhặt nhất nó
cũng là hành động
đạo đức làm người, làm Thánh. Chỉ có những
người không hiểu giới luật, để chạy theo dục vọng thế gian
bày trò bỏ những giới
nhỏ nhặt không hợp
thời, để tự tung, tự tác, phá giới, phạm
giới, bẻ vụn giới mà không ai dám chỉ trích, chê trách, phê phán họ.
Người muốn
tu chứng quả A
La Hán
thì phải sống đúng giới luật, tức là phạm hạnh của một vị Thánh tăng,
ngoài phạm hạnh của một vị Thánh tăng ra
thì không thể nào chứng quả A
La Hán được.
Tóm lại, bậc
A La Hán là bậc siêu nhân như trong kinh đã dạy, điều đó là đúng sự thật chứ
không phải như các tổ hiểu theo trí hữu hạn, cho rằng bậc A
La Hán
còn tranh chấp, chỉ
có Phật mới là hết tranh chấp.
PHẬT VÀ A
LA HÁN
Hỏi:
Kính bạch Thầy! Trong sách Thầy giảng: “Phật và A
La Hán chứng quả
như nhau (không có cao thấp)”. Thế sao về danh từ
không chung là một lại còn tách bạch ra?
Đáp: Phật
và A La
Hán đều chứng
quả như nhau, nhưng Phật là người
sáng lập ra đạo Phật nên gọi được
là Phật, còn
A La Hán
là những người tu chứng giải
thoát như Phật
nhưng phải theo giáo
pháp của đức Phật, vì thế nên
không được gọi là Phật, chỉ được gọi
là A La
Hán mà thôi.
Vì nếu gọi tất cả A La
Hán là Phật
thì cũng không sao, nhưng
lòng người muốn
phân biệt danh từ A La Hán và Phật
như vậy là vì họ muốn tỏ lòng tôn kính đức
Phật Thích Ca Mâu Ni hơn. Là vì đức Phật là người đã dầy công tu tập
mới sáng lập ra đạo Phật và để lại cho loài người một giáo pháp đạo đức tuyệt vời,
công ơn ấy rất lớn.
Phật và A
La Hán khác nhau là
ở những chỗ mà
chúng tôi đã
nêu ở trên,
vì thế mà
danh từ gọi Phật và A La Hán phải
khác nhau. Cho nên Phật có thể gọi mình
A La Hán, nhưng A La Hán không thể gọi mình là Phật được.
Đạo Phật
duy nhất chỉ có đức Phật Thích Ca Mâu Ni
là đấng
giáo chủ, ngoài
đức Phật Thích Ca Mâu
Ni ra thì không có một đấng
giáo chủ nào khác cả, nếu
có một đấng
giáo chủ nào
khác là do
con người sau bịa đặt ra. Vì thế, trước và sau Phật thích Ca Mâu Ni thì không có một vị giáo chủ nào cả.
Những vị Phật độc
giác là phải tự mình
tìm lấy pháp tu hành, không theo một giáo pháp nào cả, nhưng tu chứng giải thoát như Phật Thích Ca Mâu Ni
có nghĩa là phải làm chủ sanh, già, bịnh, chết và chấm dứt
luân hồi thì mới
được gọi là Độc Giác Phật.
NGŨ NHÃN CÒN
QUÁ ÍT
Hỏi: Vả lại, tu Tứ
Thánh Định - chứng Tam Minh
là quả vị A
La Hán. Sao chỉ nói
có Thiên Nhãn Minh
mà không nói
ngũ nhãn như
trong kinh Kim Cang (Nhục nhãn, tuệ nhãn... Phật nhãn?
Đáp: Phật tử
nên phân tích rõ những danh từ dùng trong kinh sách Phật, nói Thiên Nhãn mà
không nói Minh tức
là chỉ có
Thiên Nhãn mà thôi, nhưng nói Thiên Nhãn Minh thì có nghĩa khác. Trong
Thiên Nhãn Minh là một trí tuệ
siêu không gian
và thời gian,
nên nó đầy đủ
cả ngũ nhãn và còn nhiều hơn nữa, mà kinh Kim Cang chỉ có
nêu lên ngũ nhãn thật là quá ít.
Trong Thiên
Nhãn Minh gồm
có: giới nhãn, định
nhãn, tuệ nhãn,
nhân quả nhãn,
vô lậu
nhãn, nhục
nhãn, thiên nhãn, Phật nhãn tức là A La Hán nhãn, tức mạng minh nhãn, Thánh đức
nhãn, đại thần lực nhãn,
đại uy lực
nhãn, đại minh lực nhãn v.v...
BỐ THÍ CỦA CẢI
Hỏi: Từ bố
thí cho một người hiền bằng bố thí cho 100 người ác, đến thiết lễ (cúng đường)
1000 ức vị Tam Thế Chư Phật không bằng cúng dường một vị
vô niệm, vô trụ và
vô chứng. Như vậy là như
thế nào, xin Thầy chỉ dạy cho
chúng con được rõ?
Đáp: Đúng
là kinh phát triển
dạy bố thí phi đạo
đức, chứ kinh sách
Nguyên Thủy không
có dạy như vậy.
Quý phật tử
hãy suy nghĩ lời dạy
này có
đúng đạo lý
không? Bố thí cho một
trăm người ác, phước báo bằng bố thí cho một người thiện.
Kinh sách
phát triển dám lấy một người thiện mà so với một trăm người ác. Theo thiển
ý của chúng tôi,
dù lấy một
ngàn, một vạn, một
triệu, mười triệu hay
trăm triệu, vạn triệu
cho đến vô lượng người
ác cũng không
thể so sánh với một
người thiện, vì thiện
và ác như
hai đường song song, không
thể gặp nhau
trên một điểm nào cả thì làm sao
so sánh được, hễ có
cái thiện
thì không có cái ác, có cái ác thì không có cái thiện. Thế sao các vị lại dùng
thiện, ác mà so sánh như vậy,
đây là cách
tưởng giải để lừa
đảo người không
biết, chứ người
biết thì kinh sách phát
triển sẽ bị lật tẩy
ra khỏi môi
trường tôn giáo.
Đã bảo rằng
Tam Thế Chư Phật, có nghĩa là ba đời chư Phật, Ba đời chư Phật là những
người tu hành đã thành Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai, những người này
đã giải thoát hoàn toàn, thế mà một ngàn vị Phật như vậy... không bằng một vị
vô niệm, vô trụ, vô chứng.
Vậy chúng ta
thử tìm hiểu một vị vô niệm, vô trụ,
vô chứng như thế nào
mà các nhà Đại thừa ca ngợi, tán thán như vậy.
Vô niệm như
thế nào? Vô niệm là không có niệm thiện, niệm
ác trong đầu
(Chẳng niệm thiện, niệm ác, bản
lai diện mục hiện tiền), công án Thiền tông và kinh Pháp Bảo Đàn.
Vô trụ
như thế nào? Vô trụ là
tâm không trụ bất cứ một nơi nào cả (Ưng vô sở trụ, nhi
sanh kỳ tâm), kinh Kim Cang.
Vô chứng là
gì? Vô chứng là không thấy mình chứng đắc, còn thấy mình
chứng đắc là
chưa chứng đắc (Vô sở đắc) kinh Kim
Cang...
Theo các
nghĩa trên đây,
chúng ta xác định
một người tu theo Đại thừa và Thiền tông khi thành tựu
họ hoàn toàn
vô niệm, vô trụ, vô chứng,
là một người
được cúng dường
xứng đáng hơn 1000 ức vị Phật
trong ba đời. Như vậy vị vô
niệm, vô trụ,
vô chứng là một vị Phật tối thượng, phước
báo hơn gấp 1000 lần
Phật Thích Ca Mâu Ni.
Bởi vì đức Phật Thích Ca
Mâu Ni sống còn niệm, còn trụ,
còn tu chứng. Tại sao chúng ta biết như
vậy?
Tại vì đức Phật
Thích Mâu Ni dạy: “ngăn
ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp”, như vậy chứng tỏ đức
Phật Thích Ca Mâu Ni còn niệm thiện, không như Thiền tông chẳng niệm
thiện, niệm ác.
Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni còn dạy chúng ta tăng thiện pháp, tức là còn trụ trong thiện pháp
để tăng
trưởng nó lớn
lên, do đó chúng
ta biết đức Phật Thích Ca còn trụ trong thiện pháp vì lợi ích cho
chúng sanh. Còn chúng ta trụ trong thiện pháp là để không làm khổ mình khổ người.
Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni tự xưng mình tu chứng: “Ta thành chánh giác là nhờ tâm không
phóng dật”, hay
khi chứng đạo đức Phật đã nói
lên bài kệ này:
“Thiên thượng
thiên hạ Duy ngã độc tôn, Nhất thiết thế gian, Sanh, lão, bịnh, tử”
Đối với
kinh sách Đại
thừa và thiền Đông
Độ, thì đức Phật
Thích Ca Mâu Ni là người chưa vô niệm, vô trụ, vô chứng, tức là người chưa
chứng đạo. Người chưa chứng đạo mà làm giáo chủ sáng lập ra Phật giáo, còn vô
niệm, vô trụ, vô chứng lại không phải là giáo chủ.
Vậy Phật
giáo Đại thừa
và Thiền tông là Phật
giáo gì?
Dùø không có
đối tượng ác pháp nhưng thiện pháp vẫn còn mãi mãi, vì thiện pháp là nền tảng đạo đức
làm người, là nền móng
giải thoát của đạo Phật, cho nên người tu sĩ đạo Phật nào cũng đều phải trụ
vào đó để không làm khổ mình, khổ người
tức là tu giải thoát, tức là làm lợi ích cho chúng sanh.
Hỏi:
Kính bạch Thầy! Phật lịch 2.546 năm và
2.626 năm
(năm 2002 DL),
vậy niên lịch
nào đúng và niên lịch nào
sai, xin Thầy dạy cho chúng con biết?
Đáp: Tín đồ
Phật giáo trong nước, cũng như ởû khắp thế giới đều không biết rõ ngày tháng
năm sinh của đức Phật, vì lịch sử của đức Phật không có ghi chép cụ thể. Hiện
giờ, tín đồ Phật giáo đều dùng Phật lịch 2.546 năm theo hệ Nam tông, chứ ít ai
dùng 2.626 năm theo hệ Bắc tông.
Niên lịch
Phật giáo Bắc tông không
đáng cho tín đồ Phật giáo tin tưởng, vì thế mà không dùng niên lịch Bắc
truyền.
Mặc dù lịch sử
chưa chứng minh được
Phật lịch năm nào đúng, sai, là vì không có sử liệu ghi chép lại
chính xác. Cho nên,
năm 2.546 và năm
2.626 đều không
đúng. Nhưng hiện
giờ chúng ta dựa
vào những cuộc họp
Phật giáo thế giới, chấp nhận lấy năm 2.546 làm niên lịch Phật
giáo. Bây
giờ phần
đông tín đồ Phật
giáo quen dùng niên lịch Phật giáo năm 2.546 là đúng hơn
2.626 năm.
Hỏi: Thưa Thầy!
Sự sai biệt giữa Nam tông và Bắc
tông về pháp của đức Phật: 45
năm theo Nam tông 49 năm theo Bắc
tông. Thưa Thầy, bên nào đúng?
Đáp: Căn cứ theo
kinh sách Nguyên Thủy
là loại kinh sách gốc của Phật
thuyết, nên 45 năm thuyết
Pháp đúng hơn.
Còn 49 năm
theo Bắc tông là
sai. Vì kinh sách
theo Bắc tông
do kiến giải của các tổ viết ra, nên có sự bóp méo sự thật, vì thế 49
năm thuyết pháp
không đúng. Bởi vì
Bắc tông
cho bộ kinh Bát Nhã
là quan trọng, là đệ nhất trong các kinh nên nói rằng đức Phật
thuyết pháp cho hàng Bồ tát 20 năm mới xong bộ kinh này.
Vì thế,
49 năm thuyết
pháp là không
đúng theo lịch sử chân thật của Phật giáo.
Nếu chúng ta
tính thời gian từ khi tu chứng và bắt đầu giảng
đạo cho đến khi Phật
nhập Niết Bàn thì sẽ rõ thời
gian.
Hỏi: Kính
bạch Thầy! Trong
Giáo Án... tập
3, Thầy nói:
Khi còn sống, mọi hoạt động của con người
đều “lưu lại” ở từ trường trong không gian, và chỉ
người nào có tưởng thức mạnh mới
giao cảm được với tần số của từ trường ấy mà “thấy và
nghe được”
những sự việc đã diễn ra của người chết.
Như cô Khang
bị rứt móng
tay... Tóm lại, vậy là
“có” linh hồn người
chết, nhưng người thấy,
người không, chứ
nói “không có”
linh hồn, thì mọi người không
ai chịu tin hết
Thầy ạ! Rồi họ đưa ra việc cầu hồn, thấy ma...
Thưa Thầy,
hay là Phật nói không có linh hồn vì
nó có nhưng
không thật; hay để con
người không nhớ thương,
không ỷ lại,
nương tựa tha lực?
Đáp: Không
phải vậy, không
phải vì lý do
nhớ thương, hay ỷ
lại mà đức Phật nói
không có thế giới siêu hình, mà thật sự hoàn toàn thế giới siêu hình không có. Trong vấn đề linh hồn người chết có
hay không, điều
này đã mang nặng một dấu ấn trong tâm của mọi người là có linh
hồn người chết. Muốn
xác định cho rõ
ràng điều này, thì không có
cách nào hay hơn bằng chính
người ấy phải tự nhập Tứ Thánh Định, an trú trong ấy, rồi dùng Trạch
Pháp Giác Chi hướng tâm đến Thiên Nhãn Minh để quan sát thế giới siêu hình, thì
chừng đó mới xác quyết chắc chắn, rằng người chết không còn có linh hồn tồn tại,
hay là không có sự sống sau khi chết.
Ở đây, Thầy đã giải thích rất nhiều về vấn đề
thế giới siêu hình, nhưng ai là người hiểu
vấn đề này. Người tri âm khó gặp, tri kỉ
khó tìm. Người nghe được tiếng đàn của Bá Nha chỉ có Tử Kỳ mà thôi. Nhưng
Tử Kỳ chết,
Bá Nha đập
nát chiếc đàn. Vì
trên đời này
còn có ai
nghe được tiếng
đàn của
mình. Thầy cũng vậy, chỉ
có người nào tu chứng
quả A La Hán mới hiểu
được tiếng nói của Thầy.
Thầy sẽ
không phụ lòng những câu hỏi của các con, Thầy cố gắng trả lời cho các con hiểu.
Con nên hiểu, thế giới mà
loài người đang sống là một thế giới sắc tướng, có sự sống,
có vạn vật hiện hữu, thế màø đức Phật gọi nó thế giới tưởng thì chúng ta có tin
không?
Thế giới của chúng
ta đang sống không
phải do “tưởng uẩn
làm ra”, mà
do duyên hợp lập
thành. Vì thế, không
có một vật gì thường
hằng, luôn tan hoại theo thời gian năm tháng. Thế mà chúng ta điên đảo
tâm, điên đảo tưởng, điên đảo tình, điên
đảo kiến, chấp
thủ mọi vật
là có thật, là ta, là của ta, v.v... Thế giới hiện hữu
là không có thật, vì thế mọi vật thường
vô thường. Trên thế gian không có một vật gì là trường cửu,
vậy mà
mọi người cho
nó là có thật thì không phải đó là điên đảo sao? Do cho nó có thật, nên mọi người
làm ra cho nhiều, cố
làm ra cho nhiều
nên làm ra nhiều điều
ác. Do làm nhiều
điều ác nên phải thọ chịu những
quả khổ đau.
Với đôi mắt của Phật nhìn mọi vật
trên thế gian này,
như bong bóng nước,
như hoa phù du sớm nở, tối tàn, đóù là một bằng chứng thật
sự. Vì thế, đức Phật
cho rằng thế giới
chúng ta đang sống
là thế giới của tưởng
tri. Vậy mà
có ai tin đâu.
Chúng ta lại
một lần điên đảo nữa,
cái hình bóng của thế giới hiện tượng hữu hình tưởng tri này lại cho là
thế giới siêu hình.
Ví dụ: Một
cuộn băng video thu những ảnh núi sông,
nhà cửa, người
và vạn vật đang sinh
hoạt nhảy múa. Với những hình ảnh
này chúng ta cho đó là thế giới siêu hình
sao?
Những hình ảnh núi
sông, đất đá,
cây cỏ, người và thú vật trong
băng video hiện ra và hoạt động được là nhờ dòng
điện, đầu máy
và màn hình.
Còn thế giới
siêu hình cũng vậy, nó được hiện ra và hoạt động
là nhờ tưởng
uẩn của chúng
ta bắt gặp và lập thành, chứ nó không có thật.
Con cũng nên
biết và phân biệt tưởng cho rõ ràng. Tưởng có hai phần cụ thể:
1- Ý thức tưởng,
là chúng ta dùng ý thức mà tưởng tượng
ra một vật
mà vật đó
không có ở trước mắt.
2- Tưởng thức
tưởng, là do năng lực hoạt động của tưởng
uẩn, khiến cho những
hình ảnh của thế giới sắc tướng hiện hữu của
loài người đang sống, đã được lưu
lại trong không gian trở thành sống động, khiến cho mọi người chưa đủ trí tuệ sáng
suốt, đang sống
trong điên đảo
tâm, điên đảo kiến, điên đảo tưởng, điên đảo tình, mới cho những hình ảnh ấy
là có thật
thế giới siêu hình
thật. Vì thế mới có việc cầu
cơ, cầu hồn, thấy ma, thấy quỷ,
v.v...
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Phật giáo Đại thừa có phải là Phật giáo chánh thống không?
Đáp: Phật
giáo Đại thừa
không phải Phật giáo
chánh thống, mà
là Phật giáo
theo kiểu pháp kiến
giải của Bà
La Môn. Hay
nói cách khác, Phật
giáo Đại thừa
là đạo Bà
La Môn lấy tên
Phật giáo để lừa đảo
tín đồ Phật giáo.
Cho nên, nghĩa lý của toàn bộ kinh sách
Đại thừa là giáo pháp của Bà La Môn chính gốc.
Hỏi:
Kính bạch Thầy! Thiền Đông Độ có phải là
Phật giáo hay không?
Đáp: Thiền
Đông Độ không phải là Phật giáo mà
là Lão giáo
Trung Hoa (Tiên đạo).
Tư tưởng Lão Trang Trung Hoa phát triển, có những điểm tương đồng với tư
tưởng kinh sách phát triển Đại thừa
giáo Ấn Độ.
Vì thế, sau này
Phật giáo Đại thừa đồng hoá tư tưởng Lão giáo, lấy tên
gọi là “Phật giáo Tối
Thượng thừa”, hay còn gọi
là “Thiền tông”. Chủ trương của Thiền tông kết hợp Lão giáo và Đại thừa,
nên thường gọi là “Thiền Giáo đồng hành”.
Phật giáo Đại
thừa là Phật giáo Bắc truyền, thuộc Bà La Môn giáo và Ấn Độ giáo kết hợp và phát triển theo tưởng
giải tạo ra. Cho nên, những tư tưởng trong kinh sách là tư tưởng của hai giáo
phái này. Tư tưởng
của hai giáo
phái này mang tính chất trừu
tượng, mơ hồ, ảo
giác và đầy dẫy
sự mê tín,
v.v... lấy thế giới siêu hình làm nơi an
trú cuối cùng.
Hỏi: Kính
bạch Thầy! Trong
sách Thầy thường hay nói là người
muốn tu hành giải thoát thì phải thực hiện
không làm khổ
mình, khổ người, cắt
ái ly gia,
ly dục, ly
ác pháp, hướng thiện, tăng trưởng thiện, ly ác, diệt
ác pháp, xả tâm, v.v... còn
sách của thầy
Thanh Từ thì coi “Bát
Nhã Tâm Kinh”
là cứu cánh,
tức là lấy
cái nhìn mọi sự đều “không” để
tu. Theo con hiểu thì hai pháp đều có thể hỗ trợ cho nhau. Từ cái nhìn mọi sự đều không
hướng tới ta không
làm khổ mình, khổ
người, ly dục,
ly ác pháp...
cũng đâu có mâu thuẫn gì? Vậy mà
con thấy trong sách của Thầy có nói
là Đại thừa
hay Đông Độ là
xuyên tạc giáo lý của Phật tổ, mong Thầy giải thích cho con hiểu!
Đáp: Kinh
sách Nguyên Thủy của đức Phật và Kinh sách
Đại thừa tưởng
giải về lý thì
giống nhau, nhưng kinh sách Đại thừa không có pháp hành, không có lối sống
đúng; thường sống phạm giới, phá giới luật
Phật và sống trong ô nhiễm, nhưng khéo lý luận thấy mọi pháp đều không, thì
đó là
sự lừa đảo bằng ngôn
ngữ để che mắt
tín đồ. Thấy các
pháp đều “không”,
sao quý thầy lại không sống
“không”? Vì thế, các thầy Đại thừa sống ô nhiễm, có chùa to Phật lớn, vật chất
đầy đủ, ăn uống phi thời, mặc y áo sang đẹp, đắt tiền
giống như nhà
giàu, đi ra thì
như vua
chúa tiền
hô, hậu ủng, thế mà nhìn mọi pháp đều
không thì con có tin là không chăng? Nói “không” mà lại
“có” và còn chạy theo
cái có thì chúng
ta có tin lời nói của họ không? Từ chỗ không có một chiếc xe đạp, khi
làm trụ trì một thời gian thì cả xe hơi họ cũng có.
Còn kinh sách
Nguyên Thủy dạy
các vị tu sĩ
phải sống đúng
Phạm hạnh, không
có chùa to Phật
lớn, đời sống
chỉ có ba y một
bát, ăn ngày một bữa, mặc y áo thô xấu, mà còn phải
luôn luôn cảnh giác phòng
hộ sáu căn bằng Giới
luật, để giữ gìn đức hạnh của một bậc Thánh
tăng. Đối với tu
sĩ Nguyên Thủy,
như vậy chưa được gọi là
ly dục, ly ác pháp,
mà còn phải
thực hành ngày đêm
liên tục “ngăn
ác, diệt ác
pháp” để khắc phục tâm tham, sân, si, mạn, nghi của
mình bằng các pháp định như: Định Niệm
Hơi Thở, Định Chánh Niệm Tỉnh
Giác, Định Sáng Suốt,
Định Vô Lậu, v.v... Có sống không ô nhiễm, có thực hiện các
pháp định như vậy,
thì mới có thể ly dục, ly ác pháp, mới không làm khổ
mình, khổ người.
Nếu một người
quyết tâm tu hành
để cầu giải thoát, mà cứ
nhìn các pháp định như vậy, đều thấy
nó là không,
thì đó là một lối ức chế tâm, một lối chịu đựng, không phải là giải
thoát. Nếu bảo rằng các pháp đều không thì chúng ta thử lấy cây đánh vào thân
ta thì có cảm giác đau không? Nếu không đau là không, còn có đau là có, còn có
đau mà mà nói
đau mặc kệ nó,
đó là người
vô
minh, người
ngu si, người chai lỳ, v.v...
Bởi vậy, tổ Sư Tử ngu
si mà chết
oan mạng, cũng
do “không” của Đại thừa mà
ra nông nỗi
này (Ngũ uẩn giai không).
Kinh sách của
Đại thừa xuyên tạc giáo pháp của đạo Phật là Tiểu thừa, Thanh Văn, ngoại đạo, cấm không
cho tín đồ Phật giáo
tu tập, còn gọi
những người tu
theo giáo lý
Nguyên thủy của Phật là “tiêu nha bại chủng, chồi khô mộng
lép”.
Tứ Diệu Đế là một chân lý của đạo Phật bất
di bất dịch, không
ai thay được chân lý ấy, thế mà Đại thừa dạy: “Vô khổ, tập, diệt, đạo”. Tu mà thành cây, đá thì tu làm gì? Bởi vậy, từ khi
có sự
hý luận, chỉ biết các
pháp cả thiện lẫn
ác đều “không”
là trở thành
cây, đá. Đạo Phật dạy: “Ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện”.
Thiện là pháp
không làm khổ mình,
khổ người, pháp không làm khổ mình,
khổ người là pháp
giải thoát, là đạo đức
nhân bản làm người; còn nếu thấy
các pháp thiện cũng là “không” thì trở thành
cây, đá, tu
mà thành cây, thành đá thì tu làm gì?
Bởi vậy, từ khi có
sự hý luận của ngài
Long Thọ, “Trung Quán Luận”
là một tai hại
rất lớn cho tín đồ Phật
giáo, từ thế hệ này đến thế hệ
khác chỉ toàn là ăn thứ bánh vẽ. Cho nên, không một vị tu sĩ nào đạt được giải
thoát, đến khi chết không có vị nào mà không đau khổ cả, họ đều lăn lộn, trăn
trở trên giường bịnh một cách khổ đau không thua gì người thế tục.
KHI TU THIỀN
CỦA PHẬT,
NGHĨ GÌ VỀ LÝ BÁT NHÃ
(Trích từ
trang Web: nguyenthuychonnhu.net
Giáo án Tu Tập
- Tập 1 năm 2000)
Khi đức Phật
tại thế, rất nhiều đệ tử của Ngài tu hành chứng đạt, từ khi Ngài nhập diệt cho
đến ngày nay, số người
viên mãn đạo quả giải
thoát là hiếm thấy. Hỏi Các qúy Thầy về vấn đề này, được các quý Thầy trả
lời là phải tu nhiều đời, nhiều kiếp.
Phải chăng cứ
phải tu như vậy mới thành tựu được đạo
Phật?
Vậy thì đạo
Phật ra đời có lợi ích gì cho con người, khi mà
không giúp cho con người
thoát ra khỏi những nỗi khổ đau
sanh tử và luân hồi ngay trong hiện tại, mà phải chờ đến nhiều kiếp sau.
Có người bảo
tại vì chưa thể nhập được vào trí tuệ
Bát Nhã, nên
người tu mới
khó thành như vậy. Lý Bát Nhã ư?
Nghĩ lại hồi năm
trước khi còn là
tu sĩ Tịnh độ,
Thiền tông, hàng
ngày chăm chỉ tụng kinh, bái
sám, cuối mỗi thời kinh A Di
Đà, Phổ Môn, hay
ngồi thiền xong lại
đọc tụng Bát
Nhã Tâm Kinh, đọc nhiều đến nỗi
không cần giở sách cũng có thể đọc tụng vanh vách, rõ ràng không sai một chỗ.
Thuộc nằm lòng như vậy, mà vẫn không hiểu
Bát Nhã
Tâm Kinh ý nghĩa
ra sao, và tu tập bằng cách nào để thể nhập được vào nó.
Hỏi các quí
Thầy thì được trả lời đó là tính không của vạn hữu
gọi là chân
không diệu hữu, có nghĩa là từ tính “không” này sinh ra
muôn vật muôn sự, để rồi
muôn vật
muôn sự lại trở về
với tính không này. Bát Nhã Tâm Kinh chính
là bài kinh chỉ về tính không
của tâm, cũng
chính là tính không
của vạn hữu.
Được hiểu như vậy,
nhưng hỏi thế nào để thể nhập vào nó thì các quý thầy cũng
không thể trả lời được.
Chỉ biết giải thích ý
nghĩa của bài kinh là như vậy thôi.
Ta thử đọc lại
ý văn của bài kinh đó xem sao? Bài kinh
viết:
“Có một
ngài Bồ tát
(người đang tu,
chưa thành Phật) khi
ngồi tự tại
quán một cách chuyên
sâu bằng trí tuệ,
soi vào năm uẩn, thì thấy
năm uẩn đều
mang tính không, liền
thoát hết thảy mọi sự khổ ách.
Xá lợi tử
ơi! (xá lợi là cốt Phật, xá lợi tử là chỉ về
sự giác ngộ
là Phật tính ở
mọi người) Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc
tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.
Xá lợi tử
ơi! Cái tướng chân không của các pháp ấy không sinh, không diệt, không dơ, không sạch, không
thêm, không bớt. Bởi thế
cho nên, trong chân không ấy không có sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp; không có mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ý;
cũng không có
ý thức giới;
không có vô
minh;
cũng không
có cái gọi hết vô
minh; không khổ, tập, diệt, đạo; không chứng cũng không đắc,
bởi chẳng có gì gọi là đắc cả.
Bồ tát ba
đời nương vào trí tuệ
Bát Nhã thời được
đắc quả giải
thoát. Vậy trí tuệ
Bát Nhã là chú đại thần, là chú đại minh, là chú vô
thượng, là chú vô đẳng đẳng,
chân thực bất
hư. Nên có bài
chú ấy là: “Yết đế, yết đế, ba la
yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết tế,
tát bà ha”.
Có người dịch
tạm bài chú là: “Tiến lên, tiến lên,
hãy cố gắng
tiến lên đến bờ giác
ngộ bằng trí tuệ lớn”.
Những ngày
trước, khi đọc tụng
Bát Nhã, tôi có một khao khát vô cùng, cái khao khát của
một một người mong được chứng ngộ lý Bát Nhã, cũng giống như một người
đang bị cơn đói lả
dày vò, nhìn thấy chiếc bánh dành cho mình để ởû trước mặt, vậy
mà cố với
tay để lấy
mà không bao giờ lấy được.
Sau này, khi
theo học với một vị đạo sư đã đắc quả giải thoát, tôi mới tự nhận ra chiếc bánh
đó chỉ là một
chiếc bánh vẽ ở trong
mộng và muốn thể nhập vào tính không của vạn hữu cũng
chỉ là ảo mộng mà thôi.
Chắc có người bảo rằng tôi
dám khinh chê kinh Phật. Không dám
đâu! Lời của Phật sao lại dám
khinh chê. Ngài
là hiện thân của trí tuệ
vô thượng và của đức hạnh từ bi. Chỉ vì muốn cứu mình,
cứu người ra khỏi bốn nỗi khổ lớn: sinh, già,
bịnh, chết, mà
Ngài từ bỏ
giàu sang, danh
vọng, đi tìm
đường giải thoát
cho mình và cho mọi người. Vì thế, lời
nói của Ngài là chân lý, là hiện
thực, làm sao lại
dám khinh chê. Lời dạy của Ngài đáng để cho chúng ta phải
kính trọng, ngưỡng mộ, học hỏi và tu tập,
để noi theo gương hạnh của Ngài. Có một
câu chuyện làm tôi thấm
thía đức hạnh từ bi của Phật. Câu chuyện đó như sau:
Có một vị đệ tử của Phật suy nghĩ:
“Không biết thế giới là vô thường hay thế giới là thường còn? Như Lai có
tồn tại hay không tồn tại sau khi chết?”
Người đó
mang câu hỏi này đến để hỏi Phật, và nếu
đức Phật không trả lời những
câu hỏi đó làm cho vị ấy được thỏa
mãn thì vị ấy sẽ không sống
đời sống Phạm hạnh, trở về hoàn tục. Khi vị ấy đến gặp đức Phật, đức Phật nói: “Ta
nào có nói với người thế giới là vô thường hay thế giới là thường còn, Như Lai có tồn tại hay không tồn tại sau khi chết
thì người mới theo Ta sống đời sống Phạm
hạnh. Nếu có
ai có ý
nghĩ ấy, thời
này, người ấy sẽ chết vẫn không được Như Lai trả lời.
Ví như có một
người bị mũi tên bắn, có tẩm thuốc độc. Bạn
bè và bà con
mời một
thầy thuốc khoa mổ xẻ đến lấy mũi
tên ra và săn sóc. Nhưng người ấy không cho rút mũi tên khi nào người ấy chưa
biết được người
bắn mũi tên
là ai, cao hay thấp, béo hay gầy, thuộc giai cấp nào
và ở đâu. Người ấy không cho rút mũi tên ra, khi người ấy chưa biết được cây
cung được làm bằng loại gỗ gì,
mũi tên được làm bằng thứ
gì. Người ấy sẽ chết
mà vẫn không được biết gì.
Cũng vậy, dầu
cho có quan điểm thế giới là vô thường
hay thế giới
là thường còn,
Như Lai có tồn
tại hay không tồn tại sau khi
chết, thời vẫn có sinh, già, bịnh, chết, sầu, bi, khổ,
não...”
Chính vì vậy mà đức Phật
đã không trả lời
câu hỏi
của vị đệ tử kia, mà
đức Phật chỉ giảng
dạy sự
đoạn tận ngay
trong hiện tại những nỗi khổ ấy.
Qua câu chuyện
trên, chúng ta thấy đức Phật
rất thực
tế, Ngài không
nói lý luận,
nếu lý luận ấy
không nhằm vào mục đích
giải thoát. Mọi người
khi đến với Ngài,
bằng những ví dụ,
bằng những lời lẽ cụ thể, dễ hiểu. Ngài chỉ dạy thẳng vào vấn đề, để mọi
người dễ nhận ra chân lý đâu là khổ, đâu là nguyên nhân gây ra khổ, và đâu là
con đường diệt khổ, để bản thân có thể giải thoát ra khỏi những nỗi khổ đau.
Những năm
trước, đọc tụng
Bát Nhã thuộc nằm lòng như vậy, mà chẳng thấy nếm được
mùi vị giải thoát. Nếu có ai đụng nhằm vào, làm trái ý
nghịch lòng là nổi sân liền, hoặc gặp những chuyện bất toại nguyện
trong cuộc đời
là đau buồn khổ đau.
Quay trở lại
bài Bát Nhã
Tâm Kinh để xem xét bản kinh có đúng của Phật thuyết ra
hay không? Nếu đúng là của Phật thuyết, thì bao giờ đức Phật cũng
chỉ dạy cách
thức tu hành cho mọi người.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!