một. Sau khi nàng
Công Chúa Ba đi
tu, nhà vua trở thành độc ác, ông nghĩ rằng: Các tăng
trong chùa quyến rũ con gái ông, khiến ông khổ đau vì thương nhớ
con, ông căm tức
ra lệnh cho quân lính vây chùa, giết tăng và đốt
chùa.
Do hành động
ác độc này, và sự buồn rầu nhớ thương
con nên ông mang bệnh và căn bệnh rất nặng, không có thuốc thang nào chữa trị
được, đành phải chờ chết. Trong lúc đó,
có một vị tăng xuất hiện xin trị bệnh
cho vua. Sau khi xem xét bệnh tình, vị tăng kê toa, nhưng còn thiếu hai
vị thuốc là mắt
và tay của
con người được đem nấu chung với các vị thuốc khác thì trị bệnh
mới hết. Nhưng mắt, tay phải là của con nhà
vua thì mới hiệu nghiệm, còn của người
khác thì không hiệu nghiệm.
Hai đứa
con gái đầu
đã có chồng
con nên không dám
hy sinh mắt,
tay để làm
thuốc cho cha, vì thế nhà vua
không còn hy vọng sống chút nào, chỉ còn chờ ngày chết mà thôi.
Tại động
Hương Tích, nàng công chúa Ba được sứ thần đến
xin mắt và
tay để về
làm thuốc cho vua cha. Khi nghe cha bệnh nặng và xin mắt,
tay, nàng bèn khoét mắt, chặt tay giao cho sứ thần mang về làm thuốc trị bệnh.
Lúc bây giờ nàng đã thành Phật, nên mắt tay đều lành lặn trở lại như xưa.
Câu chuyện
trên đây là câu chuyện cấu kết nhân vật giả tưởng, mới
nghe qua thì tưởng là
đạo đức,
nhưng sự thật câu chuyện này là phi đạo đức nhân quả và rất nhiều điều tội lỗi:
1- Nàng Công
Chúa Ba chịu ảnh hưởng Đại thừa
giáo nên bỏ
cha đi tu,
khiến cho vua cha buồn
khổ thương nhớ.
Đó là tội thứ nhất,
làm khổ cha già là người sanh thành, dưỡng nuôi lớn
khôn, công lao trời biển đó, thế mà nỡ tâm, đành bỏ cha già đi tu, thật là vô đạo,
đức bất hiếu thứ nhất.
2- Nàng
Công Chúa Ba
đi tu theo Đại
thừa giáo theo
kiểu bất hiếu,
khiến cho vua cha căm tức đốt
chùa, giết tăng tạo tội ác tày trời, đó là hành động tội lỗi vô đạo đức thứ
hai. Nếu Công Chúa Ba không bỏ đi tu thì người cha đâu có làm nên tội lỗi tày
trời như vậy.
3- Chặt tay
khoét mắt mình,
đó là làm khổ
mình, tức là vô đạo đức với mình. Vô đạo đức với mình là tội vô đạo đức thứ ba.
4- Dùng
thần thông lừa đảo người
(mắt tay lành lặn như xưa), để mọi
người tỏ lòng cung kính ngưỡng mộ đó là háo danh, là tội lỗi phi đạo đức thứ
tư, không phải là người tu hành chân chánh của đạo Phật.
Tóm lại, bà
chúa Ba được thờ tại chùa Hương Tích với một lịch sử tội lỗi
và phi đạo đức như vậy,
thì có xứng đáng
gì cho chúng ta thờ phụng
và tỏ
lòng tôn kính
không? Đó chỉ
là một sự mê
tín trong dân gian
mà tác giả dựa vào
tư tưởng của Đại
thừa vẽ rắn
thêm chân. Vì thế, câu chuyện này vô đạo lý nhân quả của Phật
giáo.
Phật giáo
Nguyên Thủy không chấp nhận những câu chuyện huyền thoại phi đạo đức như
trên, đi
ngược lại với đạo đức
nhân bản - nhân quả của đạo Phật.
THỜ CÚNG
ĐÚNG CHÁNH PHÁP
Hỏi: Thờ
cúng như thế nào cho đúng chánh pháp?
Đáp: Thờ
cúng đúng chánh pháp là thờ đúng đạo
nghĩa làm người.
Vậy, thờ cúng
đúng đạo nghĩa làm người là thờ
cúng như thế nào? Thờ cúng đúng đạo nghĩa làm người tức là hành động cung
kính, tôn trọng,
tỏ lòng nhớ tưởng, biết
ơn của mình với người đã khuất
bóng.
Ví dụ 1: Thờ
cúng tổ tiên,
ông bà, cha mẹ
là một hành động đạo nghĩa
để tỏ lòng
cung kính, tôn trọng, nhớ tưởng đến
ân đức, công
lao khó nhọc của những người
này đã gây dựng một
gia đình êm ấm, một dòng họ tốt đẹp, một
xã hội đoàn kết, một đất nước phồn
vinh thịnh trị. Đó là thờ cúng đúng
chánh pháp. Còn nếu như thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ là để linh hồn của những
người đã
khuất bóng này về hưởng
của dâng cúng, hay về để phù hộ
cho con cháu mạnh khỏe,
bình an,
thì đó là thờ
cúng không đúng
chánh pháp. Đó là thờ cúng theo mê tín, lạc hậu.
Ví dụ 2: Thờ
cúng đức Phật Thích Ca Mâu
Ni là để tưởng
nhớ công lao của người
đã tìm ra chân lý, giúp con người
thoát bốn sự đau khổ của kiếp làm người. Đó là thờ cúng đúng chánh pháp. Còn
ngược lại, thờ cúng Ngài để Ngài phù hộ cho tai qua, nạn khỏi, bịnh tật tiêu trừ,
thì đó là thờ cúng không đúng chánh pháp, là mê tín, lạc hậu. Đó là thờ cúng
theo kiểu Đại thừa, biến chùa, nơi tu hành của tăng, ni và cư sĩ, trở thành nơi hành hương mê tín.
Thờ cúng
đúng chánh pháp là phải thờ cúng những nhân vật có thật, là những con người được
sanh ra và lớn lên trên hành tinh này, đã làm lợi ích cho gia đình, xã hội, tổ
quốc và loài người.
Thờ cúng
đúng chánh pháp không được thờ cúng những nhân vật huyền
thoại, những nhân vật tiểu thuyết, những nhân vật bịa đặt
ra như: Phật Di Lặc, Phật Di Đà, Quan Thế Âm, Thế Chí, Tề Thiên Đại Thánh, Sa
Tăng, Bát Giới, Nhiên Đăng Cổ Phật,
Tỳ Lô Giá Na
Phật, Phật Tỳ Bà
Thi, v.v... Tất cả những nhân vật này là những nhân vật
huyền thoại, tiểu
thuyết. Thờ cúng những
nhân vật này
là thờ cúng
mê tín. Cho dù thờ cúng
có thiêng cũng
chỉ do tâm của chúng
ta mà có thiêng,
chứ riêng các vị này chẳng có thiêng gì cả, vì nó là những nhân vật
không có thật.
Thần Sông,
Thần Núi, Thổ Công, Thổ Địa, Thần Hoàng, Bổn Cảnh, Thủy Long, Long Vương,
Hà Bá,
Diêm Vương, Ngọc
Hoàng, Thượng Đế, Nam
Tào, Bắc Đẩu,
v.v... đều là những
nhân vật giả tưởng không có thật.
Nếu thờ cúng những vị này là thờ
cúng mê tín, lạc
hậu, là thờ
cúng không đúng chánh pháp.
Sự thờ
cúng mê tín, không
đúng chánh pháp làm
hao tài, tốn của
mà không có ích
lợi gì cho mình, cho mọi
người, cho xã hội,
v.v... và không nói lên được ý nghĩa cao đẹp của lòng biết ơn sâu xa của chúng
ta, phải không
các bạn? Thờ
cúng như vậy là vô
minh, là ngu si,
bị người khác lừa
đảo làm tiền mà không biết, tức là tiền mất, tật mang.
Muốn thờ
cúng đúng chánh
pháp thì các con nên nhớ kỹ: “Bệnh tật, tai nạn là do hành
động thiếu đạo
đức làm khổ
mình, khổ người của
chúng ta tạo ra”. Nếu muốn
cho bệnh tật, tai nạn không xảy ra thì luôn luôn phải sống đúng đạo đức
làm người, không
làm khổ mình, khổ
người, chứ không
phải thờ cúng
mê tín, cầu khấn,
van xin với
Thánh, Thần, chư Phật, chư Bồ Tát mà tai
qua, nạn khỏi, bệnh tật
tiêu trừ được ư!
Thờ cúng
đúng chánh pháp,
trong tinh thần đạo lý, đạo
nghĩa, ân đức và lòng hiếu sinh làm người,
thì không được giết hại sinh
linh làm cỗ bàn linh đình. Ngày ấy, chỉ nên cúng tế hoa quả, thực phẩm
thực vật, tránh những sự khổ đau của
sinh linh, máu
đổ, thịt rơi của loài động
vật.
Có như vậy, thì ơn nghĩa của chúng ta đối với những người quá cố mới
tròn đầy nghĩa tình đạo lý làm người.
Ngày ấy, nếu
các con cúng tế bằng sự giết hại sinh
linh, làm cỗ bàn linh đình, tiếng
kêu la đau đớn của
loài vật trong
tuyệt vọng, trước
những lưỡi dao sắc
bén của những
con người ác độc,
những sự giãy giụa, run rẩy của loài vật để mong thoát chết
nào có được
đâu. Đôi mắt
chúng long lanh nhìn vào những con người, như tha thiết cầu
xin tha
cho mạng sống. Nhưng con người
như vô tình, nào để ý đến. Họ chỉ biết
ăn uống, nhậu nhẹt vui chơi thỏa thích mà thôi.
Đạo đức ân
nghĩa không thể lấy sự giết hại, lấy
sự chết chóc
và lấy sự đau
khổ của
sinh linh mà nói
lên được ân
nghĩa sao? Đạo đức ân nghĩa thì phải lấy sự an vui, hạnh phúc của
muôn loài, dâng lên cúng tế những bậc tiên hiền, thánh đức, tổ tiên, ông bà,
cha mẹ của chúng ta, thì mới có
ý nghĩa tỏ hết lòng
tri ân chân thành. Đó là sự thờ cúng đúng chánh pháp, nên ghi nhớ và cố
gắng nhẫn nhục, tùy thuận, vui lòng
mà thực hành
cho đúng chánh
pháp của Phật, để mang đầy
đủ ý nghĩa cao đẹp
của người đệ tử Phật, phải không
hỡi các con?
Đến đây, Thầy
xin dừng bút, kính lời thăm và chúc các bạn vui, mạnh,
tu
tập xả tâm tốt, và sống một đời sống đạo đức làm người không
làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả
chúng sanh.
GỬI HÀI CỐT,
CHÔN CẤT TRONG KHUÔN VIÊN CHÙA
Hỏi:
Kính thưa Thầy, người con báo hiếu đưa
xác hay hài cốt người thân về
chùa có lợi ích gì? Quý Thầy
trong chùa nhận hài cốt và
an táng trong đất chùa có lợi ích
gì?
Chúng con xin
Thầy từ bi chỉ dạy
cho chúng con được rõ.
Đáp: Theo phong tục mê tín của
dân tộc Việt Nam xuất phát từ trong các chùa, cho rằng
người chết được chôn trong đất chùa, hoặc gửi nắm tro tàn trong
tháp hài cốt, hằng ngày
linh hồn sẽ được nghe
kinh, nhờ đó được
siêu thoát lên
cõi Cực Lạc, Thiên Đàng... Do lòng thương yêu và sự hiếu hạnh, khiến cho
người ta không còn sáng suốt, nên nghe quý
thầy, quý cô
trong chùa bảo sao làm
vậy, chứ không
có tư duy, suy nghĩ
chín chắn. Vì thế, sự tin tưởng
thiếu thực tế, mơ
hồ, không trí tuệ của một số phật tử đã làm giàu cho các chùa, và biến các chùa
trở thành nhà mồ, trở thành một nơi sinh hoạt mê tín, chứ không còn là nơi tu
hành của tăng, ni và nam, nữ cư sĩ.
Ở thành phố
đất hẹp người đông, vì thế chùa muốn
kinh doanh làm tiền
phật tử bằng sự lừa đảo mê tín như chúng tôi đã nói ở trên.
Chùa nào hiện giờ cũng xây tháp hài cốt. Khi có thân nhân chết, người ta đem
thiêu xác gửi vào chùa, và khi
gửi nắm
tro tàn như vậy
thì phải tốn bao nhiêu tiền đóng vào, và còn phải cúng dường
tiền cho chùa rất nhiều hằng năm. Nếu thân nhân không cúng dường
tiền thì hũ hài cốt ấy sẽ bị dẹp vào chỗ
khuất lấp, còn
ai cúng dường
tiền nhiều thì hũ hài cốt sẽ được để trên chỗ sang trọng
trong tháp.
Trong chùa, các Thầy thường bảo nhau: “Tháp hài cốt
là núi tiền, là những mẩu ruộng mầu mỡ xài
hoài không hết!”.
Đúng vậy, nhà
chùa hiện giờ lấy
hài cốt của
thân nhân phật tử làm con tin, để
làm tiền một
cách phi nhân
nghĩa, phi đạo đức.
Ví dụ:
Nhà chùa muốn
làm một việc
gì thì nhắm vào những phật tử có
gửi hài cốt hoặc chôn thân nhân trong
đất chùa, họ
kêu gọi đóng
góp làm từ thiện,
hoặc xây cất chùa và bất cứ một
việc gì trong chùa.
Nghe kinh được siêu
thoát về Cực Lạc, Thiên Đàng đâu không thấy, mà chỉ thấy những
người còn sống phải gánh một gánh nặng của tôn giáo mê tín. Cho nên chùa nào có
đất rộng làm nghĩa địa, hoặc xây tháp hài cốt là chùa đó giàu to, giàu mà không
phí sức lao động chút
nào cả. Như
các con đã thấy,
tệ nạn lừa đảo phật tử hiện
giờ trong các chùa rất lộ liễu.
Bây giờ, Thầy
sẽ hỏi quý phật tử, quý vị cứ vui lòng nói thẳng, có sao nói vậy, đừng tự dối
mình:
Hiện giờ,
quý phật tử thường đến
chùa không những nghe thuyết pháp
mà còn ngồi thiền, tụng
kinh, niệm Phật,
niệm chú, lạy hồng danh
sám hối, v.v... thế mà quý vị có thấy ai đã được lên Thiên Đàng,
Cực Lạc chưa?
Có thấy hết khổ
chưa? Có
thấy sự giải
thoát chưa? Quý vị cứ thành thật trả lời xem.
Trong lúc
quý vị còn sống mà
còn chưa biết được Cực Lạc, Thiên
Đàng ở đâu? Có hay không có? Huống là người chết, họ còn nghe thấy được những gì. Nếu quả
chăng nghe kinh
mà được sanh về Cực Lạc, Thiên
Đàng, thì người ta tu làm gì cho cực khổ phải không quý vị? Đó là những
mánh khóe lừa
đảo của kinh
sách Đại thừa, chúng ta nên cảnh giác.
Với tinh thần
tình cảm đạo nghĩa của cuộc sống dân tộc Việt Nam: “Sống cái nhà, thác cái mồ”, người
sống dù nghèo
hay giàu đều phải có một ngôi nhà, dù là nhà tranh vách lá,
chòi, lều... cho đến nhà lầu, vila, biệt thự... cũng vẫn là một cái nhà mà
thôi. Vì đạo nghĩa làm người, nên khi chết
còn lại nắm
xương hoặc nắm tro tàn,
người ta xây một ngôi mộ nho nhỏ đủ để vùi lấp nắm xương và nắm
tro trong lòng đất mẹ quê
hương, để đánh dấu
ghi khắc một kỷ niệm
thăng trầm của một đời người.
Nơi đây là để ghi
nhớ lại cho con cháu, cho người
sau một ân nghĩa
khó quên. Chứ người
chết còn gì nữa, chết
là mất đi một
kiếp người. Nơi
đây là nơi để cho con cháu
tập hợp, nhắc lại những thành
tích của tổ
tiên, ông bà, cha mẹ. Nơi đây
là nơi để cho con cháu đừng quên
nắm xương tàn
của những người
thân thương.
Mỗi năm chỉ có một lần về thăm mồ mả tổ
tiên, ông bà,
cha mẹ, là chúng
tôi cảm thấy
có một điều gì thương
nhớ bùi ngùi
trong tâm hồn của chúng tôi. Bởi vậy, đối với người Việt
Nam có một tình nghĩa sâu sắc khó quên, những nấm mồ của tổ
tiên, ông bà,
cha mẹ còn đó
là tình cảm con người không bao
giờ phai nhòa.
Có những
dân tộc khi chết
đi, họ đem thiêu đốt
và lấy tro đem đổ
xuống biển, bảo rằng đem tro đổ xuống biển cho mát mẻ. Thế khi
thiêu xác sao không bảo rằng nóng? Việc an táng này có lợi nhưng cũng có hại. Lợi là con cháu khỏi quét mả (tảo
mộ), hại là lòng người ân nghĩa dễ quên, con cháu sau này không còn chỗ để nhớ
tưởng tổ tiên, ông bà, cha mẹ,
vì đã ném tro xuống
biển làm ô nhiễm
môi trường sống.
Như chúng ta
đã biết, trên hành tinh này con
người có nhiều kiểu an táng, tùy theo bản năng,
tình cảm của mỗi
dân tộc nên chia ra làm bốn cách an táng:
1- Địa táng
2- Hỏa táng
3- Thủy táng
4- Điểu táng
Những dân tộc
có tình cảm sâu xa như dân tộc Việt Nam, Trung Hoa thì địa táng, xây mồ mả giữ
gìn nơi an nghỉ cuối cùng của những người thân thương của mình.
Những dân tộc ít tình cảm
hơn như dân tộc
Campuchia thì hỏa táng lấy tro đựng
trong một cái ghè để dưới gốc cây
lâm vồ, giống như cây đa
ở nước chúng
ta. Người Campuchia để tro hài cốt của ông bà cha mẹ như vậy rất
thiếu vệ sinh, gây ra môi trường
ô nhiễm, khiến
cho con người dễ bịnh đau.
Những dân tộc ít tình cảm
hơn nữa như
dân tộc Tây Tạng thì họ điểu táng, khi người chết, họ đem vào rừng cắt
ra từng miếng thịt nhỏ, quăng ném khắp nơi để cho loài chim bay đến ăn thịt.
Cách thức
điểu táng gây
ra môi trường
ô nhiễm ghê gớm,
mùi tanh, hôi,
thối bốc ra khắp cả
một vùng rừng
núi, khiến cho không
ai dám đến nơi
đó. Tục lệ điểu táng
là một việc
làm thiếu vệ sinh, gây ô nhiễm, khiến mọi người dễ sanh bịnh tật khổ
đau.
Thủy táng là
những người dân sống trên sông nước, họ không có địa táng, hỏa táng hoặc điểu
táng, khi có người chết, họ an táng bằng cách neo vào quan tài một tảng đá to, dùng
thuyền chở ra giữa
dòng sông rồi họ dứt
dây, quan tài từ từ chìm
xuống đáy sông.
Lại có một số người
sống ven biển như dân tộc Đại Hàn, người chết họ đem thiêu xác, rồi lấy
tro đổ xuống biển,
đó cũng là loại
thủy táng, thủy
táng bằng tro.
Loại thủy táng nào cũng thiếu vệ
sinh, gây ra môi trường ô nhiễm cho cuộc sống của con người.
Trong bốn loại an
táng, thì loại địa
táng là tình cảm thiêng
liêng nhất của
loài người, vì không
thấy thi thể của
người thân của
mình bị hủy hoại một cách tàn nhẫn.
Vả lại, địa táng còn lưu lại dấu
tích sau cùng để con
cháu tưởng nhớ,
khó quên tổ tiên
dòng giống, duy
trì và truyền thống một nền đạo đức
ân nghĩa sâu dày.
Địa táng là
một sự giữ gìn vệ sinh môi trường sống rất tốt,
nhưng nó không
được trọn vẹn vệ
sinh bằng hỏa
táng cộng địa
táng. Nhưng hỏa táng
thì tình cảm thiêng
liêng của con
người không cho phép chúng ta làm, và
chúng ta không thể không đau lòng được trước cảnh thiêu xác người thân.
Nếu hỏa
táng đem tro hài cốt
người thân vào chùa, điều này có 4 cái hại:
1- Mê tín
(nghe kinh và siêu thoát).
2- Thiếu vệ
sinh môi trường,
vì nắm tro tàn vẫn
còn bốc mùi
hôi, khét khó chịu, và để khơi khơi
trên bàn thờ tỏa ra
mùi uế trược,
bất tịnh ghê gớm.
3- Tốn hao
tiền bạc, phải cúng tế trong nhà chùa,
nhà chùa lợi dụng
tro hài cốt kêu gọi
đóng góp mọi thứ khi chùa cần xây dựng, làm từ thiện, hoặc tổ chức cúng
tế, lễ lộc, v.v...
4- Nắm tro tàn
hài cốt của
người thân là con
tin của nhà chùa để họ
làm tiền phật tử, nếu phật
tử nào không
có tiền cúng
chùa thì tro hài cốt ấy được đẩy
lui vào hốc tháp, có khi bị dẹp bỏ, nếu con cháu không cúng dường tiền cho
chùa.
Nấm mồ
trong đất chùa cũng vậy, cũng chỉ là con tin để chùa làm tiền mà thôi. Vì
thế, chùa có mả mồ nhiều,
có tháp tro hài
cốt to thì chùa
ấy giàu, quý phật tử có thấy điều này không?
Quý vị
có thân nhân
được chôn trong
đất chùa, thì quý vị đừng lấy
làm vinh hạnh,
nhà chùa họ kinh doanh lừa đảo
quý phật tử
đó. Bán đất chôn thì quá đắt (tấc
đất tấc vàng), chứ họ chẳng cho quý vị đồng nào cả. Họ cắt cổ
quý vị tới chết
chưa thôi, mà còn cắt cổ con
cháu của quý vị nữa, được
đem tro hài cốt
vào chùa thì phải có một số tiền mặt, và từ đó về sau,
khi nhà chùa có bất cứ chuyện lớn chuyện nhỏ nào, thì họ cũng đều kêu quý phật
tử.
Quý vị đừng
tưởng rằng, thân nhân được chôn trong đất chùa, hoặc nắm tro tàn hài cốt được đặt
vào ngôi tháp xinh đẹp của chùa là linh
hồn được nghe kinh, được siêu thoát về
cõi Cực Lạc, Thiên Đàng, Niết Bàn, v.v... Không chắc đâu quý vị ạ! Điều này quý
vị đã bị lừa đảo lọt vào mê tín. Một đời tu hành của chúng tôi hết sức giữ gìn
giới luật nghiêm túc, thực
hiện pháp ly dục,
ly bất thiện pháp không
lúc nào nghỉ
ngơi, thế mà
chúng tôi đi tìm cái Thiên Đàng, Cực Lạc, Niết Bàn... cũng
chẳng thấy ở
đâu mà có, chỉ có là ở chỗ trạng thái tâm bất động trước các
pháp lúc chúng tôi còn đang sống. Còn
người chết rồi thì còn
chi nữa mà
nghe kinh, mà siêu thoát. Chết rồi chỉ
còn nghiệp lực
tái sanh luân hồi
vào thân nghiệp
khác còn chi
nữa. Nắm xương tàn
trong lòng đất
và nắm tro tàn
trong tháp còn có
nghĩa lý gì trong cuộc sống này nữa.
Thôi hết
rồi, nếu lúc sống không
tu thì đến khi chết rồi còn gì mà nghe kinh, siêu thoát
được.
Chúng tôi
xin góp ý với quý phật tử, chúng ta là dân Việt Nam, với
tinh thần đạo đức ân nghĩa sâu dày và
tình cảm khó quên với truyền
thống: “Cây có cội nước có
nguồn”, hay: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ người đào
giếng”. Dân tộc Việt Nam có cái nhìn sự sống và chết không khác: “sống
cái nhà, thác
cái mồ”. Với
tinh thần truyền thống đạo lý này, cụ Nguyễn Du nói:
“Tiết thanh
minh trong lúc tháng ba, Chị em ta rủ nhau đi tảo mộ”
(Thanh minh trong tiết tháng ba, Lễ là tảo mộ, hội
là đạp thanh)
Đó là một tục
lệ truyền thống tốt đẹp của con người. Hằng năm đến ngày này, mọi người đều về
thăm và quét dọn sạch sẽ mồ mả của tổ tiên, ông bà, cha mẹ... đó là một hành động
tình nghĩa đạo đức làm người.
Làm người không
thể không có được đạo nghĩa này, nếu không có đạo nghĩa này thì không xứng đáng làm người. Nếu đã
thiêu xác cha mẹ gửi vô tháp nhà chùa, muốn vào thăm thì quý vị cũng phải có lễ
lộc cúng bái... chứ không lẽ đi
không coi sao được.
Và thăm như vậy
thì đâu còn có nghĩa là đi tảo mộ.
Đi vào
chùa thăm tro
hài cốt của
cha mẹ không còn
ý nghĩa như
đi tảo mộ
ngày xưa nữa, nó chỉ có nghĩa là
đi cúng Phật, lễ bái mà thôi. Ngày tảo mộ là ngày con cháu tụ họp về đông đủ,
nói lên tinh thần đạo đức ân nghĩa, khiến cho giòng họ
không còn xa lạ,
con cháu gần gũi với
nhau hơn,
do đó gia tộc
có một tinh thần
đoàn kết chặt chẽ.
Ngày nay, đất
hẹp người đông, nên người ta thiêu
xác, lấy tro bỏ
vào hũ, đem gửi
vào chùa làm mất ý nghĩa truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam. Theo chúng tôi thiết nghĩ, nhà chùa là nơi thanh tịnh, trang nghiêm để
tu hành, chứ không phải nghĩa địa, nhà mồ, mà người tín đồ có thể đem sự
bất tịnh vào
đó, làm cho ô
uế môi trường sống chung của chỗ tu hành.
Thành phố hiện
giờ có rất nhiều chùa, mỗi chùa đều có nơi để tro hài cốt người chết, mùi hôi của chất
tro này bốc lên
và lan rộng
khắp cùng trong thành
phố, làm cho bầu
không khí ở đây
rất ô nhiễm, khiến cho người dân thành phố dễ bịnh hơn
dân chúng ở
nông thôn. Ở
thành phố chỉ có
nhà chùa thì được
lợi, mà dân
thành phố thì chịu thiệt
thòi. Theo sự suy
nghĩ của
chúng tôi, nhà chùa nên tổ chức một nghĩa địa cách xa thành phố,
do phật tử tại
chùa hùn nhau
mua một khu đất, rồi tất cả thân nhân của các phật tử chùa đó chết đều được đem về
chôn cất. Nhưng nhà chùa không được bán, không được lấy
tiền dù ít dù nhiều của một người nào cả, vì đó là khu đất chung của phật tử, của
chùa đó. Cũng giống như bên đạo Thiên Chúa, nơi nhà thờ nào họ cũng tổ chức một
nghĩa địa, để tất cả những tín đồ
chết đều được đem vào
đó chôn cất
như một tập thể
mồ mả của tín đồ Thiên Chúa.
Nhà chùa
chúng ta cũng nên tổ chức như vậy, nhưng
không được bán lấy tiền
như trên chúng tôi đã nói, bán lấy tiền là làm mất
ý nghĩa đạo lý của tôn
giáo. Các nhà
chùa ở miền Bắc đã làm
sai, không đúng tinh thần đạo đức làm người, đến người chết
mà chúng ta
không dành cho họ
một tấc đất để gửi nắm
xương tàn hay sao? Vậy mà các
chùa sao nỡ nhẫn
tâm, làm tiền
người chết sao đành? Để xác định
điều này, người chôn trong đất chùa
cũng như gửi tro hài cốt vào
tháp trong chùa thì chẳng
có ích lợi gì về
mặt tôn giáo,
mà còn có hại
là con cháu phải tốn tiền bạc
đủ mọi thứ, nếu
nhà chùa kêu
đóng góp, thì chắc
quý vị phật tử không thể nào từ
chối được.
Theo Phật
giáo Nguyên Thủy, sống không tu tập
ngăn ác, diệt
ác pháp, đến
khi chết chôn trong đất chùa cũng
như chôn trong các nghĩa địa khác.
Chôn và gửi
tro hài cốt trong
đất chùa là làm
con tin cho nhà chùa. Người
con hiếu chôn hay gửi tro hài cốt
cha mẹ vào chùa để được theo Phật nghe kinh, siêu thoát là điều mê tín.
Nhà chùa nhận
chôn và tro hài cốt vào đất chùa là một
lợi ích rất lớn, đó là kinh doanh hài cốt con người
để làm giàu bất chánh,
đây là cái sai thứ nhất.
Nhà chùa đã
biến nơi tu hành thành nơi nhà mồ,
nghĩa địa, nơi thực hiện sự mê tín
của dân gian, đây là cái sai thứ hai.
Tóm lại, vì
lợi ích vệ sinh trong môi trường sống
chung và đạo
nghĩa làm người
trong tinh
thần dân tộc Việt
Nam, “sống cái
nhà thác cái mồ”,
thì mỗi nhà chùa đều nên
có một nghĩa
địa riêng, cách xa nơi sinh hoạt tu học của tăng ni và cư sĩ. Nơi đó, tất
cả tín đồ Phật giáo khi chết đều được an
táng mà không
phải tốn hao một
đồng một xu nào cả.
CHƯƠNG IV:
SINH ĐẺ,
TANG MA,
CẬN TỬ NGHIỆP
TỤNG KINH ĐỊA
TẠNG, SANH, TỬ ĐỀU ĐƯỢC NHƯ Ý
Hỏi:
Kính thưa Thầy, trong kinh Địa Tạng có
nói, khi
sanh nở không được
sát hại để tìm
vật bổ dưỡng cho sản mẫu ăn, mà phải biết trai giới, chí thành trì tụng kinh
này, hoặc niệm danh hiệu ngài Địa Tạng một
muôn biến, v.v... Đại
khái là khi sanh cũng
như lúc tử...
đều được lợi
ích như
ý...
Như vậy, chúng con thành tâm trai giới và trì tụng kinh Địa
Tạng cùng niệm
danh hiệu của Ngài
một muôn biến,
để cầu cho con của
chúng con đặng thông minh
được không? Và
như vậy thì sự tương ưng nhân quả sẽ giải
thích như thế nào? Và kinh Địa Tạng
có phải là kinh Phật không? Chúng con cúi xin Thầy khai thị.
Đáp: Kinh Địa Tạng
là một loại
kinh mê tín của Đại thừa, những
điều trong kinh này dạy đều là ảo tưởng,
không thực như:
“Muốn sinh con dễ nuôi,
kiếp sau không sinh
làm thân gái,
không sinh vào hàng bần tiện,
tướng hảo xinh đẹp...
hoặc đem
chén nước trong để
trước tượng một ngày một
đêm bưng lấy uống, một phen ngủ
dậy đặng thông minh,
v.v... rồi kinh ấy dạy
không được sát hại...
phải chí thành
cúng dường trì tụng kinh Địa Tạng cùng tán thán công đức...
và niệm danh hiệu
Ngài Địa Tạng một
muôn biến
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!