v.v...” (Trong
kinh Địa Tạng đầy rẫy những đoạn dạy như thế...). Với những việc làm như
vậy, thì các bạn thấy
có liên can gì đến
đời sống, tướng hảo và sự thông minh của đứa bé không?
Ví dụ:
Cha mẹ đứa
bé này đều
u tối, kém thông
minh, đần độn,
trí nhớ học trước
quên sau... thì khi sinh đứa con, đứa
con này do gen của cha mẹ kết hợp
thành thai nhi. Như vậy đứa bé này có thông minh không các bạn?
Cứ dựa theo
lời dạy trong kinh này, không sát hại,
ngày đêm chí
thành cung kính cúng
dường và trì tụng kinh Địa Tạng... Chúng
tôi tin chắc rằng những việc làm
này là không tương ưng với sự thông
minh, nên đứa bé này vẫn u tối. Vì gen của
cha và mẹ
là gen không
thông minh. Cho nên, việc trai giới và tụng kinh là việc
làm không tưởng đối với đời sống và sự
thông minh của đứa
bé.
Ngược lại,
hai vợ chồng người này là nhà bác học, có kiến thức sâu rộng, có đạo đức, có
nhiều phát minh giúp ích cho nhân loại... thì chắc chắn đứa con của họ phải
thông minh, vì gen của hai người
này là gen thông
minh. Cho nên, họ đâu
cần tụng
kinh cầu khẩn, mà con
họ vẫn
thông minh. Có đúng như vậy không các bạn?
Nếu làm
cha mẹ muốn
cho con mình
được thông minh, thì cha mẹ phải siêng năng học tập, cha mẹ siêng năng học
tập tức là huân tập sự thông minh. Do huân tập sự thông minh như vậy
nên mới
thi đỗ bằng cấp
cao học, tiến sĩ,
và trở thành những nhà bác học.
Do sự huân tập,
học tập như vậy, nên cha mẹ đã tạo ra những gen thông
minh. Tạo ra những
gen thông minh
có sự tương
ưng với chủng
tử thông minh của đứa con. Vì thế,
khi sinh con ra đời, đứa con phải
thông minh.
Hành động học
tập của cha mẹ, sinh con ra thông minh là đúng. Đó là tạo nhân thông minh
tương ưng với các
nhân quả thông
minh của đứa con mình,
có đúng như vậy không các bạn?
Còn hành động không
sát hại và tụng kinh Địa Tạng cầu xin... các bạn xét xem, việc làm này có tương ưng với
sự thông minh không?
Như vậy, lời dạy
trong kinh này phi
lý, lừa đảo người nhẹ dạ dễ tin.
Vì thế, kinh
Địa Tạng dạy những điều đầy ắp những ảo tưởng gây mê tín, lạc hậu, biến tư tưởng
con người tiêu cực, cầu xin
tha lực, thường
tựa lưng vào thế giới siêu
hình. Do đó, sức tự lực của con
người lần lần đã tiêu tan hết sạch.
Thưa các bạn!
Khi chúng ta đọc kinh sách, dù kinh sách nào, dạy một điều gì thì chúng ta cũng
đều phải
lưu ý: Bất cứ một việc làm
nào cũng phải có sự tương ưng với
kết quả mục đích của nó, nếu nó không tương ưng với mục đích kết quả của nó thì
đó là kinh ấy dạy sai.
Muốn cho con mình
thông minh thì cha
mẹ phải thông minh.
Cha mẹ muốn thông
minh thì cha mẹ phải
siêng năng học tập. Đó
là quy luật
nhân quả rất tự
nhiên, không thể
có một điều nào khác hơn ngoài quy luật này. Ngoài
quy luật nhân quả là ảo tưởng, không tưởng.
Vì thế,
chúng tôi khẳng
định, kinh Địa Tạng là kinh ảo tưởng
của tà giáo,
ngoại đạo, chứù không phải là kinh Phật.
Đây, các bạn lắng
nghe đức Phật
xác định: “Như vậy,
này Vàsettha, lời
nói của những Bà La Môn tinh thông ba tập kinh Vệ Đà,
người đầu không thấy, người giữa không thấy,
người cuối cùng
cũng không thấy Phạm
thiên. Giống như lời nói
mù quáng, lời nói của
những Bà La Môn
tinh thông ba tập kinh Vệ Đà
như vậy là lời đáng
chê cười, là lời
nói suông, là lời nói
không tưởng, là lời nói trống rỗng...”.
Qua lời dạy
trên đây, chúng ta xét về kinh Địa Tạng,
thì kinh Địa Tạng không đáng
cho chúng ta tin cậy, vì kinh Địa Tạng là lời nói
suông, là lời nói không tưởng, là
lời nói trống rỗng...
THEO SỐ TỬ
VI CHO VỢ SINH NON
Hỏi: Kính
thưa Thầy, hiện
giờ có một số
người tin vào Tử Vi: “Nếu đứa bé ra đời đúng vào ngày, giờ,
năm, tháng như
lá số đã chấm...”, thì sẽ
đem lại phước
lộc cho gia
đình, như thăng quan, tiến chức, làm ăn khấm khá,
v.v... và tương lai của đứa bé sau này cũng thành đạt công danh hiển hách...
Vì thế, một số người trong ngành
y, và những người
giàu có, tin tưởng
đưa vợ mình sanh sớm đúng ngày giờ bằng phẫu thuật,
có lúc phải nuôi con trong lồng kính...
Như vậy có đúng không? Cúi xin Thầy
giải thích.
Đáp: Do sự lợi
ích lớn như nêu trong số Tử Vi, nên có người đưa vợ mình vào khoa sản để mổ xẻ, cho đứa
con ra đời sớm, đúng
ngày, giờ, năm, tháng theo thầy tử vi (có nghĩa là phải
sinh non, và có lúc phải nuôi
con trong lồng kính tại các nhà bảo sanh).
Thưa các bạn!
Trường hợp số tử vi này chấm ngày, giờ tốt
cho đứa bé... sẽ
có lợi ích lớn cho cha mẹ và ngay cả bản thân nó. Thế mà đứa bé này phải
chịu sinh non và người mẹ phải
chịu mổ
xẻ, thì đây là tai
họa hay
phước báu, xin các bạn vui lòng trả lời cho?
Số tử
vi nói phước báu lớn, thế mà phước báu đâu không
thấy, mà chỉ thấy sinh
con non, mẹ
phải chịu
phẫu thuật, như vậy
là tai hoạ cho gia đình, phải
không các bạn?
Như vậy thì tử
vi chấm không đúng, mà còn khiến cho tâm tham vọng của con người phát khởi,
nên mới chịu cảnh mổ xẻ đau thương!
Tham vọng là
ác pháp, nên luật nhân quả không
tha thứ. Do đó,
gia đình này phải nhận lãnh
quả khổ cả mẹ lẫn con, và còn hao tốn
tiền bạc. Như vậy, số tử vi có đúng không, xin các bạn vui lòng trả lời?
Nếu đúng sao
mấy ông thầy tử vi không chấm số cho con cháu mình thăng quan, tiến chức, làm giàu, ăn
trên ngồi trước
với thiên hạ,
có đâu lại đi hành nghề chấm tử vi, xem bói, là những
nghề lừa đảo mọi
người. Các bạn
nên lưu ý, họ là những
người hành tà
nghiệp, sống bằng
miếng cơm, manh áo làm ra tiền của hằng ngày không chân chánh.
MƯỜI HAI BÀ
MỤ
Hỏi: Kính
bạch Thầy, miền Bắc chúng
con nặng về thủ tục ma chay, cưới xin và sanh con ra phải cúng
các bà Mụ, lấy bộ
kinh Khoa Bà ra
tụng. Một bà
chúa Mụ và 12
bà Mụ
phụ để các bà
dạy cháu bé
ăn, ngủ, cười
và làm các động
tác, như thế có đúng không, thưa Thầy?
Đáp: Không
đúng, một đứa bé khi đã sinh ra, nó đã mang theo những thói quen của kiếp trước:
ngủ, vui, buồn, cười, khóc, đưa tay, đưa chân, đều do nhân quả
đã thành nghiệp
lực trong đời sống
quá khứ
trước kia, nên khi cháu
bé ngủ, mới có
những hiện tượng như vậy, chớ không phải có bà mụ nào dạy cả. Chỉ có nghiệp
nhân quả đời trước mà thôi.
Nghiệp lực
theo nhân quả do duyên vô minh biến
ra hành động,
tạo ra thức,
từ thức mới có
danh sắc (thân tứ đại và tưởng), có tứ đại
mới có hành động nghiệp lực, do hành động nghiệp lực mà cháu
bé đang ngủ mới có cười, mếu,
khóc, giận dữ, giãy nảy, đưa tay, đưa chân, v.v...
Một bà Mụ chúa
và 12 bà phụ
là sự mê tín
trong dân gian, không thấy có kinh nào dạy, nếu có thì chỉ
có kinh sách Đại thừa mà
thôi. Khi thấy cháu bé đang ngủ,
cười, khóc, đưa tay, đưa chân, v.v... cho là 12 bà Mụ dạy cháu bé, chớ các con
đâu biết
rằng, đó là
nghiệp báo thể hiện sự đau khổ,
buồn vui của kiếp người
kế tiếp và kế
tiếp mãi mãi.
CHỌN NGÀY,
GIỜ
ĐỂ SINH CON
NHƯ TRẠNG
Hỏi: Kính bạch Thầy,
theo khoa dịch học lý số,
thì người cha
và mẹ muốn
sinh con xuất chúng
như Lê Quí
Đôn, như Trạng
Trình, thì phải biết lựa mùa, tiết, năm, tháng, ngày, giờ nào hạp với
ngũ hành, v.v...
để vợ chồng
giao hợp, như thế có đúng không? Vậy thì Dịch lý và Phật
lý có
trái ngược nhau
không? Vì Phật
lý căn cứ trên luật nhân quả? Kính xin Thầy giải thích.
Đáp: Một lần nữa, câu
hỏi này cũng
thuộc về khoa lý số. Thưa các Bạn!
Nếu như khoa lý số mà đúng như vậy,
thì các nhà lý số đều
sinh con thông minh
như Trạng Trình, như Lê
Quý Đôn hết, và như vậy luật nhân
quả không còn công bằng, vì do lý số mà người ta cải hoán nhân quả.
Luật nhân quả
thì phải có thiện, có ác, mà đã có thiện, có
ác thì phải có
hành động tương
ưng, chớ không phải như lý số. Cho nên, con người thông minh hay u tối đều
do hành động nhân quả thiện, ác của chính họ, chớ không phải dựa vào lý số cải
ác, vi thiện.
Vì vậy, trí tuệ thông
minh là phải do sự tu học, huân tập
nhiều đời, do nhân huân tập nhiều
đời mà ngày
nay đứa bé mới
thông minh. Đó là một lý đúng mà không ai dám bảo rằng
sai được. Còn
theo lý số chọn ngày, giờ... hạp thời tiết ngũ hành để giao hợp
đặng có
con thông
minh, điều đó
là tham vọng
không đúng chánh pháp.
Muốn đặng thông
minh thì phải siêng
năng tu học,
huân tập như
trên đã nói... Vì “nhân nào, quả
nấy”.
KIẾP MÈO
LÀ KIẾP SẮP
LÀM NGƯỜI
Hỏi: Kính bạch Thầy,
người chết đi sau khi được hành tội dưới Địa Ngục rồi mới
đi đầu thai, lần lượt sanh đẻ 12 loài
động vật: Chuột,
trâu, cọp, mèo, rồng,
rắn, ngựa, dê, khỉ, gà,
chó, heo. Khi sanh làm kiếp mèo
là kiếp cuối cùng của loài động vật thì mới
sanh làm người.
Như vậy có đúng không, thưa Thầy?
Đáp: Đời
người sanh ra với trí hữu hạn, thường sống trong tưởng thức, nên sanh
ra nhiều chuyện mê tín dị đoan.
1- Chưa bao
giờ có ai biết Địa Ngục ở đâu, thế mà mọi người vẫn cho là có Địa Ngục.
2- Chưa bao
giờ có
ai biết linh hồn
như thế nào, mà
cho rằng chết
linh hồn đi xuống
Địa Ngục và đi đầu thai.
3- Chưa bao
giờ có ai biết chính xác con người chết
sanh làm thú vật và thú vật sanh làm người.
4- Có bao giờ
ai biết chính xác
con mèo chết sanh làm người
chưa? Chỉ ước đoán
loài vật nào được
ăn trong chén,
đĩa, nên cho nó
sẽ chết làm người.
Ví dụ:
Có người nào
sanh ra mà tự ăn
trong bát đĩa chưa? Hay
là ăn bốc hốt bằng
tay, bằng chân, bằng miệng? Muốn
ăn trong bát đĩa cũng phải có sự tập luyện từng chút, rồi mới cầm đĩa, muỗng được.
Bảo rằng
làm kiếp con mèo
là kiếp cuối
cùng của loài cầm
thú thì không đúng.
Đây chỉ là sự
tưởng tượng của những người
sống trong tưởng, dựa
theo cách thức
ăn uống của
con người rồi tưởng ra. Chứ mèo rừng có chén đĩa đâu mà
ăn? Không phải chúng ăn dưới đất dưới cát sao?
Chính con người tự đặt ra năm, tháng, ngày, giờ,
sau khi sanh rồi dùng tên của thú vật mà gọi là
sanh năm “tý, sửu, dần,
mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi”. Ai sanh năm
nào đúng tên con vật đó liền gọi là tuổi đó.
Con người là
con người, chớ không phải con người mà có tuổi trâu, chó, ngựa, heo, mèo, chuột,
v.v... Con người là một loài động vật
hơn muôn thú, cớ sao làm người mà
còn lấy tuổi là con thú? Đó là một điều ngu si, mê muội của con người còn lạc hậu,
trình độ khoa học
chưa có, nên sống
trong vô minh, u tối, giàu tưởng tượng, sống
thụt lùi. Sáu mươi hai lập luận của ngoại đạo ngày xưa đã bị đức Phật
bài bác thẳng tay, khiến cho toàn bộ thế giới rung chuyển. Những học thuyết mê
tín
lạc hậu này
đã làm cho con người điêu đứng, khổ sở.
Từ cất nhà cửa đến cưới hỏi,
ma chay, thậm chí đào giếng, đào ao, sửa bếp cũng xem tuổi tác, ngày giờ
tốt, xấu.
Ảnh hưởng
và truyền thống
lạc hậu, mê tín
này đã khiến cho bao nhiêu người khổ đau và bất hạnh. Người ta không biết rằng,
mọi tai nạn và mọi sự khổ đau trên đời này đều do hành động nhân quả thiện hoặc
ác mà ra, chứ đâu phải do tuổi tác tốt, xấu,
mà thành tai nạn
khổ ách, hoặc phước
báu hạnh phúc.
Cho nên, nếu một người cứ làm ác mà mỗi lần cất nhà,
xây cửa, hay làm tất cả mọi thứ rồi
đi coi tuổi
tác, ngày giờ tốt, xấu, liệu người
ấy có qua khỏi tai nạn không?
Nếu một người
đi ăn trộm, xem năm nay hợp với tuổi, được tuổi tốt và ngày xuất hành (đi ăn trộm)
cũng tốt. Nếu tuổi, ngày, tháng và năm đều tốt mà đi ăn trộm (làm điều ác) được
trót lọt, thì xã hội loài người chịu
sao cho nổi bọn đầu trộm
đuôi cướp này.
Nếu ngày,
giờ và tuổi
tác tốt, xấu
như kinh sách (bói quẻ) nói, thì
con người sẽ bạc ác, và thế gian
này mấy ai sống
lương thiện? Bởi vậy, kinh sách xem
ngày, giờ, tuổi
tác tốt, xấu
là những loại kinh sách
phi đạo đức, cần phải
diệt sạch, đốt sạch. Chính những kinh sách phi đạo đức này đã đưa con
người vào đường tội ác và lạc hậu, mê
tín.
Lấy 12 con thú
vật làm 12 con giáp,
rồi tính ra năm, tháng, ngày, giờ
để chia thời gian làm ra lịch. Lúc đầu, lịch sách rất có ích lợi này cho loài
người. Những người
làm ra lịch
phân chia thời gian
để cho nhà nông
biết thời vụ
mà làm mùa, đó là sự ích lợi phục vụ rất lớn cho
loài người, lấy nông nghiệp làm nghề chánh cho sự sống.
Từ lịch sách
có lợi ích, những kẻ xấu bụng dựa vào sách lịch này triển khai biến thành khoa bói toán, xem
ngày tốt, xấu để lừa đảo người
khác, làm tiền một cách vô lương tâm, biến thành sự siêu hình vô đạo đức.
Đến giờ này,
người ta còn tưởng tượng ra kiếp con mèo
là kiếp cuối
cùng của loài động vật, hết
kiếp mèo
sẽ tái sanh
làm người. Đó
là một lý luận
mơ hồ, trừu tượng,
không có sự chứng minh cụ
thể, vậy mà mọi người
vẫn tin theo và có
người thì bán tín, bán
nghi, chưa biết chắc
đúng sai. Nếu chúng ta muốn trở thành những người có đạo đức, thì phải
ăn ở như thế nào mà mọi người chấp nhận là người có đạo đức. Nếu chúng ta ăn ở
đối xử
với mọi người
đầy tánh hung ác,
đụng cái gì cũng chửi mắng người,
rồi say sưa, rượu chè, đĩ thõa, điếm đàng, trộm cướp, thì làm sao chúng ta chấp
nhận là người có đạo đức?
Cũng như
chúng ta muốn làm một bậc Thánh nhân thì đâu phải chỉ có ăn hiền ở lành, mà phải
có những
Thánh hạnh cao thượng,
chứ ăn ở như
súc vật thì làm sao gọi là Thánh nhân được.
Không có con
mèo nào
ăn hiền ở
lành cả. Bộ dáng thì dễ thương, nhưng bản chất hung
ác, gặp chuột thì chụp ngay, xé
xác liền, gặp
cá thịt thì ăn
quên thôi, tâm
còn hung ác thì
sanh ra
làm người sao được? Thế
mà người ta tưởng tượng
ra kiếp làm con mèo là sắp làm kiếp người.
Đức Phật dạy,
được thân người khó như con rùa mù tìm bọng cây giữa biển. Như vậy, được thân
người không phải dễ đâu. Thân người chỉ sống có thời gian quá ngắn, 100 tuổi là cùng, thế mà người ta
tiêu phí thời
gian một cách
vô ích. Đức Phật dạy:
“Tấc bóng thời
gian một tấc vàng Tấc vàng tìm được không gì khó Tấc bóng thời gian khó hỏi
han”
Theo luật
nhân quả, bất kỳ con thú
vật nào muốn sanh
làm người đều
phải sống trong thiện pháp, hoặc
người nuôi chúng tạo môi trường cho chúng sống trong thiện pháp, thì chúng
sẽ sanh làm
người sớm. Ví dụ,
chúng ta nuôi một con mèo mà cứ cho ăn thịt cá,
thì đương nhiên hiện tại chúng
ta được xem là thương
chúng, nhưng chúng
mãi mãi trôi lăn
trong kiếp làm
con mèo và những loài
vật khác, không
bao giờ sanh làm người được. Đó là ta hại chúng, chớ không phải
ta thương chúng. Ta cho chúng cơm nước tương, đậu, dưa, chúng không thích ăn, nhưng
hết kiếp làm con mèo
thì chúng sanh làm người.
Đó là
thương chúng, khiến
cho chúng sanh làm người,
hạnh phúc hơn
làm loài chúng sanh. Luật nhân quả đối xử rất công bằng
với tất cả mọi người, mọi vật trên hành tinh này.
NHẬP THẤT THỌ
PHÁP ĐỂ CẦU SANH ĐẶNG CON THÁNH
Hỏi: Kính
thưa Thầy, chúng con nghe kể
có một vài môn phái bí mật, truyền pháp cho những cặp vợ chồng nhập
thất khoảng ba năm
tu tập theo một phương pháp bí mật, để mong cầu đặng sanh ra đời những bậc
Thánh, vậy xin Thầy định nghĩa Thánh nhân là người như thế nào? Họ còn dâm dục
không? Kính mong Thầy từ bi khai thị.
Đáp: Qua câu
hỏi này... chúng tôi xét thấy sự thật nếu tu cầu như vậy thì không đúng nghĩa
Thánh. Trước khi muốn trả lời câu hỏi này, chúng ta phải
định nghĩa chữ
“Thánh”. Vậy Thánh nghĩa là gì?
Theo đời thường,
Thánh là người tài giỏi xuất chúng về
văn học, cũng như võ học mà người đời
thường ca tụng xưng
hô như Thánh
Trần Hưng Đạo, Quan Thánh
Đế Quân, đức
Thánh Khổng Phu Tử.
Tất cả những vị Thánh này được tôn xưng như vậy, nhưng
tâm họ vẫn
còn phàm phu, có
nghĩa là tâm họ
còn tham, sân,
si, mạn, nghi
và còn dâm dục như bao nhiêu người
khác.
Còn đứng về góc độ của
tôn giáo, thì những bậc Thánh không phải nghĩa như vậy.
Thánh của Phật giáo gọi là Thánh tăng, Thánh ni, Thánh sa di, Thánh cư sĩ,
Thánh A La Hán, v.v...
Những vị
Thánh của Phật giáo không có võ nghệ tuyệt luân, không có văn chương hay xuất
chúng, không có
đánh giặc, giết
người, cướp thành trì.
Thánh của Phật
giáo là những con người sống đúng Phạm hạnh (Giới luật), ly tham, đoạn ác pháp.
Thánh của Phật giáo là tâm bất động trước các pháp ác và các cảm thọ. Thánh của
Phật giáo là tâm vô lậu hoàn toàn, đầy đủ Tam Minh, Lục Thông.
Thánh của Phật
giáo là một người như bao nhiêu người khác, nhưng có một đời sống không làm khổ
mình, khổ người và khổ chúng sanh.
Những danh
từ chỉ định
nghĩa Thánh của Phật
giáo nghe thì dễ, không
có gì cao
siêu, nhưng làm không phải dễ, nhất là không làm khổ mình. Không
làm khổ mình
là một hành động
đạo đức
cao thượng, mà chỉ
có những bậc
Thánh trong Phật giáo mới làm được.
“Thắng trăm
trận không bằng tự thắng mình, tự thắng mình mới là chiến công oanh liệt”.
Vì thế,
Thánh của đạo Phật là từ con người phàm
phu biết khắc kỷ mình, biết sửa sai những lỗi lầm, biết chế ngự lòng ham muốn,
biết siêng năng hằng ngày ngăn và diệt ác pháp, biết tự nguyện sống đúng Phạm hạnh
để trở thành bậc Thánh, chứ không phải bằng những phương pháp bí mật,
tu tập nhập
thất ba năm để
mong cầu sinh đặng con Thánh.
Thánh mà do con đường dâm dục sinh ra, thì xin
các bạn tự định nghĩa.
Xưa, đức Phật
cũng là một người phàm phu, cũng có vợ, có con, cũng dâm dục, cũng có cha, có mẹ, sinh
ra cũng chỗ bất tịnh
nhơ uế, chớ
đâu phải từ trên
trời rơi xuống,
hay dưới đất trồi
lên...
Ngài cảm nhận
được đời người là khổ, nên từ giã xuất gia tu hành. Tu hành đúng chánh pháp,
ngăn và
diệt các ác
pháp trong tâm
mình, biết sửa sai những lỗi lầm
của mình, biết từ bỏ những tà pháp, thay
vào bằng chánh pháp. Nhờ thế mà Ngài trở thành bậc Thánh A La Hán Vô Lậu, chớ
đâu phải Ngài là Thánh có sẵn.
Theo
câu hỏi
này, thì có một
vài môn phái
bí mật dạy đệ tử muốn sanh con Thánh thì vợ chồng phải thọ pháp, phải nhập
thất tu tập như trên đã nói, thì vợ chồng ấy mới sanh ra con Thánh.
Đã là
Thánh mà sao không
chọn con đường hoá sinh, mà lại
chọn con đường sinh ra ô uế như vậy?
Đã là
Thánh thì làm sao tương
ưng được với cha mẹ tâm còn tham,
sân, si mà
tái sinh luân
hồi làm
con họ. Đó là một sự lừa đảo của tôn giáo.
Cho nên, không ai có thể
sinh con Thánh, chỉ có Bát Thánh
Đạo mới sinh ra con Thánh. Từ con người phàm phu làm nên Thánh là do con đường
Bát Chánh Đạo, các bạn nên lưu ý, để các
bạn khỏi bị lừa đảo.
Các bạn hãy
lắng nghe đức Phật dạy: “Này Vàsettha,
người nói Tỳ
kheo không có dục
ái, Phạm Thiên không có dục ái, có thể có một sự cộng hành, cộng trú không?
- Thưa Tôn
Giả Gotama, có thể được...”
Thưa các bạn! Trong
thời đức Phật,
người ta tôn kính
Phạm thiên như
bây giờ chúng
ta tôn kính Phật và A La Hán vậy.
Theo như lời
dạy trong kinh này, Tỳ kheo không
có ái dục với Phạm
thiên không có
ái dục thì hai người
giống nhau, hai
người giống nhau thì cùng
cộng trú, cộng
hành với nhau.
Còn ở đây, cha mẹ
tu hành mà
còn dâm dục
nên mới sinh con.
Khi cha mẹ
sinh con ra là do đường
dâm dục, tức là cha mẹ
còn dâm dục và
đứa con được sinh ra trong đường dâm dục thì đứa con phải
còn dâm dục, còn dâm dục thì tương ưng với dâm dục. Nếu đứa con là
Thánh thì không còn
dâm dục, không còn dâm dục thì không thể tương ưng với
cha mẹ. Không tương ưng với cha mẹ thì làm sao sinh con Thánh được.
Cho nên, tôn giáo
này dạy phi
lý. Đây là Thánh không tưởng.
Vì vậy, chấm
số tử vi, tụng kinh, thọ bí pháp, nhập thất... để cầu mong sinh con Thánh là
sai, không hợp lý, thiếu lô-gic. Qua đoạn kinh trên đây, đức Phật đã xác định
rõ ràng. Vậy, bây giờ các bạn còn tin những điều phi pháp này nữa không?
CẬN TỬ NGHIỆP
Vừa rồi,
chúng tôi được đọc một cuốn sách tựa đề
“Sự Sống Sau Khi Chết”. Đọc
xong cuốn sách này, nếu người nào
không tu tập theo giáo lý Nguyên Thuỷ của đạo Phật và không có chứng nghiệm pháp
hướng tâm, thì chắc
chắn phải tin rằng có thế giới siêu hình. Toàn bộ cuốn sách, tác giả đã
lượm lặt những
mẫu chuyện “cận
tử nghiệp”. Tác giả
này chưa bao giờ tìm hiểu
Phật giáo; và nếu
bây giờ có tìm
hiểu và
nghiên cứu Phật giáo
thì ông ta vẫn hiểu lầm lạc, vì một
đám mây mù của giáo pháp Đại thừa đã che phủ và lấp kín lời dạy của đức Phật.
Những mẩu
chuyện cận tử
nghiệp của bao nhiêu người lâm sàng trên giường bệnh,
trong bệnh viện, đều cho đó là trạng thái của cuộc sống sau khi chết. Họ đâu biết
rằng, trong thân tứ đại này, khi
con người còn sống, thì có
cả hai thế giới hữu hình
và vô hình,
nhưng khi
thân tứ đại
này chết, thì cả hai thế giới đều diệt.
Khi thân này còn sống, cái
gì hoạt động trong
thế giới hữu
hình? Và cái
gì hoạt động trong thế giới vô hình?
Khi còn sống,
con người hoạt động
trong thế giới hữu hình bằng SẮC
THỨC. Sắc thức gồm có sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân
thức và ý thức; còn hoạt động trong thế
giới vô hình thì chỉ bằng TƯỞNG THỨC.
Bình thường, trong cuộc sống hằng
ngày, chúng ta sống, làm mọi
việc, thì ý thức
điều khiển hoạt động do ý căn
(bộ óc và thần kinh). Khi ý
thức ngưng hoạt động giống
như người đang
ngủ, thì tưởng thức hoạt
động, sinh ra giấc mộng
(chiêm bao), cũng do ý căn
(bộ óc và hệ thần
kinh). Cho nên, nếu một người bị bệnh tim, gan, phèo, phổi, v.v...
khi một trong những bộ phận đó ngưng hoạt động, người bệnh
được xem như chết, nhưng
thật sự chưa chết hẳn. Ý thức
ngưng hoạt động, hơi thở dừng, tim
không đập, nhưng
hệ thần kinh tưởng còn hoạt
động, tức là
tưởng thức hoạt
động (chiêm bao). Giấc chiêm
bao đó mọi người
gọi là “cận tử nghiệp”.
Thông thường,
trong cuộc sống, họ ưa thích làm những điều
thiện, điều ác,
đi chùa, đi nhà
thờ, cúng bái, tụng niệm,
ngồi thiền, ước vọng
được sanh lên Thiên Đàng gặp Chúa, được vãng sanh về Cực Lạc Tây Phương gặp đức
Phật A Di Đà, được thấy
hào quang, ánh
sáng của chư Thiên, chư Phật, Bồ Tát, v.v... Đó là những
người được theo các tôn giáo và được
giáo pháp của các
tôn giáo ghi
những ấn tượng vào đầu óc của họ, bằng những hình ảnh Chúa, Phật, ánh sáng, hào quang, hoa sen,
thì cận tử nghiệp
của họ sẽ thể
hiện giấc mộng y như hình ảnh đó. Lợi dụng cận tử nghiệp, Tịnh Độ tông sử dụng
hộ niệm để giúp người sắp chết
thực hiện giấc mộng trực
vãng Tây Phương. Tịnh Độ tông nghĩ rằng nghiệp cuối cùng (cận tử nghiệp)
có thể thực hiện được những ước ao và ý
nguyện của con người lúc còn sống.
Đó là về phần của những
người có tôn
giáo. Còn những người
không tôn giáo,
thì cận tử nghiệp thực hiện giấc mộng theo tâm ham
muốn danh lợi, thương yêu, mến tiếc, giận hờn, tức tối, thù hận,
căm ghét, la
hét, sợ hãi,
v.v... Đó là những điều
làm ác, ngược lại, làm thiện thì cũng thấy cảnh vui tươi, hoan hỷ, sung sướng,
v.v...
Vì huân
tập thành thói
quen (nghiệp lực), lúc sắp chết,
tưởng thức hoạt động từa tựa như giấc
chiêm bao. Giấc chiêm bao chỉ có sáu thức ngưng hoạt động, còn toàn bộ cơ thể đều
hoạt động bình
thường. Người sắp chết cũng ở
trong trường hợp
này. Sáu thức
ngưng hoạt động là do một tạng phủ
nào bị hư hoại, không hoạt động được, chớ không giống như người ngủ chiêm bao.
Khi tưởng thức
hoạt động, người ta thấy mình xuất hồn
ra khỏi thân
và thấy thân
đang nằm trên giường bệnh, các y,
bác sĩ đang làm hô hấp, cứu chữa. Lúc bấy giờ, duyên năm uẩn chưa phân ly, nên tưởng thức
hoạt động, bệnh
nhân như
nằm mộng, thấy
hào quang, ánh sáng, chư Thiên Thần, chư Tiên, chư Phật, chư Bồ Tát, Ngọc
Hoàng, Thượng Đế, Quỉ Sứ,
Ngưu Đầu, Mã Diện, vua Diêm La,
v.v... Nhờ hô hấp cứu chữa của y,
bác sĩ, bệnh nhân tỉnh lại, giống như một giấc mộng, và kể lại
cho những người thân
nghe và cho rằng: “Chắc
chắn có sự sống sau khi
chết”. Con người không
ngờ, đó là một hình
bóng do tâm ước muốn mà tưởng thức
thể hiện qua giấc mộng.
Nếu thật sự
năm duyên ngũ uẩn phân ly, tan rã, thì chẳng còn gì là của ta nữa hết, chỉ còn
lưu lại nghiệp thiện,
nghiệp ác, rồi
cũng theo vô minh
(tương ưng với
vô minh theo
hành động nhân quả của kẻ khác)
mà tái sanh, luân hồi kiếp khác. Cứ mãi mãi như vậy, trôi lăn trong dòng nước
nghiệp muôn kiếp, muôn đời.
Tóm lại, con
người từ nhân quả sanh ra, sống trong nhân quả, và chết trở về nhân quả. Chẳng
có thế giới siêu hình, chẳng có đấng tạo
hoá nào cả, chẳng ai sanh ra chúng ta cả, và cũng chẳng
có ai ban
phước, giáng họa
cho ta được. Nếu chính chúng ta
biết dừng dòng nước nghiệp, thì tất cả tai
nạn, bệnh tật,
đau khổ và sự tái sanh, luân hồi
đều chấm dứt.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!