Oai nghi tế hạnh của một
người tu sĩ
Phật giáo rất cần
thiết cho đời sống phạm hạnh
và chính những
oai nghi tế hạnh ấy đã
giúp cho người tu sĩ
tỉnh thức hơn để ly dục ly ác pháp, để ngăn và diệt tất cả tham
ưu trên thân, thọ, tâm và pháp. Do tu tập oai nghi tế hạnh để ly dục
ly ác
pháp, tâm mới được hoàn toàn
thanh tịnh, vì thế nó mới được gọi là tu
tập thiền xả tâm. Muốn tu tập thiền xả tâm thì phải nương vào những oai nghi mà
đức Phật đã dạy như dưới đây:
Oai nghi thứ
nhất đức Phật dạy: “Khi đi biết mình
đi”. Vậy
oai nghi thứ nhất đi biết
mình đi như thế nào?
Đi phải biết
mình đi, nhưng nếu biết mình đi suông
thì không có ý
nghĩa gì của sự giải thoát mà đi trong chánh niệm, đi trong
chánh niệm, tức là đi trong thiện pháp. Vậy đi trong thiện pháp là đi như thế
nào?
Đi trong
thiện pháp là đi không dậm
đạp lên chúng sanh,
là đi trong
tâm ly dục
ly ác pháp. Đi như vậy mới gọi là
đi biết mình đi.
Đi biết
mình đi là biết từng
bước đi của mình,
biết rõ ràng
khi dỡ chân lên
cũng như lúc để chân xuống, tâm tỉnh thức theo dõi từng
hành động của
chân bước. Bước đi phải nhẹ nhàng thoải mái không chậm lắm, nhưng cũng không
nhanh, đi vừa kịp
tâm chú
ý bước chân đi, đi khoan thai như người vô sự, đi
như người đi nhàn du nhưng đều biết rất rõ bước đi.
Người đệ tử Phật dù
tu sĩ hay cư sĩ khi đi đều phải tỉnh
thức trên bước
đi. Đi biết
mình đi rất rõ ràng. Đó là phương pháp tu tập tỉnh thức để tâm được tỉnh
thức. Tâm được tỉnh thức là có lợi ích
rất lớn. Nhờ
tu tập tỉnh
thức đi mình biết
mình đi, đó
là hành động
đi nhưng tỉnh thức
trên hành động
đi được thì sẽ tỉnh thức từng tâm niệm được. Tỉnh thức từng
tâm niệm được thì xả bỏ tất cả
ác pháp và tâm
tham, sân, si dễ dàng.
Tỉnh thức là
pháp tu tập đầu tiên của đạo Phật:
“Khi đi biết mình đi‛.
Đó là Chánh niệm tỉnh giác định, một loại định tâm
trên bước đi; một loại định
phá hôn trầm,
thùy miên, vô ký rất tuyệt
vời, nếu người
nào chịu khó siêng
năng tu tập hằng ngày
thì sức tỉnh thức càng ngày càng
gia tăng, sự tu tập càng ngày càng tiến bộ, sự
ly dục ly
ác pháp càng ngày càng xả ly rất nhiều. Nhờ đó, tâm
thanh thản, an lạc và vô sự
càng lúc càng chứng đạt,
trạng thái ấy càng
chiếm nhiều thời
gian dài
hơn.
Muốn tu tập chứng
đạt giải thoát
thì không gì hơn là lo
tu tập Chánh
Niệm Tỉnh Giác như đức Phật đã dạy:
“Khi đi biết mình
đi‛.
Oai nghi
thứ hai đức
Phật dạy: ‚Khi đứng biết mình đứng‛. Vậy đứng biết
mình đứng như thế nào?
Đứng biết
mình đứng, tức là đứng ngay thẳng biết mình đứng ngay thẳng, đứng cong vòng biết
mình đứng cong vòng, đứng một chân biết mình
đứng một chân
hay đứng nghiêng biết
mình đứng nghiêng, hoặc
đứng ẹo biết mình
đứng ẹo v.v.. Đứng ở vị trí nào
biết vị trí
ấy.
Ví dụ: Đứng
trước cổng nhà
người biết đứng trước cổng nhà
người hay đứng trước gian hàng người ta
buôn bán thì biết
đứng trước gian hàng
người ta buôn
bán, hay đứng ở chỗ có người khác phái, đứng chỗ người điên,
người hung dữ, chó dữ, bò dữ v.v..
đều biết rất rõ ràng.
Cho
nên, khi đứng biết
mình đứng, đứng đúng chỗ, đúng nơi, đúng lúc v.v.. Khi đứng
yên
biết thân
mình đứng yên, biết thân mình đứng ngay
thẳng, mắt nhìn
xuống cách chỗ đứng
2m50, biết
thân mình rung
động theo từng nhịp hơi thở ra vào rõ ràng.
Khi đứng yên mắt không
nhìn qua, nhìn lại, không liếc dọc,
liếc ngang chỉ nhìn về phía trước, chỉ đứng
biết mình đứng, đứng trong sự thân rung động của hơi thở. Người tu sĩ hay người
cư sĩ Phật giáo mà đứng được như vậy thì mới gọi đứng biết mình đứng.
Oai nghi
thứ ba đức Phật dạy: ‚Khi liếc ngó
hai bên biết mình liếc
ngó hai bên‛. Như quý vị đã biết
oai nghi thứ nhất đức Phật dạy về thân
hành hai chân của quý vị
là đi và đứng mà quý vị đã được học
xong. Còn oai nghi thứ ba đức Phật dạy thân hành mắt của quý vị. Khi quý vị
nhìn hay liếc ngó
hai bên thì phải biết
mình liếc ngó
hai bên. Như vậy nhìn
liếc ngó hai bên biết mình
nhìn liếc ngó hai bên để làm gì?
Nhìn liếc ngó hai bên biết mình nhìn
liếc ngó hai bên tức là tỉnh thức trong từng hành động của mắt, mắt
nhìn mắt liếc đều
biết rất rõ mắt nhìn, mắt liếc trong chánh niệm, tức là nhìn liếc ngó một cách ngay thẳng chánh trực,
không nhìn chăm
chăm vào mặt
người khác
làm cho họ ngại
ngùng, không liếc
xéo liếc ngang người làm cho người
khác khó chịu. Cho nên, một người
tu theo Phật
giáo bao giờ cũng giữ
mắt trong chánh
niệm, liếc ngó
nhìn vật khác người
khác đều mang lại một
ánh mắt hiền dịu với
một lòng yêu
thương và tha thứ
những lỗi lầm của người khác.
Muốn được tỉnh
thức trong từng cái nhìn, cái ngó, cái liếc thì chúng
ta phải tu tập tỉnh thức với đôi mắt. Mắt làm điều gì chúng
ta nên biết mắt đang
làm điều đó.
Đó là chúng
ta đang tu tập tỉnh
thức của mắt. Tập tỉnh
thức của mắt tức là tu tập tỉnh giác. Nhờ tu tập tỉnh giác như vậy nên
khi nhìn mọi vật chúng ta không bị dính
mắc chấp đắm, không bị lôi cuốn vào ác pháp và lòng ham muốn; nhờ tu tập tỉnh
thức như vậy nên tâm chúng ta luôn luôn được thanh thản,
an lạc và vô sự. Vì thế, chúng
ta nhớ ghi lời dạy này để áp dụng
vào đời
sống của chúng ta hằng ngày:
‚Khi liếc ngó hai bên biết mình liếc ngó hai bên‛.
Oai nghi
thứ tư đức Phật dạy:
‚Khi co, duỗi, cúi, ngước‛. Vậy
khi co, duỗi, cúi, ngước là những hành động gì của thân?
Ở đây đức Phật dạy về thân hành: co là co tay,
co chân; duỗi là duỗi tay, duỗi chân;
cúi là cúi đầu, cúi cổ; ngước là ngước đầu, ngước cổ.
Ở đây đức Phật dạy tỉnh thức trong mỗi
thân hành từ
cái co tay cũng
phải biết co tay; từ cái co
chân cũng phải
biết co chân, biết rất rõ
ràng và cụ thể từng
hành động của
thân không được bỏ sót, không được quên hành động nào. Khi duỗi
tay duỗi chân
cũng đều biết rất rõ
ràng. Đây là phần hoạt động của
tay chân còn về phần đầu cổ thì đức
Phật dạy cũng không
bỏ sót một
hành động nào,
khi cúi đầu cúi cổ
cũng như khi ngước
đầu ngước cổ đều
phải tỉnh thức không được quên, phải luôn luôn nhớ từng hành động cúi ngước. Bởi
co, duỗi, cúi, ngước là những hành động của thân nên đức Phật gọi là pháp Thân
Hành Niệm tức là lấy hành động của thân làm niệm để tu tập tỉnh thức, để
tu tập định tỉnh,
để tu tập Tứ Thần
Túc.
Các pháp
môn tu hành
theo Phật giáo phần
nhiều là lấy
thân hành làm
pháp tu tập cho nên,
co duỗi cúi ngước đều
là pháp môn tu
hành của Phật giáo. Vì vậy, người nào quyết tu để làm chủ sanh, già, bệnh, chết
và chấm dứt luân hồi ngoài
niệm Thân Hành
thì chẳng có
pháp nào niệm
hơn được. Cho nên hành động cúi, ngước, co, duỗi
là pháp môn
tu hành của quý vị. Quý vị hãy nhớ kỹ đừng quên pháp
môn này, nó là chiếc phao
đưa quý vị qua bờ
bên kia. Vì thân
hành lúc nào
cũng có, nên sự tu tập của quý vị sẽ được liên tục không có
gián đoạn, nhờ thế sức tỉnh của
quý vị rất
cao. Sức tỉnh giác rất cao giúp quý vị xả tâm ly dục ly ác pháp dễ
dàng. Tâm ly dục
ly ác
pháp sạch thì quý vị chứng đạt chân lí. Cho nên, Thân Hành Niệm là
pháp giúp quý vị từ bắt đầu
vào đạo cho đến khi chứng đạo.
Oai nghi thứ
năm đức Phật dạy: ‚Khi đắp y, mang bát‛. Đắp y, mang bát nghĩa là gì?
Đắp y tức là
mặc áo cà sa, áo vấn theo người Ấn Độ mặc; mang
bát tức là
mang một cái thố có nắp đậy dùng
để đựng cơm và thực phẩm. Cái thố này được đặt trong một cái túi bằng vải nên
khi có đi đâu thì mang đi. Nghĩa của câu
này là khi mặc
áo phải biết
rõ từng hành động
đang mặc áo; khi mang
bát đi xin cơm cũng
vậy đều phải biết rõ ràng từng hành động mang bát từ bắt đầu đi khất thực
cho đến khi ngồi lại ăn cơm
không được quên, không được nhớ chuyện khác chỉ nhớ rõ từ hành
động
của thân
mang bát đi khất thực cho đến lúc về ăn cơm như trên đã nói.
Đây là một
phương pháp tu tập tỉnh thức trên thân hành niệm của quý vị. Quý vị phải
siêng năng tập
ngay trên thân
hành mặc y mang bát, có nghĩa là quý vị đừng quên những hành động nhỏ nhặt
nào trên thân của quý vị. Quý vị đều phải tu tập trên đó. Nhờ tu tập
trên thân hành đó sức tỉnh thức của quý
vị càng lúc càng tăng. Sức tỉnh thức của quý vị càng
tăng thì xả tâm càng rốt ráo. Xả tâm
càng rốt ráo thì con đường tu tập của quý vị sẽ đến
nơi đến chốn.
Như vậy tu
theo Phật giáo chỉ có tu theo thân hành niệm của mình mà thôi, nhờ có thân hành niệm mà thân hành
niệm lúc nào cũng có trong thân nên sự tu tập tỉnh thức rất dễ dàng không
có khó khăn
không có mệt nhọc. Sức tỉnh
thức đạt được
thì tâm định tỉnh đâu
còn khó khăn. Tâm định tỉnh đạt được thì thiền định có khó gì mà không nhập
được.
Oai nghi thứ
sáu đức Phật dạy: Khi ăn, uống thuốc men đều phải nhẹ nhàng, phù hợp với oai
nghi, phải khéo
tìm phương tiện từ bỏ năm ấm cái,
cho đến đứng, ngồi, nằm, thức, ngủ, nói năng hay im lặng đều
phải nhiếp
tâm không cho tán loạn. Ấy là những
oai nghi mà
các thầy tỳ kheo cần
phải giữ
gìn đầy đủ‛. Lời dạy
thứ sáu này rất rõ ràng trong tất cả thân hành của
mình, luôn luôn phải tỉnh thức từng hành động trong sinh hoạt hằng ngày của sự
sống.
Cho nên, phải
lưu ý từ hành động ăn uống hằng ngày đến uống thuốc thang trị bệnh đều phải nhẹ
nhàng vén khéo, ăn không chậm lắm mà
cũng không nhanh lắm, ăn như thế nào để vừa đủ quan sát từng hành động nhai nuốt một
cách cụ
thể rõ ràng
mà không bỏ
sót hành động nhai nuốt nào cả.
Đó là ăn uống trong oai nghi tế hạnh của người
tu sĩ, tức
là ăn uống trong
phạm hạnh. Ăn uống
trong phạm hạnh tức là ăn uống
luôn luôn loại trừ năm ấm cái không để năm ấm cái chi phối tâm mình.
Ví dụ: Ăn
uống còn lo cho
thân được đủ chất bổ dưỡng, được đầy đủ dưỡng chất vitamin A, B, C, D, E... đó là ăn
uống bị năm ấm cái chi phối. Vì thế đức Phật
dạy: ‚ăn uống
phải khéo tìm phương tiện từ bỏ năm
ấm cái‛. Trong vấn đề ăn uống chúng
ta quên lời Phật
dạy nên ăn uống đều lo bảo dưỡng thân ngũ ấm cho mập cho khỏe là sai. Trên bước
đường tu hành chúng ta rất
tâm đắc lời dạy
này: ‚Khi
ăn, uống thuốc
men đều phải nhẹ nhàng, phù hợp với
oai nghi, phải
khéo tìm phương tiện từ bỏ năm ấm cái‛. Không phải vì
cái thân
bổ khoẻ; không
phải uống thuốc
vì cái thân hết bệnh. Ăn uống và thuốc thang
là để giúp cho thân bình an, nhờ
có cái thân bình an mới tu tập
đúng chánh pháp của Phật,
nhờ tu tập đúng
chánh pháp của Phật mới
thoát khỏi kiếp sanh tử luân hồi đầy
muôn vàn sự khổ đau. Cho nên, lời dạy này quý vị hãy gắng
ghi vào trong lòng đứng quên.
Đức Phật nhắc
tiếp những hành động oai nghi về thân hành trong sự tu tập hằng ngày: “Cho đến đứng, ngồi,
nằm, thức, ngủ, nói năng hay
im lặng đều
phải nhiếp tâm không
cho tán loạn‛. Quý vị có
nghe lời dạy này không?
Khi đứng biết
mình đứng, đứng đúng vị trí đứng rất tỉnh
thức, biết rất rõ. Ngồi biết rất rõ tư thế mình
đang ngồi, ngồi trên ghế hay ngồi
xếp bằng, ngồi bán già hay kiết già, ngồi thẳng chân dưới đất hay ngồi trên
giường, ngồi dựa lưng trong vách hay ngồi không dựa lưng
trong vách đều biết rất rõ, ngồi có thoải
mái hay không thoải mái
v.v.. Nằm cũng
vậy, nằm ngữa, nằm
nghiêng, nằm sấp, nằm kiết tường
gối tay mặt hay gối tay
trái đều biết rất rõ
cách thức nằm. Người tu sĩ Phật giáo chỉ chọn cách nằm kiết tường là tốt nhất,
vì xưa kia đức Phật gọi nằm kiết tường
là nằm dáng
con sư tử. Người nằm biết mình nằm, biết
rõ mình nằm với
tư thế nào,
đó là tỉnh
thức trên sự nằm, còn quên không biết là thiếu tỉnh thức.
Khi thức phải
biết mình thức, thức đang nghĩ ngợi những
điều gì hay không nghĩ ngợi, đều phải biết rất rõ ràng, đó mới gọi là thức. Thức
mà không biết tâm mình đang nghĩ một điều
gì thì người ấy
chưa phải là người
đang thức mà người đang mê hay nói cách khác là người ấy đang chạy theo
dục lạc, danh, lợi, sắc, thực, thùy của thế gian.
Cho nên, thức
phải tỉnh thức hoàn toàn biết từng tâm niệm, từng cảm thọ khi xảy ra đều
biết ngay liền.
Ngủ phải biết
mình đang ngủ, hầu hết mọi người khi ngủ
không biết mình
đang ngủ, chỉ khi thức dậy mới biết
mình đang ngủ, đó là mê, vì vậy
tu tập như thế nào ngủ mà biết mình đang
ngủ thì đó mới
là hết mê.
Có đúng như vậy không quý vị?
Ngủ mà biết
mình đang ngủ là một điều khó, người không tu tập theo Phật giáo thì không làm
được điều này. Không làm được điều
này là người
chưa đủ sức tỉnh thức. Cho nên, người
tu tập theo
Phật giáo thường
tác ý câu:
‚Thân ngủ
tâm phải tỉnh
thức”, nhờ có tác
ý câu này nên thân nằm yên ngủ mà tâm vẫn tỉnh thức biết rõ thân đang ngủ.
Khi nói năng
mình phải biết
mình đang nói năng
điều gì. Nói thiện
hay nói ác, nói lời
ôn tồn,
nhã nhặn, êm dịu
hay nói lời hung dữ chửi
mắng, mạt sát, mạ lị người.
Biết rất rõ từng lời nói khi mình phát ngôn, nên khi phát ngôn không có phát
ngôn bừa bãi. Luôn luôn sử dụng lời
nói ái ngữ đến với mọi người.
Sống được với ngôn ngữ
như vậy mới gọi nói
năng biết mình nói năng.
Khi im lặng
biết mình im lặng nghĩa
là phải tỉnh thức
hoàn toàn lúc
nào cần im lặng
thì im lặng và
lúc nào cần
nói thì nói, không thì im
lặng, đáng nói
thì nói, không đáng
nói thì im lặng. Đó
là sự tỉnh
thức trong sự im
lặng mà đức Phật đã dạy: “Nói năng hay im lặng
đều phải nhiếp
tâm không cho tán loạn.
Ấy là những
oai nghi mà các
thầy tỳ kheo cần phải giữ gìn đầy đủ‛. Đúng vậy, người đệ tử của Phật phải
tu tập tỉnh thức
trong các oai
nghi như: đi, đứng, nằm,
ngồi, liếc, ngó, co, duỗi,
mặc y, mang bát,
ăn uống,
nói nín,
im lặng v.v..
đều phải trong
chánh niệm, có tỉnh
giác như vậy mới gọi
là đầy đủ oai nghi tế hạnh của một vị đệ tử Phật.
Ý NGHĨA VỀ BỘ SÁCH NHỮNG LỜI GỐC PHẬT DẠY
Kính thưa
các bậc tôn túc Tăng, Ni và quý Phật tử bốn phương!
Kính thưa
quý vị! Sau khi đọc
xong bộ sách Những Lời Phật Dạy
quý vị đã nghĩ gì về những lời Phật dạy trong bộ sách này?
Trước tiên
chúng tôi xin quý vị hãy bình tâm, tỉnh trí tư duy và lắng nghe những lời dạy
trong kinh sách nguyên thủy do Phật thuyết trong bộ sách này và những lời dạy
trong kinh sách phát triển do các Tổ biên
soạn.
Như quý vị
đã biết đức Phật dạy chúng ta một phương
pháp sống đạo đức
làm người để đem lại
cho chúng ta có một đời sống an vui
hạnh phúc, làm chủ bốn sự khổ đau của kiếp người: sinh,
già, bệnh, chết.
Nhất là sự
giao tiếp với mọi người bằng một đạo đức
nhân bản không làm khổ mình,
khổ người và khổ cả hai
(Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành hoặc ngăn ác diệt ác, sinh thiện tăng trưởng thiện). Một phương pháp sống
mang đến những lợi ích
thiết thực
cho loài người,
nếu ai sống
đúng pháp như lời đức Phật
đã dạy thì có
lợi ích ngay liền, sống được đến đâu
là có lợi ích đến đó. Hiện tại
trong đời này
đã có người
sống đúng đạo đức và làm chủ được bốn sự đau khổ: sanh, già, bệnh, chết,
đã chứng minh một cách cụ
thể rõ ràng; còn ngược lại
giáo pháp trong kinh sách phát
triển do các Tổ biên
soạn thì chắc quý vị đều biết rõ và chứng minh ngay cả bản thân của quý vị, gần suốt một đời người từng tu tập trong giáo pháp ấy mà bốn sự
đau khổ luôn luôn
làm cho quý vị chẳng
an. Có đúng như vậy không quý vị?
Suốt một thời
gian dài 2550 năm sau khi đức Phật thị tịch, giáo
pháp của Người
đã bị pha trộn và
thay đổi khiến
cho những thế hệ sau
và mãi mãi
về sau không
còn ai biết phương
pháp nào để sống
đạo đức không làm khổ mình,
khổ người và khổ cả hai, để làm
chủ bốn sự khổ đau của kiếp người.
Hôm nay,
chúng tôi ghi lại những
dòng chữ này là để cùng với quý vị
tâm sự và chia sẻ những nỗi mất
mát to lớn
cho đời sống tu sĩ
của mình
và cho các thế hệ tu
sĩ con cháu của chúng ta sau này.
Kính thưa
quý vị! Chúng
ta là những người con Phật đứng trước cảnh này
chúng ta phải làm gì? Làm những gì cho con cháu của chúng ta sau
này. Chúng ta hãy sáng
suốt và bình tĩnh, đừng kiến chấp mà phải nhìn thẳng một sự thật “GIÁO PHÁP NÀO LỢI ÍCH CHO
LOÀI NGƯỜI VÀ GIÁO PHÁP NÀO CÓ HẠI CHO CON NGƯỜI”. Vì sự sống
bình an và hạnh
phúc của loài người chúng ta mạnh
dạn thẳng thắn dựng cái đúng, dẹp bỏ
cái sai để
làm lợi ích
cho muôn người, cho sự sống trên hành tinh này.
Kính thưa các bậc tôn túc, Tăng Ni và quý Phật tử
bốn phương! Vì lợi ích cho nhiều thế hệ con cháu của chúng ta về sau đã, đang
và sẽ tu theo Phật giáo. Trách nhiệm bổn phận của những người
đi trước, chúng
ta thấy biết sự
thật sai
trái trong giáo
lý của Phật
giáo hiện giờ quá rõ ràng, không
đúng lời Phật dạy. Thế mà chúng ta im lặng, không dám nói, lại còn chấp nhận
cái sai, vô
tình làm ngơ để cho con cháu
của chúng ta lầm đường,
lạc lối, đã bỏ
cuộc đời, bao
công sức và tiền của để được những gì trong những giáo lý này.
Chúng ta biết rất
rõ tình trạng giáo
lý Phật giáo hiện nay sẽ đưa Phật giáo đi về đâu? Vậy mà
chúng ta không
dám nói ra những
sự
thật để
giúp đỡ cho những
người sau tu theo Phật giáo không còn lầm lạc thì thật là
tội nghiệp cho họ vô cùng.
Tuy không
nói ra chúng ta đã biết
khoa học ngày càng
phát triển mạnh mẽ và chứng
minh những sự thật trên
hành tinh sống này có
hay không có thế giới
siêu hình thì liệu chừng những
giáo lý trừu
tượng ấy còn
có tồn tại được hay không?
Kính thưa các bậc tôn túc và quý Phật tử khắp nơi
trên toàn cầu! Muốn đem lại những sự lợi ích thiết thực của Phật giáo cho con
cháu nhiều thế hệ của chúng ta sau này,
chúng tôi xin các bậc tôn
túc và quý Phật tử khắp nơi cùng với chúng tôi hãy siết chặt tay
nhau, đừng phân chia hệ phái
này, hệ phái khác;
mà phải xem nhau như con một nhà từ đức Phật Thích Ca Mâu Ni sinh ra; phải bình tĩnh sáng
suốt nhận xét rõ nền đạo đức nhân bản của Phật
giáo. Một nền đạo đức nhân bản của Phật
giáo sống không làm khổ mình, khổ người đem lại hạnh phúc
an vui cho loài người
rất tuyệt vời mà trên hành tinh sống này không có một
tôn giáo nào có được nền đạo đức lợi ích
lớn như vậy.
Ngày mai, nếu trên
hành tinh này còn có
một tôn
giáo tồn tại được
và được mọi người kính
trọng thì tôn giáo ấy là nền đạo đức nhân bản của
loài người. Còn tất cả những giáo lý
mê tín, trừu tượng, thần quyền,
ảo giác... sẽ bị khoa học làm
sáng tỏ thì những
giáo lý ấy rơi
rụng như lá vàng mùa thu và những tôn giáo ấy sẽ không còn đất đứng trên hành
tinh này. Nếu chúng ta không
sáng suốt cứ
theo lối mòn của
kinh sách phát triển
thì chúng tôi quyết
chắc rằng Phật giáo cũng không tồn tại. Phật giáo không tồn tại trên
hành tinh này là một điều thiệt thòi rất lớn cho loài người.
Kính thưa các bậc tôn túc và quý Phật tử khắp nơi
trên toàn cầu! Nếu ngay từ bây giờ
quý vị
không chuẩn bị dựng
lại nền
đạo đức nhân bản của Phật giáo mà
còn duy trì giáo pháp phát triển
thì chúng tôi e rằng
sẽ không còn thời gian kịp nữa.
Phật giáo đã
có sẵn nền đạo đức ấy. Vậy chúng ta là tín đồ của Phật giáo, chúng ta hãy buông xuống
những kiến chấp lầm lạc trong giáo lý Phật giáo hiện nay, để cùng
nhau chung lưng đấu cật,
tay nắm lấy
bàn tay cùng
xây dựng lại nền đạo đức ấy
giúp cho loài người có
một cuộc
sống bình an, biến cảnh
thế gian thành cảnh Thiên đàng, Cực
lạc.
Kính thưa các bậc tôn túc và quý Phật tử khắp nơi
trên toàn cầu! Bộ sách
Những Lời Phật Dạy
chúng tôi đã dùng
những lời lẽ quá
mạnh bạo
khiến cho các bậc
tôn túc và quý
Phật tử
bắt buộc phải
chú ý những
sự sai trái của
kinh sách phát triển
và những lời dạy của đức Phật
trong kinh sách nguyên
thủy để các bậc tôn túc và quý Phật tử cùng với chúng
tôi cảm thông nhau,
cùng chung nhau
gánh vác một việc lớn là làm sáng
tỏ những gì của Phật giáo đang bị dìm mất.
Ước nguyện
của chúng tôi
mong sao các bậc tôn
túc và quý Phật tử
cùng với chúng
tôi hợp tác soạn
thảo giáo trình tu
học tám lớp
‚BÁT CHÁNH
ĐẠO‛. Từ lớp Chánh kiến,
Chánh tư duy cho đến lớp Chánh định
để hoàn thành chương trình giáo dục đào
tạo những bậc chứng đạt chân lí như
thời đức Phật
ngày xưa. Nhất là dựng lại
nền đạo đức
nhân bản nhân
quả sống không làm khổ mình, khổ
người và khổ cả hai để loài người bớt những nỗi khổ đau.
Những lời
nói mạnh bạo, thẳng thắn trong bộ sách Những Lời Phật Dạy này
như roi quất
vào lưng;
như tiếng sét vang rền làm thức tỉnh mọi kiến chấp như bị đổ nhào. Cho nên,
trong những lời nói
này có những
điều chi sơ sót
không bằng lòng thì xin các bậc tôn túc
và quý Phật tử hãy
vui lòng lượng thứ
cho. Vì nếu không nói thẳng nói mạnh như vậy thì ai
hiểu kinh sách phát triển là sai.
Cuối cùng,
chúng tôi xin gửi lời thăm và chúc
quý vị dồi
dào sức khỏe.
Sau cùng chúng tôi xin
thành thật biết
ơn các bậc tôn
túc và quý Phật tử khắp
nơi trên toàn cầu đã hiểu
được lòng chúng tôi.
Kính ghi
Trưởng lão
Thích Thông Lạc
--------
HẾT
Â
MỤC LỤC
Lời nói đầu
.......................................................... 5
Chánh đạo,
tà đạo ............................................ 15
Từ bỏ tâm
tham................................................ 57
Cái thấy,
cái nghe, cái cảm thọ,...
................. 67
Nhiếp phục
thân tâm ....................................... 76
Pháp môn tác
ý ................................................ 88
Lời di chúc
cuối cùng........................................ 94
Bốn thần túc
................................................... 111
Bốn pháp chứng
đạt làm chủ sanh tử .......... 117
Kinh sách Đại
thừa không phải... ..............
125
Tại sao đức
Phật biết nấm độc mà ăn .......... 133
Mắt chư
Thiên ................................................ 142
Bát chánh đạo
................................................ 147
Tẩm liệm năm
trăm lớp vải .......................... 153
Pháp và luật
là vị đạo sư ............................... 157
Xá lợi chỉ
là mảnh xương vụn ....................... 159
Không tánh
..................................................... 161
Lòng tin phải
có căn cứ ................................. 174
Hộ trì chân
lý ................................................. 187
Giác ngộ
chân lý............................................. 192
Tâm còn
tham, sân si là thuyết pháp... .....
196
Chứng đạt
chân lý .......................................... 202
Thích hội họp
.................................................. 234
Pháp hành Tứ
niệm xứ .................................. 242
Hủy bỏ những
học giới nhỏ nhặt................... 259
Làm trụ trì
nên cảnh giác ............................. 267
Phạm hạnh của
đức Phật ............................... 271
Ái ngữ
.............................................................. 276
Kinh Phật mà
hiểu sai nghĩa là một... ....... 281
Có phải toàn
bộ giáo pháp của Phật là... .... 286
Tánh biết
......................................................... 295
Tự tại sanh
tử ................................................. 302
Thắng trí đoạn
trừ sắc, thân tứ đại là... ....
308
Thắng trí đoạn
trừ ba cảm thọ vào... .......... 312
Những người
mù ............................................. 319
Xá lợi
............................................................... 327
Danh và lợi
..................................................... 337
Người tu sĩ
cần phải ghi nhớ ......................... 339
Có bảy pháp
hằng ngày cần tu tập ............... 349
Có sáu oai
nghi người tu sĩ cần phải... .......
361
Ý nghĩa về bộ
sách Những lời Phật dạy....... 375
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY-TẬP IV
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
NHÀ XUẤT BẢN
TÔN GIÁO Phường Yên Hòa – Q.Cầu Giấy - Hà Nội ĐT: (04) 37822845 - Fax: (04)
37822841
Chịu trách
nhiệm xuất bản: Nguyễn Công Oánh Biên tập: Trần Xuân Lý
Bìa &
Trình bày: Ngọc Phúc
Sửa bản in:
Ngọc Phúc
Đối tác liên
kết: TU VIỆN CHƠN NHƯ
Điệnthoại:
066.3892911 - 0988094445
Email:
chonnhu.info@gmail.com
Số lượng in:
2.000 bản, khổ: 13 x 20,5 cm
In tại
CTY CỔ PHẦN IN KHUYẾN HỌC PHÍA NAM
(Tp.HCM. ĐT:
38164415)
Số xuất bản:
1171-2010/CXB/110-248/TG
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!