Bấy giờ chúng tôi xin nhắc
lại các bạn một lần nữa và các
bạn
cũng nên lưu ý kỹ.
Nếu
không giác ngộ chân lí mà tu
tập là tu mù, tu theo
kiểu Đại Thừa
và Thiền
Tông.
Cho nên, trước khi tu tập là phải giác ngộ chân lí của loài
người. Muốn giác
ngộ
chân lí của loài người là phải tìm
một vị Thầy tâm
không còn tham pháp, sân pháp, si pháp.
Khi thân cận gần vị Thầy ấy ta
mới
giác ngộ được
chân lí khổ đế, tập đế, diệt
đế
và đạo đế. Khi giác ngộ được
bốn chân lí các bạn phải siêng năng
tu tập, nhưng siêng
năng
phải đúng cách (Chánh tinh tấn) còn siêng năng không đúng
cách (Tà tinh
tấn) là tu tập lấy có, tu tập không kỹ
lưỡng, tu tập không cân nhắc từng hành động, từng hơi thở, từng tâm niệm, từng ác pháp, từng hoàn cảnh vv…Tu tập như vậy thì không
bao
giờ có kết quả; tu tập như vậy
rất
phí công, uổng
sức. Xin các bạn hiểu
cho.
Nếu cân nhắc kỹ lưỡng từng hành động thân, miệng và ý
của mình mà không có cố gắng thì làm sao cân nhắc kỹ lưỡng được. Phải không các
bạn? Cho nên Phật dạy: “Do vậy trong
sự cân nhắc, thì cố gắng đƣợc hành trì nhiều”.
Trong sự tu tập các bạn nên theo từng thứ tự phương
pháp
và từng mỗi hành động mà đức Phật đã dạy ở đây,
thì sự tu tập của các bạn mới không uổng công, mới có kết
quả tốt đẹp.
Bấy giờ chúng ta nghe tiếp Phật dạy: “Trong sự cố gắng, Tôn giả Gotama, pháp nào
đƣợc hành trì nhiều?”
“Trong sự cố gắng, này Bharadvaja ƣớc muốn đƣợc hành trì nhiều, nếu ƣớc muốn đối với chân lí ấy không khởi lên thì không có cố gắng. Vì ƣớc muốn có khởi lên nên cố
gắng; do vậy trong sự cố gắng ƣớc muốn đƣợc hành trì nhiều.”
Như vậy khi chúng ta
giác ngộ được chân lí, biết
rõ
đời sống của con người chỉ là một chuỗi dài khổ
đau, vì thế sự
ước
muốn thoát ra khỏi mọi sự khổ đau của kiếp làm
người, càng nung
nấu
trong lòng càng lớn, càng nhiều thì sự
cố gắng càng nhiệt tâm, nhiệt tình hơn, càng cố gắng hơn nhiều thì sự tu tập lại cân nhắc kỹ lưỡng nhiều hơn.
Nhờ đó mà kết quả càng ngày lại thấy rõ ràng
hơn. Tham pháp, sân
pháp, si pháp bị
muội lượt một cách cụ thể, rõ ràng.
Cho nên ước muốn ra
khỏi nhà sanh tử, làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp người là một ước muốn chân chánh, chứ không phải ước muốn chạy theo dục lạc thế gian ăn ngủ phi thời, sống theo thế tục chùa to Phật lớn. Vì muốn giải thoát nên sự ước muốn buông xả các ác pháp và các dục, đó
là sự ước muốn chân chánh.
Ước muốn chấm dứt luân hồi, làm chủ sanh, già, bệnh,
chết mà không
vui
mừng hoan hỉ sao? Mà không chấp nhận pháp tu hành đó
sao? Đó là những
ước
muốn chân
chánh, nhờ có những ước muốn này mà chúng ta mới
siêng năng tu tập và cân nhắc kỹ lưỡng được. Các bạn
thấy có đúng như vậy không?
Trong cuộc đời tu hành của chúng ta không ai mà không có
ước
muốn mong
cầu
ra khỏi nhà sanh tử, làm chủ mọi sự đau khổ của kiếp người. Đi từ tôn giáo này, đến tôn
giáo khác, tu từ pháp môn này đến pháp môn khác, mà
kết
quả
trong mơ hồ, ảo tưởng, không có chút nào thực tế,
do đó
nỗi đau đớn của người
quyết
tâm tu hành tìm cầu sự giải
thoát thì đau khổ biết dường nào. Nhưng khi nhận ra
được pháp tu tập trực tiếp làm chủ sanh, già, bệnh, chết, và chấm
dứt
luân hồi thì nỗi vui mừng không sao kể hết
được. Cho nên ở đây Phật dạy: “Trong ƣớc muốn hoan hỉ chấp nhận pháp
đƣợc hành trì nhiều.”
Trong
cuộc đời tu hành, chúng ta chấp nhận xả bỏ
của
cải, tài sản, vật chất, nhà cửa, vợ
con, anh em, chị em, cha mẹ
và tất cả những người thân quyến thuộc v.v...
chỉ còn lại
một đời sống không nhà cửa, không gia đình,
ngày đi xin
ăn với ba y, một
bát. Do ước muốn tinh cần buông xả như vậy,
nên cuộc sống giải
thoát càng thấy rõ rệt. Bấy giờ sức
làm chủ thân tâm càng lúc càng hiệu quả hơn.
Bấy giờ chúng ta nghe tiếp đức Phật dạy: “Chúng con
muốn
hỏi Tôn giả Gotama trong sự ƣớc muốn pháp nào đƣợc hành trì
nhiều?”
“Này
Bharadvaja, trong sự uớc
muốn hoan hỉ chấp nhận
pháp
đƣợc hành trì nhiều. Nếu không hoan hỉ chấp nhận
pháp
thì ƣớc muốn không khởi lên. Vì có hoan hỉ chấp
nhận
pháp nên ƣớc muốn khởi lên, do vậy trong ƣớc muốn hoan hỷ chấp nhận pháp
đƣợc hành trì nhiều.”
Ước muốn ra khỏi nhà sanh tử, nên phải chịu khó ôm pháp tu hành với tâm thích thú hoan hỉ. Do thích thú hoan
hỷ mới
chấp nhận pháp từ đó mới chịu khó tu tập, cố
gắng xả từng niệm ác, từng chướng ngại trong thân tâm
của
mình. Xả các ác pháp và những chướng ngại trong thân
tâm của mình đâu phải là một việc dễ làm. Nói được còn
việc buông xả không
phải
một
ngày một bữa mà thành tựu
được.
Nhữn g
đ iều Ph ật đ ã
dạy trên đ ây
là
cả một
k in h
n gh iệm
tu h àn h củ a đ ức
Ph ật
tron g
su ốt đ ời sốn g
t u h àn h củ a
Ngài rất
thực
tế
và
cụ thể. Kh i đ ọc
đ ến
n h ữn g đ oạn
k inh
n ày, n gười n ào
có thực
h àn h
mới
thấy
đ ây là n h ữn g lời
tâ m
h u yết củ a đ ức
Ph ật
đ an g
trải d ài
trên
n h ữn g tran g
giấy b ằn g máu
và
n ước
mắt tu h àn h củ a mìn h đ ể thàn h
Chánh giác.
Trong ước muốn nếu không
có
lòng hoan hỉ chấp nhận
pháp
thì làm sao có ước muốn được. Phải không các bạn?
Lòng
vui mừng chấp nhận pháp là vì
phải hiểu rõ giá trị pháp thì sự
ước muốn mới càng mãnh liệt hơn.
Bấy
giờ
chúng
ta
hãy
lắng nghe đức
Phật
dạy tiếp: “Chúng
con hỏi Tôn giả Gotama, trong sự hoan
hỉ chấp nhận pháp, pháp
nào đƣợc hành trì
nhiều?”
“Này Bharadvaja, trong sự hoan hỉ chấp nhận pháp, tìm
hiểu
ý nghĩa đƣợc hành trì nhiều. Nếu không tìm hiểu ý
nghĩa
thì không
hoan
hỉ chấp nhận pháp, và
vì có
tìm
hiểu ý nghĩa nên có sự chấp
nhận pháp, do vậy trong sự hoan hỉ chấp nhận pháp, tìm
hiểu ý nghĩa đƣợc hành trì nhiều”.
Người muốn tu theo Phật giáo không được tin mù quáng như
tín
đồ các tôn giáo khác chỉ
tin vào giáo điều mặc khải
của một đấng thiêng liêng vô hình, truyền qua
như
kẻ lên đồng nhập xác hoặc là cơ bút tin theo những lối truyền dạy như vậy là mù quáng, tin mà không căn cứ vào chỗ
nào
vững chắc,
không
thực tế, không rõ ràng, lòng tin như vậy
dễ bị những người khác lợi
dụng tôn giáo lừa đảo làm
tiền,
làm danh và còn lợi dụng
sắc dục nữa.
Đối với đức Phật, Ngài dạy rất kỹ
lưỡng, trước khi chấp
nhận
tin vào một pháp nào thì phải tìm
hiểu
ý nghĩa của pháp môn đó. Khi tìm
hiểu
ý nghĩa của pháp đó xong, thì chúng ta mới thông suốt
chân lí của pháp đó. Thông suốt chân lí của pháp đó tức là chúng
ta giác ngộ chân lí như
trong kinh Canki đã dạy: “Vậy trong những hoan hỉ chấp
nhận
pháp, tìm hiểu ý nghĩa đƣợc hành trì nhiều”.
Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy tiếp: “Chúng con xin
hỏi Tôn giả Gotama,
trong sự tìm hiểu
ý nghĩa pháp
nào đƣợc hành trì
nhiều”.
“Trong sự tìm hiểu ý nghĩa, này
Bharadvaja, thọ trì pháp
đƣợc
hành trì nhiều. Nếu không có thọ trì pháp thì không tìm hiểu ý nghĩa và vì có thọ trì pháp, nên có
tìm
hiểu ý nghĩa, do vậy trong sự tìm hiểu ý nghĩa, thọ trì pháp đƣợc hành trì nhiều.”
Kính thưa các bạn! Thọ trì pháp nghĩa là gì?
Thọ
trì pháp nghĩa là tu tập thực hành theo đúng
pháp
đã dạy; bởi vì muốn tu tập thực hành pháp mà không có tìm hiểu ý
nghĩa của pháp thì làm
sao thực hành pháp được. Phải
không
các
bạn?
Vì
thế, ở đây đức Phật đã dạy
tìm hiểu ý nghĩa của pháp là phải song
hành với sự tu tập hành trì, nhờ có tu tập hành
trì
thì sự tìm hiểu ý nghĩa mới thâm sâu, mới cụ thể, rõ
ràng. Người chỉ tìm hiểu ý nghĩa pháp mà không có hành trì tu tập thì sự tìm hiểu ấy cạn cợt giống như các nhà học giả,
nhiều khi lọt vào tưởng giải, khiến cho sự hiểu biết lệch lạc sai lầm. Do sự hiểu biết sai lầm mà biên soạn viết ra những kinh sách
để lại cho đời, giết bao nhiêu thế hệ và những kinh
sách ấy đã dìm mất chánh pháp của đức Phật.
Phần nhiều kinh sách
Đại Thừa do thiếu sự hành trì nên
tưởng giải chỗ bất động tâm KHÔNG TÁNH mà lại hiểu là TÁNH KHÔNG,
CHÂN KHÔNG DIỆU HỮU, PHẬT TÁNH, thật là tìm hiểu nghĩa lý một cách sai lầm quá lớn. Chính kinh
sách Đại Thừa không
hiểu
chân lí của Phật giáo tức là
không giác ngộ chân lí của Phật giáo “KHỔ, TẬP,
DIỆT, ĐẠO” mà lại giác ngộ PHẬT TÁNH, CHÂN KHÔNG, TRÍ TUỆ
BÁT
NHÃ hoặc CÕI
CỰC LẠC TÂY PHƢƠNG vv... Thật là một điều giác ngộ sai lầm, vì thế các Thầy Đại Thừa tu tập
sống
phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới,
tu tập nhiều loại định tưởng. Cho nên chết trên giường bệnh, chết trong
đau
khổ, chỉ khéo
dùng
từ lừa đảo thu thần nhập diệt hoặc
thị hiện một vài thần thông tưởng hoặc biết ngày giờ chết
hoặc một vài hành động ảo tưởng khiến cho những người
nhẹ
dạ non lòng không hiểu biết về thiền tưởng nên cho
các
Sư Thầy đã tu chứng đạo.
Bấy giờ các bạn
nghe tiếp đức Phật dạy: “Trong sự thọ trì
pháp, chúng con xin
hỏi Tôn giả Gotama pháp
nào đƣợc hành trì nhiều?”
“Này Bharadvaja, trong sự hành trì pháp, nghe pháp đƣợc
hành trì nhiều nếu không nghe pháp thì không có thọ trì
pháp. Và do có nghe pháp nên có thọ trì pháp: do vậy trong sự hành trì pháp, nghe pháp
đƣợc hành trì nhiều”.
Những lời dạy
trên đây các bạn có lưu ý không? Chỉ thực hành pháp mà không chịu thưa
hỏi
cặn kẽ thì các bạn sẽ
gặp nhiều khó khăn xảy ra trong khi đang tu tập. Lúc bấy
giờ các bạn sẽ đến một vị Thầy đã chứng đạo, vị ấy sẽ chỉ dạy
cách thức vượt qua những
chướng
ngại
khó
khăn
đó.
Vì thế muốn hành trì tu
tập thì phải nghe nhiều như trong
kinh đã dạy, nếu không thưa hỏi và nghe nhiều thì sự tu
tập sẽ không tiến bộ. Cho nên trong sự hành trì pháp
nghe
nhiều là một điều lợi ích lớn cho bước đường tu tập. Vì
có nghe nhiều tu tập mới không sai pháp. Vì thế khi bắt đầu
hành trì các
bạn
phải thưa hỏi một vị thầy đã tu tập xong, các bạn sẽ được nghe rất nhiều kinh nghiệm bổ ích trong
sự tu tập của vị Thầy ấy. Vì thế đức
Phật
dạy:
“Trong sự thọ
trì pháp, nghe nhiều đƣợc hành trì
nhiều.”
Bấy
giờ chúng ta lắng nghe đức Phật dạy
tiếp: “Chúng
con xin hỏi Tôn giả Gotama, trong sự nghe pháp, pháp nào
đƣợc hành trì nhiều?”
“Này Bharadvaja, trong sự nghe pháp lắng tai đƣợc hành
trì nhiều”.
Lời dạy này chắc
chắn ai cũng hiểu, cũng biết, vì nghe
pháp
thì phải lắng tai nghe, nếu không lắng tai nghe thì làm sao hiểu được. Mà không hiểu được pháp thì
làm sao thọ trì, cho nên lắng tai nghe có nghĩa là nghe rất kỹ, nghe không bỏ sót một nghĩa nào, một kinh nghiệm nào, nghe chăm chú.
Trước khi hành
trì
pháp thì phải lắng nghe rất kỹ những
pháp
hành, những hành động tu tập nhờ có lắng nghe kỹ
nên mới không tu tập sai pháp.
Trên đây là những bước tu tập để chứng đạt chân lí, mà
mọi
người tu hành phải lần lượt
hành trì đúng theo qui
trình này. Bấy giờ chúng ta
hãy
nghe đức Phật dạy:
“Chúng con xin hỏi Tôn
giả Gotama, trong sự lắng tai nghe
pháp thì pháp
nào đƣợc hành trì
nhiều?”.
“Này
Baharadvaja, trong sự lắng tai nghe
pháp, thân cận
giao thiệp đƣợc hành trì nhiều. Nếu không có thân cận giao thiệp
thì
không có lắng tai nghe pháp. Vì có thân cận giao
thiệp nên có lắng tai nghe. Do vậy trong sự lắng tai nghe,
thân
cận giao thiệp đƣợc hành trì nhiều.”
Muốn lắng tai nghe pháp hành mà không thân cận giao
thiệp thưa hỏi thì làm sao lắng tai nghe pháp được. Phải
không
các
bạn?
Cho nên sự
thân cận giao thiệp với thiện hữu tri thức là điều cần thiết cho bước đường tu tập hành trì để đạt đến
mục đích
chân lí cứu cánh là
một
điều cần thiết.
Kính thưa các bạn! Trong đời tu hành của
các
bạn mà không có thiện hữu tri
thức thân cận thì các bạn đã chịu
thiệt thòi rất nhiều trên đường tu tập. Các
bạn
đừng nghĩ rằng cứ dựa vào kinh sách là các bạn biết cách thức tu tập. Hầu hết những danh từ trong kinh sách mà các bạn
tự hiểu thì kiến giải ấy sẽ đưa các bạn vào chỗ chết, chỗ
bệnh tật,
điên khùng, loạn thần kinh v.v... Nếu không
chết không bệnh tật thì các bạn tu hành chẳng tới đâu, chỉ
sống trong tưởng mà thôi. Rồi đây các bạn cũng chạy theo danh lợi giống như người thế tục nhưng với
chiếc áo tôn giáo.
Cho nên, thiện hữu tri thức là người
đã tu
tập xong. Còn những học giả dù họ có cấp bằng tiến sĩ Phật học mà tu hành chưa
đến nơi đến chốn,
họ vẫn là ác tri thức, sẽ hướng dẫn các bạn vào con đường phí công phí sức, uổng phí một đời người, chỉ còn muợn sắc áo tôn giáo làm
cuộc sống danh lợi, ngồi mát
ăn bát
vàng
thì có nghĩa lý gì là một tu sĩ Phật giáo,
có đức, có hạnh, có giới luật
tinh nghiêm…
Trong cuộc đời tu hành gặp được
một bậc thiện hữu tri thức là khó, gặp được
chánh pháp cao minh chỉ rõ chân lí
của loài người cũng không phải
dễ. Cho nên kinh Pháp Cú dạy:
“Hạnh phúc thay đức Phật ra đời!”
“Hạnh phúc thay giáo
pháp
cao minh!”
Sanh đồng thời với một người tu chứng chân lí đâu phải
dễ và gặp được họ là một
hạnh phúc
vô cùng to
lớn. Phải không các
bạn? Do vậy đức
Phật dạy: “Trong sự lắng tai nghe,
thân
cận giao thiệp
đƣợc hành trì nhiều.”
Bấy giờ chúng
ta hãy nghe đức Phật dạy tiếp: “Chúng con
xin hỏi
Tôn giả Gotama, trong sự
thân cận giao thiệp, pháp
nào đƣợc hành trì nhiều?”
“Này Bharadvaja, trong sự thân cận giao thiệp,
đi
đến gần đƣợc hành trì nhiều. Nếu không đi đến gần thì không có thân cận giao thiệp. Và vì có sự đi đến gần nên có thân cận
giao thiệp”. Cũng như quý Phật tử ở tận miền Bắc xa xôi
hay
có người còn ở xa hơn nữa, ở tận bên Mỹ, bên Öc, bên Đức, bên Pháp. Vậy mà họ phải về Việt Nam lên tận tỉnh
Tây Ninh để tìm
Thầy thưa hỏi pháp tu hành. Đó là sự đi
đến gần.
Kính thưa các bạn! Lời đức Phật dạy không sai: “Trong
sự thân cận giao thiệp, đi
đến gần đƣợc hành trì nhiều.”
Bởi vậy những lời Phật dạy rất cụ thể, thiết
thực,
không
có bày vẽ những điều mơ hồ trừu tượng như kinh sách Đại
Thừa
và Thiền Tông. Chính
đức
Phật là người đã dạy cho
con
người bốn chân lí lần đầu tiên trên thế gian này, chưa bao giờ có một tôn giáo nào có bốn chân lí này. Bài kinh
ấy khéo nhắc nhở chúng ta phải đặt
trọn
lòng tin nơi chân
lí của loài
người, ngoài chân lí này
ra thì không còn có một chân lí nào khác nữa. Nhưng nếu nói được lời này, thì
phải
chứng đạt chân lí này. Khi chứng đạt được những chân lí này thì mới dám tuyên bố: “Chỉ đây là sự thật,
ngoài ra đều sai lầm”.
Chúng ta
hãy
nghe tiếp đức Phật
dạy:
“Chúng con xin hỏi Tôn giả Gotama, trong sự đi đến gần, pháp nào đƣợc hành trì
nhiều?”
“Này Bharadvaja, trong sự đi đến gần lòng tin đƣợc hành
trì nhiều. Nếu lòng tin không sinh thì không đi đến gần. Và
vì
lòng tin sinh nên có
đi đến gần; do vậy trong sự đi đến gần,
lòng tin đƣợc hành trì nhiều.”
Đọc đến lời dạy cuối cùng này chúng ta thấy lời
dạy của đức Phật rất cân nhắc kỹ lưỡng tuyệt vời, chứ
không
phải
như
quý Phật tử thời nay, cứ nghe ai nói gì thì tin ngay liền, chỉ cần gắn nhãn hiệu Phật thuyết
là tin, nhưng ngoài
nhãn
hiệu Phật thuyết trong
ấy toàn là thứ đồ giả
mạo.
Kính thưa các bạn! Lòng
tin như thế nào là tin đúng
(chánh tín)?
Lòng tin như thế nào
là tin sai (tà tín)?
Ở đây chúng ta nghe đức Phật đã dạy rõ ràng: Phải tìm một vị Thầy,
tâm không còn
tham
pháp,
sân
pháp,
si pháp, tức là giới luật phải nghiêm chỉnh, tâm phải bất động trước các pháp và các cảm
thọ. Đời sống phải ba y một bát, thiểu dục
tri
túc, sống không nhà cửa, không gia
đình vv…
Những lời dạy trong kinh này đem
ra
làm tiêu chuẩn xét
duyệt lại các tu sĩ Phật giáo hiện nay thì họ chưa đủ tiêu chuẩn cho quý phật tử
tin tưởng là vị thiện hữu tri thức
của mình. Họ không phải là người hướng dẫn các
bạn
đi trên con đường tu tập giải thoát; họ chỉ được lời nói
trên
ngôn
ngữ, còn sự sống hằng ngày và hành động đạo đức
đâu
có khác gì người thế
tục, cũng chùa to, Phật lớn,
cũng ăn uống ngủ nghỉ phi thời v.v…Những hành động sống này cũng đủ tố cáo họ, tâm còn đầy dẫy tham pháp, sân
pháp
và si pháp, nghi pháp,
mạn
pháp.
Đối với những vị Thầy tâm
còn
như vậy làm sao quý phật
tử có lòng tin nơi họ được. Nếu quý Phật tử có
lòng
tin nơi họ như vậy thì quí Phật tử là những người tin mù quáng không theo
lời Phật dạy.
T
ại sao
đ ức Ph ật đ ã
d ạy rõ
n h ư
v ậy, mà
q u ý
Ph ật
tử
vội
tin n h ữn g n gười T h ầy
n h ư
vậy,
h ọ ch ỉ là n h ữn g h ọc
giả,
giỏi ch ắp vá nh iều tư tưởn g Đông T ây triết
h ọc,
đ ạo h ọc, y
h ọc và k h oa h ọc, vậ t
lý
h ọc v.v...
còn
tu
h àn h
c h ẳn g ra
gì
. Lối sống của họ có gì hơn quý Phật tử ở chỗ nào? Hay họ chỉ hơn quí Phật tử là chỗ học tập, nghiên cứu kinh tạng. Do
chỗ học tập, nghiên cứu kinh tạng họ chỉ nói được chứ
thực hành đúng như pháp thì
họ chưa làm được. Chưa làm
được có xứng đáng gì cho quý Phật tử tôn kính là thầy?
Bài kinh này đã xác
định cho các bạn thấy lòng tin mù
quáng của các vị Bà La Môn ngày xưa, ngu si hộ trì một
chân lí ảo tưởng.
Vì lòng tin mù quáng hộ trì chân lí
không
căn
cứ vào chỗ
nào vững chắc,
chỉ tin là tin theo
những
người
tu tập chưa đạt được những gì giải
thoát. Tin chỉ biết tin
theo lời Thầy Tổ nói từ người trước đến người
sau đều tu hành chưa chứng đạt chân lí chỉ hô
hào
lường gạt người khác: “Chỉ đây
là sự thật, còn ngoài ra là sai lầm”.
Hiện giờ kinh sách Đại Thừa cũng chủ trương như vậy,
cho những lời Phật dạy là Tiểu thừa, là ngoại đạo, cấm
tín đồ không được đọc và không được tu theo (giới cấm Bồ Tát).
Có một số Phật tử không hiểu
rõ ý Phật dạy, nên dựa
vào bài kinh Canki này
cho Thầy Thông Lạc chê kinh Đại
Thừa
sai là Thầy Thông Lạc sai, Có lẽ quý Phật tử không
đọc
hết bài kinh hoặc đã đọc hết mà không hiểu
nghĩa, nên vội vàng
chỉ
trích Thầy Thông Lạc bằng
câu: “Chỉ có Thầy Thông Lạc là đúng, còn ngoài ra là sai
lầm”,
Nếu Thầy Thông Lạc tu hành chứng đạt chân lí mà nói câu này là đúng, còn Thầy Thông Lạc tu hành chưa chứng đạt chân lí mà nói
câu này là sai lầm.
Kính thưa các bạn! Trong kinh sách Nguyên
Thủy Phật thường dạy cho người mới tu: “Thấy
lỗi mình đừng thấy
lỗi ngƣời” nhưng khi đã tu chứng đạt chân lí mà thấy cái sai của người khác không dám nói là người hèn nhát, là người xua
nịnh vv… như
trên đã nói.
Trong bài kinh này đức Phật cũng dạy khi chúng ta là người mới hộ trì chân lí và chân lí được chúng ta hộ trì thì đừng nên nói: “Chỉ có đây
là sự
thật còn ngoài ra đều là sai lầm.” Câu này ám
chỉ nói về những vị Bà La Môn tin mù quáng. Còn ở đây đức Phật dạy chúng ta muốn có lòng tin thì phải xét duyệt một vị Thầy
dạy đạo, giới Luật có nghiêm chỉnh không? Tức là sống có li dục li ác pháp
không? Có chứng đạt được chân lí chưa?. Nếu một vị
Thầy sống không li dục li ác pháp, tâm chưa hết tham,
sân,
si thì chúng ta không nên tin lời
dạy
của họ. Họ là
người nói láo, dù họ giảng kinh nào chúng ta cũng không nên nghe. Trừ ra họ được một
vị Thầy đã chứng đạt được chân lí, hướng dẫn họ thuyết giảng theo kết quả trong
khuôn khổ tu tập và được dạy những gì được nghe vị Thầy
đã chứng đạt chân lí dạy.
Để tóm lại bài kinh này
chúng ta lắng nghe đức Phật dạy:
“Chúng con đã hỏi Tôn giả Gotama về hộ trì chân lí. Tôn giả
Gotama đã trả lời về hộ trì chân lí, chúng con tùy hỉ và
chấp nhận,
và
do vậy chúng con
hoan
hỉ. Chúng con đã hỏi Tôn giả Gotama về
giác ngộ chân lí. Tôn giả Gotama đã trả lời về giác ngộ chân lí, chúng con đã tùy hỉ và chấp nhận.
Do vậy chúng con hoan hỉ. Chúng con đã
hỏi
Tôn giả Gotama về
chứng đạt chân lí. Tôn giả Gotama đã trả lời về chứng đạt chân lí, chúng con tùy hỉ và chấp nhận do vậy chúng con hoan hỉ.
Trong sự chứng đạt chân lí, chúng con hỏi
Tôn
giả
Gotama về
pháp nào
đƣợc hành trì nhiều. Trong
sự chứng đạt chân lí Tôn giả
Gotama đã trả lời pháp nào đƣợc hành trì nhiều chúng con tùy hỉ
và
chấp nhận, do vậy chúng con
hoan hỉ. Chúng con
hỏi Tôn giả Gotama về bất cứ một điều gì. Tôn giả Gotama đã trả lời các điều ấy, chúng con tùy hỉ và chấp nhận; do
vậy
chúng con hoan hỉ.
Thƣa
Tôn giả Gotama, xƣa kia chúng con biết (sự phân
biệt) nhƣ sau: “Và ai là những Sa Môn trọc đầu tiện nô, hắc
nô,
sanh từ gót chân của Phạm thiên? Và ai là những
ngƣời
hiểu
biết Chánh pháp. Thật sự Tôn giả Gotama đã làm
sống dậy nơi lòng con ái kính Sa Môn đối
với
Sa Môn, lòng tin kính Sa Môn đối với Sa Môn. Thật vi diệu thay
Tôn giả Gotama! Thật
vi diệu thay Tôn giả Gotama !…”
Đoạn kinh trên đây tóm lượt với ý nghĩa rất đầy đủ để
chọn cho mình một vị Thầy xứng đáng là một bậc
thiện hữu tri thức hướng dẫn trên đường tu tập giải thoát quá
tuyệt vời, Là người Phật tử phải biết chọn cho mình một
vị Thầy xứng đáng đừng đụng đâu tôn kính đó là không
đúng. Cho nên ở đây đức Phật đã chỉ thẳng và vạch trần
bộ
mặt thật của những người tu sai pháp dùng tôn giáo
lừa đảo người.
Lời kết luận của cư sĩ Bà La Môn Bharadvaja đã nói lên được ý nghĩa sâu sắc về một vị Thầy đáng ái kính, đáng
tin kính: “Thật sự Tôn giả Gotama đã làm sống dậy nơi
lòng
con ái kính Sa Môn đối với Sa Môn, lòng tin kính Sa Môn đối với
Sa Môn. Thật vi diệu
thay
Tôn giả Gotama!
Thật vi diệu thay Tôn giả Gotama !…” Còn
ngược lại với những vị Thầy nào
không được ái kính và tin kính như trong đoạn kinh này đã
dạy:
“Và ai là những
Sa
Môn trọc đầu, tiện nô, hắc
nô,
sanh từ gót chân của Phạm thiên?”
Đoạn kinh này đức Phật dùng những danh từ rất nặng, để
chỉ cho những người tu chưa chứng chân lí mà vội ra làm
Thầy dạy người tu tập: “Sa
Môn Trọc Đầu, tiện nô, hắc nô,
sanh
từ gót chân của Phạm thiên”. Các
Thầy Đại Thừa
hiện
giờ không thể còn che
dấu
ai được sự lừa đảo và giả
dối
của các
Ngài về giới luật và tu tập. Nếu Phật tử nào đã đọc bài
kinh này thì sẽ phát hiện
rõ ràng: Đâu mới
là pháp
chân chánh,
và đâu mới là pháp sai lầm;
đâu
là thiện hữu và đâu không phải là thiện hữu. Đó chính là
lời xác định của đức Phật, của những người đã tu chứng đạt chân lí, còn ngoài ra những người tu chưa chứng đạt
chân lí thì
không được nói câu này.
PHÁP VÀ LUẬT
LÀ VỊ ĐẠO SƯ
LỜ I P H ẬT DẠ Y
“Này Ananda, nếu trong các Ngƣơi có ngƣời nghĩ rằng: “Lời nói của bậc Đạo
sƣ không còn nữa, chúng ta không có Đạo sƣ. Này Ananda, chớ có những tƣ tƣởng nhƣ vậy. Này
Ananda, pháp và giới luật Ta đã giảng dạy và trình bày, sau
khi
Ta diệt độ chính pháp và giới luật ấy sẽ là Đạo Sƣ của các Ngƣơi”. (Trường Bộ Kinh tập I trang 662 kinh Đại Bát
Niết Bàn).
CH Ö GIẢ I:
Lời di chúc
trên đây là một lời tâm huyết nhất của đức Phật đối với các
đệ tử của mình. Lời di chúc này muôn đời muôn kiếp, bao nhiêu thế hệ về sau, nếu ai còn theo Phật
giáo tu hành thì lời di chúc này phải mãi mãi được ghi khắc trong tâm “GIỚI LUẬT VÀ GIÁO PHÁP LÀ THẦY CỦA CHÚNG TA”. Cho nên lúc nào chúng ta cũng có bậc Đạo Sư chỉ dạy tu hành không sợ sai đường lạc lối. B ậc Đạo S ư
ấy
k h ôn g b ao
giờ
có tưởn g giải
, k iến
giải
làm
s ai lệch giáo
p h áp
củ a
Ph ật; b ậc
Đạo
S ư ấy là B át Chánh Đạo
. Bát Chánh Đạo là kim chỉ Nam. Như đoạn kinh trên đức Phật
đã
dạy: “Giáo pháp và giới luật nào có Bát Chánh Đạo mới
là giáo pháp và giới luật của Ta, còn
ngoài ra là không phải”.
Bởi vậy Bát Chánh Đạo là chương trình giáo dục đào tạo những bậc
A La
Hán, đó là bậc
Đạo Sư của bao nhiêu thế
hệ
con người về sau.
CÓ
PHẢI TOÀN BỘ GIÁO PHÁP CỦA ĐẠO PHẬT
LÀ CHIẾC BÈ SANG SÔNG KHÔNG?
LỜI P HẬT DẠY
“Chƣ Tỳ kheo ta sẽ giảng pháp cho
các
Ông ví nhƣ chiếc bè là để
vƣợt đƣa qua không phải để nắm giữ lấy. Hãy
nghe
và khéo tác ý Ta
sẽ giảng”. (kinh Trung Bộ tập I trang 305
kinh Ví Dụ Con Rắn).
CH Ö GIẢ I:
Kinh sách Đại
Thừa thường cho giáo
pháp của Phật như
chiếc
bè sang sông, như ngón tay
chỉ mặt trăng. Nhưng sự hiểu biết giáo pháp tu hành của
đạo
Phật như vậy là hiểu
biết
không đúng, quá sai
lệch.
Trong
kinh Trung
Bộ tập I trang 305 kinh Ví
Dụ Con Rắn đức Phật có dạy: “Chƣ Tỳ
kheo Ta sẽ giảng pháp cho các ông ví nhƣ chiếc bè để vƣợt đƣa qua, không phải để nắm giữ lấy. Hãy nghe và khéo
tác ý Ta sẽ giảng”.
Với những lời dạy này chúng ta
phải
hiểu cho đúng nghĩa, nếu không hiểu đúng nghĩa chúng ta dựa vào lời dạy này
là chúng ta đã tự phỉ báng giáo lý của Phật. Từ xưa tới
nay
các vị Tổ Sư
Đại Thừa tu hành chưa tới nơi tới chốn,
cứ
dựa vào những lời dạy này mà bảo rằng: “Giáo
pháp của đức Phật nhƣ chiếc bè qua sông, nhƣ ngón
tay chỉ mặt trăng” hoặc
dùng
câu: “Chánh pháp còn phải bỏ huống là
phi pháp”.
Các bạn đừng dựa vào
những lời dạy này khi chưa hiểu
nghĩa rõ ràng, chưa biết ý Phật muốn nói gì, mà vội sử
dụng
những lời dạy đó cho là toàn bộ giáo pháp của Phật
là chiếc bè sang
sông, là các bạn
đã để lộ sự
vô minh, ngu
dốt của mình đối với giáo pháp của Phật. Các
bạn
chỉ là con chim học nói tiếng người. Khi nào các bạn tu chứng đạo, các
bạn
mới đủ trí hiểu biết những lời dạy của Phật,
còn
bây giờ xin các bạn hãy dựa
cột
mà nghe.
Kính thưa các bạn! Giáo lý của Phật
là chương trình giáo
dục
đào tạo đạo đức nhân bản – nhân quả sống
không làm khổ mình khổ người thì
không thể nào gọi là
chiếc bè sang sông
hay ngón tay chỉ mặt trăng được.
Ví dụ: Các bạn là một người chưa biết
chữ, các bạn không đọc sách báo được. Bắt đầu các bạn vào học lớp một được
thầy
và cô giáo chỉ dạy từng chữ cái
phụ âm, nguyên
âm, rồi ráp lại thành vần, đọc
lại thành chữ. Sau một
năm học
chữ như
vậy, bấy
giờ các bạn đã
đọc
được sách báo. Đọc
được sách báo các bạn bảo rằng những chữ các bạn đã
học
được, đó là chiếc bè sang sông, nên các bạn ném
bỏ,
không dùng những chữ
đó
nữa. Như vậy các bạn sẽ không
đọc
sách báo và trở về đời sống mù chữ như trước. Vậy
giáo pháp của Phật có lợi ích gì cho các bạn, tu tập làm gì cho mất công rốt cuộc rồi cũng ném bỏ. Cho nên những câu: “Giáo pháp của đức Phật nhƣ chiếc bè qua sông” là
“Ngón tay chỉ mặt trăng” là “Chánh pháp còn phải bỏ
huống
là phi pháp”. Chưa chứng
đạo
mà hiểu nghĩa
những lời này
thì các bạn chẳng hiểu gì
cả.
Những chữ vần đó sau thời gian học tập đã thấm
nhuần trong các
bạn, do thấm nhuần trong các bạn, nên các bạn mới
đọc
và viết lưu loát. Các bạn có
biết
chưa?
Các
bạn
mới bước chân vào đạo Phật thì giới luật là giáo pháp
đầu
tiên
mà
các bạn cần phải tu học. Phật
giáo lấy giới luật làm đức hạnh cho Tăng, Ni và nam, nữ cư sĩ Phật
tử.
Phật giáo có ba cấp học rất rõ ràng: “GIỚI, ĐỊNH, TUỆ”.
Như vậy các bạn đã biết giới luật là Phạm
hạnh, là thiện pháp, là đức hạnh của con người.
Ví dụ: Giới luật dạy các bạn đừng trộm cướp, tham
lam,
đừng
tà dâm, đừng
vọng ngữ, đừng uống rượu vv…Các
bạn
cho những giới luật là chiếc bè, là ngón tay chỉ mặt
trăng, cho nên khi đang tu hành, ngồi thiền,
niệm
Phật, tụng kinh, bái sám v.v... thì các bạn giữ gìn giới luật
nghiêm nhặt. Khi hết giờ tu hành, ngồi thiền,
niệm
Phật, tụng kinh, bái sám
thì các
bạn
bỏ giới luật, do bỏ giới thì các bạn phạm
giới. Người tu sĩ hay người cư sĩ phạm
giới thì sống không có đạo
đức
và như vậy cung cách sống của các bạn không
còn
ai kính mến.
Nhưng các bạn cho những giới luật này là chiếc bè sang sông, khi các bạn tu chứng đạo thì các bạn không cần giữ giới luật nữa, từ đó
bỏ
nó như ném bỏ chiếc bè.
Khi ném bỏ giới luật thì các bạn sẽ trở thành những người đầu trộm, đuôi cướp, những người nói láo, những người không chung thủy, những người ác giết hại chúng sanh
gây án mạng giết người, những người rượu
chè say sưa
nằm
đường ngủ bụi,
ăn
uống phi thời.
Thưa các bạn! Những người tu chứng đạo mà còn sống
phi
đạo đức như vậy thì họ có khác gì những kẻ phàm phu
tục tử, phải không các bạn? Các bạn có nhớ không: Một Tế Công Hoà Thượng
(Trung Hoa); một thượng sĩ Tuệ
Trung
(Việt
Nam) đều là những người
được
gọi là tu chứng
đạo, nhưng sống phi
giới
luật, chỉ lừa
bịp người một vài thần thông tưởng mà được mọi người cho là chứng
đạo,
thì thật là đau xót cho Phật giáo. Phật giáo không có
những
loại người chứng đạo
như vậy xin các bạn lưu ý cảnh giác những hạng người lừa
đảo này.
Giới luật là đạo đức, là thiện pháp, vì thế ngƣời tu sĩ và cƣ sĩ phải
thâm nhập giới luật, giới luật là mình,
mình là giới luật, có như vậy mới được gọi là ly dục
ly ác pháp; mới
được gọi là ngăn ác diệt ác pháp; mới được gọi là sinh
thiện tăng trưởng thiện
pháp; mới đựợc
gọi là các pháp ác
không nên làm, nên làm
các
pháp thiện.
Khi thâm nhập như vậy mới được gọi là nhập lưu. Nếu
các
bạn xem giới luật là chiếc bè sang sông thì các bạn sẽ
ném bỏ giới luật và ném bỏ như vậy tâm các bạn sẽ không bao
giờ bất động. Nếu tâm
không
bất
động thì làm sao các bạn gọi là nhập lưu được. Nhập
lƣu tức là các bạn nhập
vào
giới luật đấy các
bạn
ạ! Giới luật là các bạn, các
bạn
là giới luật, chừng đó các
bạn
mới được gọi là vào dòng
Thánh. Cho nên giới luật của Phật được xem là chiếc bè,
ngón tay chỉ mặt trăng là các bạn đã hiểu sai lầm. Các bạn
hãy
ném bỏ những tư tưởng này mà từ lâu đã chịu ảnh
hưởng tư tưởng
Đại Thừa một cách tai
hại.
Kính thưa các bạn! Những giáo pháp nào của Phật được
gọi là chiếc bè sang sông? Kinh Ví Dụ Con Rắn đã dạy: “Này các Tỳ kheo có
sáu
xứ. Thế nào là sáu? Ở đây, này các
Tỳ kheo, có kẻ vô văn phàm phu, không đi đến yết kiến các bậc
Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không
tu tập pháp các
bậc Thánh, không đi đến yết kiến các
bậc Chơn nhơn, không thuần thục pháp các
bậc Chơn nhơn, không tu tập pháp các bậc Chơn nhơn, xem SẮC PHÁP: “Cái này là của
tôi,
cái này là tôi, cái này là tự
ngã
của tôi” Xem
THỌ... TƢỞNG... HÀNH... THỨC...” (kinh Ví
Dụ Con Rắn 307)
Bài kinh dạy trên đây
thuộc về pháp gì các bạn có biết
không?
Đó là Định Vô Lậu. Định Vô Lậu là một
pháp môn trong những pháp môn mà đức Phật cho là chiếc bè sang
sông, gồm có như: Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tỉnh
Giác, Định Niệm Hơi Thở,
Thân
Hành Niệm.
Ví dụ: khi thân các bạn đau nhức ở đầu hay ở chân, lúc bấy giờ các bạn muốn cho đầu hay chân đừng đau nhức thì các bạn dùng đề mục thứ năm
của Định Niệm Hơi Thở mà tác
ý: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít
vô,
an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Khi an trú hơi thở như vậy thì cảm thọ nơi chân và đầu của các bạn đang đau nhức khổ
sở bỗng hết đau vì tâm
các
bạn đã an trú được trong hơi
thở. Lúc bấy giờ
đầu
và chân của các
bạn
không còn đau
nhức
nữa, thì các bạn xả hơi thở ra và không tác ý an tịnh nữa. Khi xả pháp Hơi Thở ra mà đầu và chân của các bạn không còn đau nhức, lúc bấy giờ các bạn sống thanh thản, an lạc và vô sự đó là các bạn đã sang sông và các bạn đã bỏ luôn chiếc bè. Như vậy pháp môn Định Niệm Hơi Thở
là chiếc bè.
Còn pháp môn ở bài kinh trên đây là Định
Vô Lậu, thuộc
đề tài quán vô lậu “QUÁN THÂN NGŨ UẨN VÔ NGÔ.
Khi tư duy quán xét tâm vô lậu không còn chấp ngã thì các bạn
không còn tư duy nữa. Khi tâm
các bạn không còn chấp ngã:
“là ta, là của
ta, là bản ngã của
ta…” thì pháp môn vô
lậu không còn dùng nữa. Không còn dùng nữa, cho nên
đức
Phật cho nó
là chiếc bè sang
sông.
Các pháp môn từ ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ... ĐỊNH VÔ LẬU, ĐỊNH
SÁNG SUỐT, ĐỊNH CHÁNH
NIỆM TỈNH GIÁC cho
đến TỨ NIỆM XỨ, vv…
đều là những pháp môn thuộc về chiếc bè sang
sông; còn những pháp không phải chiếc bè sang sông, đó là TỨ VÔ LƢỢNG TÂM, TỨ BẤT HOẠI TỊNH, và GIỚI LUẬT.
Kính thưa các bạn! Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe, chứ đừng bắt chước các Tổ Sư Đại Thừa và
Thiền Tông tu chưa chứng đạt chân lí, không thông hiểu mà cho tất cả giáo pháp của Phật là chiếc bè
sang sông, là ngón tay chỉ mặt trăng thì thật là nông nỗi, nếu có người
tu chứng đạt chân lí thì họ sẽ biết rõ các Tổ sư tu hành
chưa
tới đâu
và những kinh
sách Đại Thừa và Thiền Tông
sẽ không còn giá trị
đối
với tín đồ Phật giáo.
Kính thưa các bạn! Kinh sách Phật giáo Nguyên Thủy muốn hiểu thấu suốt nghĩa lý của nó, chỉ có những người tu chứng đạt chân lí như đã nói ở trên. Còn những người
tu chưa chứng đạt
mà
nghiên cứu kinh sách Phật
để hiểu
biết, thì sự hiểu biết
đó
sẽ trở thành sự hiểu biết
của tà pháp ngoại
đạo.
Cho nên kinh sách phát triển của Đại Thừa là kinh sách của những người tu chưa chứng đạt chân lí biên soạn viết
ra
thành ra kinh sách. T u y gốc n ó
từ
k in h
sách Nguyên
T
h ủ
y củ a Ph ật giáo, n hưn g
k h i
k iến giải
tưởn g
giải
thành
n h ánh
lá,
n h ưn g lại
n hán h lá củ a n goại
đ ạo . Chính giáo lí
những nhánh lá này đã diệt mất nền đạo đức nhân bản -
nhân quả của loài người. Vì thế đạo Phật có tên mà đạo
đức
thì không còn nữa. Thật đáng tiếc thay! Thật đáng
tiếc thay!!!
LỜ I P H ẬT DẠ Y
TÁNH BIẾT
“Này Vaccha, những ai nói nhƣ sau: “Sa Môn Gotama là
bậc nhất thiết trí, là bậc nhất thiết kiến. Ngài tự cho là có tri
kiến hoàn toàn:
“Khi
Ta đi, khi Ta đứng, khi Ta ngồi và khi
Ta thức, tri kiến luôn luôn tồn tại, lên tục”. Thì đây là nói
về
Ta không đúng với
điều đã nói, họ đã vu khống Ta với điều
không thực hƣ ngụy” (kinh Trung Bộ tập II trang 309
kinh Ba Minh Vacchagota)
CH Ö GIẢ I:
Đọc
đoạn
kinh này chúng ta thấy
đức Phật đã xác định rất rõ ràng, Ngài phủ nhận kinh sách Đại Thừa nói những
điều
không đúng sự thật, nói trong ảo tưởng. Kinh sách Đại
Thừa đều cho Phật là bậc nhất thiết trí, là bậc nhất thiết kiến và nhất
là tánh biết, tánh thấy, tánh nghe thường hằng
bất
biến (tri kiến luôn tồn tại). Ở đây đức Phật cho rằng người nào nói Phật như vậy là nói không đúng,
là vu khống Phật với điều
không thực, hư ngụy.
Đối
với
đạo Phật mà nói Phật tánh, tánh thấy, tánh nghe,
tánh biết là nói những
điều
không thực, hư
ngụy, là nói không đúng chân lí, là nói chuyện trong mơ mộng không
cụ
thể, rõ ràng. Cho nên hiện giờ mọi người vô minh bị
lừa đảo bằng những danh từ rất kêu, Chân Không, Tánh
không,
Bản Lai Diện Mục Hiện Tiền, Ưng Vô Sở Trụ Nhi
Sanh Kỳ Tâm, Trí Tuệ Bát Nhã Ba La Mật, Phật tánh,
Tánh
Thấy, Tánh Biết, Tánh Nghe.
vv…
Đọc đoạn kinh Vacchagota này chúng ta xác định kinh
Thủ Lăng Nghiêm, Kinh Đại
Bát Nhã, kinh Lăng
Già Tâm
l
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!