Những điều
con hỏi là đúng sự thật, kinh này dạy
bói khoa là một điều
mê tín. Những kinh sách
phát triển mê
tín, lừa đảo này
không đáng cho người phật tử tin cậy.
Từ lâu quý vị đã lầm
lạc không hiểu,
hôm nay đã hiểu thì quý vị hãy
từ bỏ, xa lìa nó như từ bỏ, xa lìa một bịnh truyền nhiễm.
(Trích ĐVXP
-4-58-62 Tập 8, 326-320 và 9-23)
NGƯỜI TU
THEO PHẬT PHẢI TU ĐÚNG PHÁP, ĐÚNG CÁCH, ĐÚNG CĂN CƠ, ĐẶC TƯỚNG, VÀ PHẢI BIẾT
NHỮNG LOẠI KINH SÁCH NÀO MÊ TÍN, KHÔNG PHẢI
CỦA ĐỨC PHẬT
THUYẾT
Hỏi:
Kính bạch Thầy! Đạo Phật chủ trương phải
tự cứu mình, tức là phải dùng sức tự lực
của bản thân để ly dục, ly ác pháp, không làm khổ mình, khổ
người và khổ
muôn loài chúng
sanh, giải thoát sanh tử khổ
đau luân hồi của kiếp người.
Vậy thì tại sao lại
có các loại
kinh Thủy Sám, Lương Hoàng Sám,
Pháp Hoa, A Di Đà, Địa
Tạng, Vu
Lan Bồn... dạy
toàn tha lực, tức
là lo tụng niệm van xin chư Phật,
chư vị Bồ tát, Thiên long bát bộ, Hộ pháp
già lam, chư vị
thiện thần gia hộ cho
tai qua
nạn khỏi, bịnh tật tiêu
trừ hoặc tiếp dẫn hương linh về cõi Cực Lạc Tây Phương của đức Phật A
Di Đà.
Như vậy có quá
mâu thuẫn không thưa Thầy, xin Thầy vạch rõ chỗ đúng sai để chúng con được biết.
Đáp: Kinh
sách Đại thừa phát triển là kinh sách chịu ảnh hưởng của Bà La Môn giáo, nhất
là chịu ảnh hưởng của
kinh sách Vệ Đà thuộc
về tư tưởng văn minh Ấn Độ,
nhưng khi truyền sang qua các nước lân cận thì nó lại tiếp thu
những sự mê tín và lạc hậu của dân tộc các nước khác, nên kinh sách Đại thừa là
một loại kinh sách tập hợp nhiều tư tưởng
và những phong tục
tập quán của con người. Có thể gọi
kinh sách này là
kinh sách bị thế
tục hóa, có
nghĩa là khi
nó truyền vào một thời kỳ
nào của xã hội thì nó bị đồng hóa với xã hội đó.
Ví dụ:
Kinh sách này
truyền vào gặp thời
phong kiến thì nó
bị đồng hóa với thời
phong kiến. Với tư bản thì nó
bị đồng hóa với tư bản;
với khoa học thì nó bị đồng hóa với khoa học.
Kinh sách Đại
thừa không có một đường lối riêng biệt, mà chỉ là một sự vay mượn, một chiếc áo
chắp vá nhiều miếng vải. Cho nên nó chẳng có gì đặc biệt cả, chỉ nhai lại đờm
dãi của kẻ khác, nhưng muốn nuốt cho trôi đờm dãi đó, nó đã khéo dùng những
danh từ để
làm cho người khác
khó
nhận ra, tưởng
đó là một giáo lý mới mẻ. Nhưng
không ngờ, những
người hiểu biết
đã thấy rõ nó
đi giẫm lại lối mòn của người xưa.
Vì thế,
những danh từ
Lương Hoàng Sám, Thủy Sám, Pháp Hoa, Viên Giác, Thủ Lăng
Nghiêm, A Di
Đà, Địa Tạng, Vu
Lan Bồn, Bát Dương,
Thập Vương, Lăng
Già, Hoa Nghiêm... Tất
cả những loại
kinh sách này là
tư tưởng của ngoại đạo chứ không phải của Phật giáo,
mà đã không phải của Phật giáo
thì làm sao chúng ta cho Phật giáo có mâu thuẫn với Phật giáo
được.
Chúng ta chỉ cần biết kinh sách
này không làm lợi
ích cho con người, nó chỉ là một mánh khóe lừa đảo con người làm những điều
phi đạo đức và rất tai hại cho con người.
Hỏi:
Kính thưa Thầy! Thầy dạy chúng con hằng
ngày phải tu cho đúng pháp, đúng cách, đúng căn cơ đặc tướng của mình, song chúng con chưa thấu triệt lắm, kính mong Thầy chỉ dạy cho chúng con để được thâm
hành Phật pháp, và giải thoát thân tâm.
Đáp: Muốn tu
tập đúng pháp, đúng cách, đúng căn cơ đặc tướng, thì phải như thế nào?
Chúng ta nên
chia vấn đề này làm ba phần:
1- Đúng
pháp.
2- Đúng
cách.
3- Đúng căn
cơ đặc tướng.
I/ ĐÚNG
PHÁP:
Sau khi
nghiên cứu tường
tận biết rõ
pháp môn nào là của Phật, pháp môn nào không phải của Phật.
Ví dụ:
1- Pháp môn
của Phật là pháp xả tâm, chứ không phải là pháp môn ức chế tâm.
2- Pháp môn
của Phật là pháp môn vô ngã ác pháp, hữu ngã thiện pháp.
3- Pháp môn
của Phật là pháp môn ngăn ác, diệt
ác pháp, sanh thiện,
tăng trưởng thiện pháp.
4- Pháp
môn của Phật
là pháp môn
toàn thiện.
5- Pháp môn
của Phật là một pháp môn đạo đức
nhân bản, không
làm khổ mình,
khổ người và khổ tất cả chúng
sanh.
6- Pháp môn
của Phật là một pháp môn huấn luyện tâm, rèn luyện tâm, như lý tác ý.
7- Pháp môn
của Phật là một pháp môn dùng để dẫn tâm vào đạo đức làm người.
Nếu các con
biết rõ đúng pháp thì sẽ tu tập đúng pháp. Ngoài bảy sự hiểu biết trên đây là
đúng về
Phật pháp, còn lại là sự hiểu
sai, hiểu sai Phật pháp tức là tu
sai, tu sai thì phí công vô ích mà
còn tạo thêm
gánh nặng cho phật
tử (tín đồ) cúng đường.
Cho nên, trước
khi tu thì phải nghiên cứu cho tường tận lời dạy của đức Phật rồi mới tu.
II/ ĐÚNG
CÁCH:
Tu tập đúng
cách tức là tu tập xả tâm, xả tâm đúng cách tức là khéo léo thiện xảo, tu tập
đúng cách là không bao giờ ức chế tâm.
Tu tập
đúng cách là phải biết
pháp nào tu trước, pháp nào tu sau...
Ví dụ:
Như pháp
Tam Vô Lậu Học
thì giới luật phải tu trước. Sau khi tu Giới Luật xong,
nghĩa là sống đúng giới luật không có vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào thì mới
tu tập thiền
định, còn vi phạm giới luật
dù là một giới rất nhỏ thì cũng
còn phải tu giới luật trở lại, chứ không được tu thiền
định, chừng nào giới
luật thanh tịnh
thì mới bắt đầu tập
tu Thiền Định. Sau khi nhập xong Tứ
Thiền thì mới bắt đầu tu Trí Tuệ, thiền định chưa xong mà vội
tu trí tuệ là
tu sai, tu như vậy
trở thành tưởng tuệ chứ không phải
là trí tuệ.
Cũng như
tu tập Tứ
Thánh Định thì phải tu tập
Sơ Thiền trước tiên,
sau khi Sơ Thiền được sung
mãn thì mới tu tập Nhị
Thiền, sau khi Nhị Thiền được
sung mãn thì mới tu tập Tam Thiền, sau khi Tam Thiền được sung mãn
thì mới tu tập Tứ Thiền.
Nếu chúng ta
tu tập không đúng cách thì cũng giống
như con bò, chân trước
chưa bước mà chân sau đã bước thì con bò không thể nào đi
được. Cũng giống như vậy, người
tu sĩ đạo Phật giới luật
chưa nghiêm trì mà tu thiền định
thì chẳng bao giờ có thiền định được, thiền định của những
người tu
sĩ phạm giới
là thiền định
tưởng. Đó là những người tu không đúng cách.
III/ TU TẬP
ĐÚNG CĂN CƠ ĐẶC TƯỚNG:
Nếu tu tập
không đúng căn cơ của mình thì cũng giống
như người nhạc sĩ lên dây đàn, căng quá
thì đứt dây,
chùng quá thì
không thành tiếng. Do đó,
khi tu hành chúng ta phải biết
căn cơ của mình. Vậy muốn biết
căn cơ của mình
thì phải biết như thế nào?
Căn cơ của chúng ta thể hiện qua nhân tướng và hành tướng. Vì thế, khi tu
tập chúng ta nên tu tập theo nhân tướng và
hành tướng tự nhiên của mình.
- Ví dụ:
Hành tướng
ngoại tự nhiên của mình đi chậm, khi
tu tập
thì phải theo hành
tướng đi chậm
mà tu, không được
đi nhanh, cũng
không đi quá chậm.
Khi hành tướng
tự nhiên của
mình đi nhanh thì tu
tập không được
đi chậm, hoặc
quá chậm hoặc quá nhanh, phải đi
với tướng tự nhiên của mình.
Hành tướng nội
tự nhiên của mình khi hơi thở chậm thì nên
tu tập theo
hơi thở chậm,
hơi thở nhanh thì nên
tu tập theo
hơi thở nhanh,
không nên hơi thở chậm mà
khi tu tập
thì lại thở nhanh,
cũng như hởi thở nhanh mà khi tu
tập thì lại thở chậm,
tu như vậy không
tự nhiên. Không tự nhiên thì có sự ức chế, mà có sự ức
chế thì có chướng ngại pháp, có chướng ngại pháp thì không
có giải
thoát ngay liền,
không có sự giải thoát ngay liền là
tu sai pháp Phật,
tu sai pháp Phật tức là tu theo pháp môn của ngoại đạo.
Nhân tướng
là hình dáng
cơ thể, có người
có nhân tướng cao, nhưng cũng có người có nhân tướng thấp, người đẹp,
người xấu, người trắng, người đen, người mập, người ốm, người mặt dài, mặt ngắn,
mặt vuông, mặc chữ điền,
mặt bầu, mặt tròn... Tất cả mọi hình
tướng khác nhau đều gọi là nhân tướng.
Người tu
theo đao Phật không nên vì nhân tướng
mà tu tập
hay ước mơ có
một nhân tướng đẹp như Phật, 32 tướng tốt tám mươi vẻ
đẹp. Ba mươi hai tướng
tốt tám mươi vẻ đẹp
có còn đâu, khi đức Phật nhập Niết bàn chỉ còn lại một
nắm xương vụn bất tịnh thiêu chưa cháy hết.
Mục đích của
đạo Phật là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ chứ không phải là tướng
tốt. Dưới đôi mắt của Phật thì nhân
tướng của con người chỉ là tứ đại
duyên hợp, bất tịnh, uế trược,
không có đáng
cho chúng ta
quan tâm. Nhưng trong
khi tu tập chúng
ta phải biết sử
dụng nó
như một con ngựa
để đi đường
xa vạn dặm. Vì thế,
chúng ta phải
biết cách khi thì dụ dỗ khi thì ra lệnh, chứ không bắt
ép nó tu tập nhiều thì cũng không
tốt, mà tu tập ít thì cũng không có lợi, không được khổ hạnh
ép xác, mà cũng không được lợi dưỡng phá giới luật.
Ngày nay tu
tập phải tùy theo đặc tướng của mình mà
thực hiện cho đúng pháp, thì có kết quả lợi ích rất lớn.
SANH ĐÃ TẬN,
PHẠM HẠNH MỚI XONG
Trong kinh Thập
Nhị Nhân Duyên
đức Phật đã dạy: Người mới vào
tu, phải tu tập đoạn dứt duyên “sanh”.
Kinh Thập
Nhị Nhân Duyên
có mười hai duyên
như mắt xích sắt,
duyên này có thì
duyên kia có, duyên này diệt thì duyên
kia diệt. Kinh này bắt đầu từ
duyên “vô minh” như sau:
1- Vì
vô minh không thấu
rõ các pháp
thế gian, lầm chấp chúng là thật có nên hành động chạy theo
tâm ham muốn,
sanh ra các ác
pháp, tạo biết bao nhiêu
nghiệp khổ đau, do thế
kinh dạy: “Vô minh sanh hành”.
2- Hành động theo
lòng ham muốn dục lạc chạy
theo ái dục
sanh ra thức,
nên kinh dạy: “Hành sanh thức”.
3- Thức kết hợp
noãn châu và
tinh trùng sanh ra danh sắc, nên kinh dạy: “Thức sanh danh sắc”.
4- Danh sắc là
thân và tưởng
của con người, lần lần
phát triển đầy đủ: mắt,
tai, mũi, miệng, thân và
ý. Mắt, tai, mũi,
miệng, thân và
ý tiếp xúc với sáu trần bên
ngoài, nên kinh dạy: “Danh sắc sanh lục nhập”.
5- Lục nhập
có nghĩa là sáu căn và sáu trần. Sáu căn
gồm có: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Sáu trần gồm có: sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp. Sáu trần tiếp xúc
sáu căn, nên
kinh dạy: “Lục nhập sanh ra xúc”.
6- Xúc tạo
ra sự va chạm
êm ấm, ngọt
bùi, khả hỷ, khả lạc, nên kinh dạy: “Xúc sanh ra thọ”.
7- Thọ sanh ra cảm giác thích thú, cảm mến, giận hờn,
thương ghét, nên kinh
dạy: “Thọ sanh ra ái”.
8- Ái là yêu
mến, thương mến, ưa thích nên cố giữ lại, bảo thủ không muốn xa lìa, nên kinh dạy:
“Ái sanh ra thủ”.
9- Thủ là giữ lại,
không để cho mất
mát, gọi là bảo thủ, nên kinh dạy:
“Thủ sanh ra hữu”.
10- Hữu là có, có vật này, vật kia như:
thân tứ đại, thân
ngũ uẩn, nhà cửa, của cải tài sản,
tiền bạc, cha, mẹ, anh em, chị em, bà con quyến thuộc, thân bằng, v.v... nên
kinh dạy: “Hữu sanh ra sanh”.
11-
Sanh, phải nói đủ là
“SANH Y”, sanh là của
cải, tài sản, vật chất,
sự nghiệp, cha mẹ,
vợ con, anh em, chị em, thân bằng quyến thuộc, bạn bè, v.v... như trên
đã nói. Do thế, khi tài sản của
cải bị mất thì sanh
ra buồn rầu, bịnh
khổ mà chết, cha mẹ
vợ con chết cũng
sanh ra buồn rầu, đau khổ phiền
lòng, nên kinh dạy: “Sanh sanh ra ưu bi, sầu khổ, bệnh, chết”.
12- Ưu bi, sầu
khổ, bệnh chết là duyên cuối cùng của mười hai duyên này, hợp lại thành thế giới
khổ đau của kiếp người.
Sau khi
quán xét
Mười Hai Nhân
Duyên, cái này có thì cái kia có,
cái này diệt thì cái kia diệt.
Như đã nói ở
trên, Mười Hai Nhân Duyên này hợp lại là
thế giới đau khổ của con người thành hình,
Mười Hai Nhân
Duyên này rã
tan là thế giới hết khổ đau, hoại diệt.
Muốn thoát
khổ thì Mười
Hai Nhân Duyên này phải rã tan. Vậy, rã tan như thế nào và duyên nào rã trước?
Muốn triển
khai “Minh” trí tuệ,
các nhà Đại thừa và thiền Đông Độ nhắm vào duyên vô
minh phải phá trước bằng “Minh”, minh tức là trí tuệ.
Muốn triển
khai “Minh” trí tuệ,
các nhà Đại thừa và thiền Đông Độ dùng pháp hành ức
chế niệm thiện niệm ác, cho tâm không niệm thiện niệm ác là định, và do tâm định
thì phát tuệ (chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền), bản
lai diện mục hiện
tiền là Phật
tánh, mà Phật tánh
là tánh giác,
tánh giác tức
là trí tuệ. Do những pháp hành tu
tập để triển khai trí tuệ như vậy.
Họ đã lầm,
không ngờ đường lối tu tập ấy lại khai mở tưởng
tuệ. Khi tưởng tuệ được khai mở
thì lý luận của
các nhà sư Phật
giáo phát triển siêu
việt tưởng, nên
không tôn giáo
nào tranh luận hơn được, nhất
là lý Bát
Nhã. Do lý luận siêu việt tưởng Bát Nhã nên nó đã phá
luôn Phật giáo chính gốc (vô khổ, tập, diệt, đạo).
Còn Phật
giáo Nguyên Thủy
chính gốc không có
lý luận tranh hơn thua, không
có lý luận
siêu việt tưởng như vậy, chỉ dạy thẳng đời người rất là khổ, nguyên
nhân sinh ra đau
khổ, trạng thái tâm hết khổ đau và tám cách thức tu tập để diệt nguyên nhân sinh
khổ. Những pháp hành này cụ thể để mọi người ai cũng tu được, cũng thực hiện được
sự giải thoát hết khổ như nhau.
Vì thế, kinh
điển Nguyên Thủy nhắm vào duyên
“sanh” để đoạn dứt nó, đoạn dứt nó
thì ưu bi, sầu khổ, bịnh chết cũng đoạn dứt, nên kinh thường
nhắc đi nhắc lại: “Sanh
đã tận Phạm hạnh mới xong”.
Nếu một người
tu tập quyết tìm đường giải thoát ra khỏi cuộc sống trần lao này, thì phải
buông xả như đức Phật và các bậc Thánh tăng: Không trang
điểm làm đẹp, của cải
tài sản bỏ sạch,
cha mẹ, anh
em, chị em, vợ con đều bỏ xuống hết, như trong bài “Vượt thoát” đã dạy.
Đó là bứt tất cả những
sợi dây xiềng
xích đang trói rất chặt mọi người. Chỉ có những bậc chân tu thấy được
nhân quả, nên họ đã mạnh
dạn dứt bỏ sạch để vượt thoát cảnh đời thế tục.
Sự dứt bỏ vượt
thoát này không phải ai cũng làm được, tuy
nói rất dễ
nhưng làm rất
khó. Người tầm thường
không thể làm được, trong kinh dạy rất đơn giản: “Sanh đã tận phạm hạnh mới xong”, hoặc: “Duyên sanh
dứt thì bịnh tử, sầu khổ, ưu bi dứt”. Những danh từ nghe thì dễ dàng,
nhưng đương đầu trước của cải, tài sản châu báu, ngọc ngà cùng cha mẹ, anh em, chị
em, vợ con, xả bỏ hay đoạn tận là một việc không phải dễ làm.
Nếu không
đoạn tận sanh
y, thì không thể thực hiện được con đường giải thoát của đạo
Phật.
Tại sao vậy?
Tại vì đạo Phật gọi là đạo giải
thoát, mà không bứt được những sợi
dây xiềng xích vô hình đó đang trói buộc thì làm sao gọi là giải thoát được?
Hiện giờ, những
người đang tu theo đạo Phật “đời chẳng muốn bỏ mà đạo lại muốn làm thêm”,
hai tay
đều nắm hết.
Do thế, cuộc sống
tu hành đời chẳng ra đời, đạo chẳng
ra đạo.
Hiện giờ,
quý Thầy và các tu sĩ tu hành chẳng đến đâu, chỉ vì tu theo kiểu đời chẳng ra đời,
đạo chẳng ra đạo, rất uổng công cho một đời tu hành. Tu mãi để chỉ còn lấy Phật
giáo làm danh làm lợi cho cuộc sống thế tục.
Tu theo
phật giáo, người
tu hành phải
đoạn dứt “sanh y”,
có đoạn sanh
y thì tâm mới có
thanh tịnh; tâm có
thanh tịnh thì tâm
mới nhập thiền định;
tâm nhập được
thiền định thì tâm mới làm chủ được sự sống chết.
Người không
đoạn dứt “sanh y” không thể nào ly dục,
ly ác pháp và nhập Tứ Thánh
Định được, do không ly dục, ly ác
pháp và nhập Tứ Thánh Định được thì không còn pháp nào tu tập
làm chủ sanh tử và chấm dứt luân hồi.
Đường về xứ
Phật không khó, nhưng khó cho những ai không muốn dứt bỏ đời sống dục lạc và tình cảm thương mến ở thế gian.
Pháp môn tu
hành của đạo Phật không có gì huyền
bí và vĩ đại,
chỉ cần hiểu
rõ đời sống thế
gian là khổ vô
vàn và khổ
muôn kiếp, đời sống
xuất thế gian là
dứt khổ, hết khổ,
thì chỉ còn một đời sống
thế này nữa
mà thôi, một đời sống tu theo đạo
Phật hoàn toàn sẽ chấm dứt khổ.
CHÂN LÝ TẬP
ĐẾ
Định Vô Lậu
câu hữu với Tập Đế, tức là chúng ta
quán xét nguyên
nhân sanh khởi sự khổ
đau của con người để thấu rõ nó, có thấu rõ nó chúng ta mới cố gắng ngăn
chặn diệt trừ và đoạn dứt.
Vậy Tập Đế
là gì?
Chữ Tập có
nghĩa là nơi tập hợp mọi sự đau khổ, phiền não của con người,
Tập còn có
nghĩa
là nơi chứa
nhóm, dồn thêm mỗi ngày một nhiều hơn.
Chữ Đế
có nghĩa là sự thật,
đúng đắn không sai. Tập Đế
là một nguyên
nhân của mọi sự khổ đau đã
chứa nhóm và
tích trữ lâu đời nhiều
kiếp trong mỗi chúng sanh. Nói một cách khác hơn, đó là cội gốc sanh tử
luân hồi của loài người.
Cội nguồn
sanh ra mọi đau khổ phiền não của con người gồm có 10 phiền não gốc là:
1/ THAM: có
nghĩa là lòng tham lam.
Hòa thượng
Thiện Hoa dạy: “Tánh tham có động lực bắt ra phải dòm ngó, theo dõi những cái
gì nó ưa thích, như tiền tài, danh vọng, miếng ăn, chỗ ở,
v.v... rồi xúi
ta lập mưu nầy,
chước nọ để tầm
kiếm cho được những
thứ ấy. Điều
tai hại nhất là lòng tham không đáy, thâu góp bao nhiêu cũng không vừa;
được một muốn có mười, được mười muốn có
trăm. Tham cho mình
chưa đủ, và còn tham
cho bà con quyến thuộc
và xứ sở của
mình. Cũng vì
tham mà ăn
không ngon, ngủ không yên; cũng vì tham mà cha mẹ vợ con
xung đột; cũng vì
tham mà bè bạn chia
lìa; cũng vì tham mà đồng bào trở lại xung đột, xâu xé
nhau; cũng vì tham mà chiến tranh tiếp
diễn, giết hại không
biết bao sanh linh. Tóm lại,
cũng vì tham mà nhân loại và
chúng sanh chịu không biết bao
nhiêu điều thống khổ”.
Lòng tham
đã mang đến
không riêng cho chúng ta khổ mà còn cả mọi người,
không những
trong quá khứ, hiện tại mà
còn có thể
kéo dài trong tương lai nữa.
2/ SÂN: có
nghĩa là nóng giận.
Hòa thượng
Thiện Hoa dạy: “Khi gặp những cảnh
trái ý nghịch
lòng, như lòng
tham không được toại
nguyện, thì sân nổi
lên, như một ngọn lửa
dữ đốt cháy
lòng ta. Thế
là mặt mày đỏ
tía hay tái xanh,
bộ dạng thô bỉ, nói
năng hung dữ, có khi dùng
đến võ lực
hay vũ khí để hạ kẻ làm
trái ý, phật lòng mình. Vì nóng giận mà
cha mẹ, vợ con, anh em xa lìa, bạn bè ly tán; vì nóng giận mà mọi
người trở nên
thù địch, nhân
loại đua nhau ra chiến trường;
vì nóng giận mà kẻ bị tàn
tật, người vào
khám đường, kẻ mất địa vị,
người tan sự nghiệp.
Kinh dạy:
“Nhất niệm tâm sân khởi, bách vạn chướng
môn khai”, có
nghĩa là một niệm nóng giận
nổi lên thì trăm
ngàn cửa nghiệp
chướng đều mở ra.
Sách xưa dạy:
“Nhất tinh chi hỏa, năng
thiêu vạn khoảnh công đức chi
sơn”, có nghĩa là một đóm lửa giận
có thể thiêu đốt sạch muôn mẫu rừng
công đức. Thật vậy, lửa
sân hận đã bừng cháy lên giữa
lòng nhân loại và đã đốt thiêu
không biết bao nhiêu
công lao, sự
nghiệp mà con người đã tốn biết
bao nhiêu mồ hôi nước
mắt mới tạo ra được”.
3/ SI: có
nghĩa là si
mê, mờ ám, biết không rõ, không chính xác, không đúng.
Hòa thượng
Thiện Hoa dạy:
“Si như là một
tấm màn dày đặc, đen tối trùm lên trí tuệ của ta, làm cho ta
không thể nhìn
thấy được sự thật,
phán đoán được
cái hay cái dở, cái tốt, cái xấu.
Do đó, ta gây ra không biết bao nhiêu tội lỗi, cái xấu làm hại mình, hại người mà không hay, Vì si mà lòng tham trở
thành không đáy, bởi vì nếu người
sáng suốt thấy
cái tai hại của
lòng tham, thì người ta đã kềm
hãm được một phần nào tánh tham. Vì ngu si mà lửa giận bừng cháy; nếu người sáng suốt
biết cái tai hại
của lửa sân
thì không để cho nó hoành hành như thế.
Người xưa dạy:
“Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác
tri”, có nghĩa
là không sợ tâm
tham và sân, mà chỉ sợ tâm si mê. Nếu tâm tham sân nổi lên mà có trí tuệ sáng
suốt ngăn chặn lại, thì lòng tham sân phải bị dập tắt, không còn làm gì được cả.
Cho nên đạo Phật lấy trí tuệ làm đầu, nếu đã có trí tuệ sáng suốt thì lòng tham
sân không thể tồn tại được,
cũng như khi đã
có ánh sáng mặt trời lên thì bóng
tối tất nhiên phải tan biến.
Đức Phật thường
gọi là tham sân si là ba độc, nó thường làm
đau khổ chúng sanh và
phải chịu nhiều kiếp sanh tử luân
hồi, đọa vào ba cõi: địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh”.
4/ MẠN: có
nghĩa là ngã mạn, kiêu
căng, tự đắc.
Hòa thượng
Thiện Hoa dạy:
“Là nâng cao mình
lên và hạ người khác
xuống; tự thấy
mình là quan trọng mà
khinh rẻ mọi người;
ỷ mình có tiền của tài trí, có học thức, có bằng cấp
cao như thạc sĩ, tiến
sĩ hay có quyền thế
mà sanh âm sanh dương với người đức hạnh, chà đạp kẻ
dưới, lấn lướt người trên.
Vì lòng
ngã mạn tự
kiêu tự đại
cho mình là hơn hết, nên chẳng chịu
học hỏi thêm những điều hay lẽ phải. Do đó làm nhiều điều lầm lẫn sai quấy, gây
ra bao nhiêu tội
ác, phước lành tổn
giảm, tội lỗi càng tăng, cho nên phải chịu sanh tử luân hồi muôn đời ngàn kiếp”.
MẠN CÓ BẢY
THỨ
1- Mạn: Nghĩ
mình hơn người.
2- Ngã mạn: Ỷ
mình hay giỏi
mà lấn lướt người.
3- Quá mạn:
Mình bằng người
mà cho là hơn người, người hơn mình mà cho là bằng.
4- Mạn quá mạn: Người
hơn mình nhiều
mà cho mình hơn người.
5- Tăng thượng
mạn: Chưa chứng Thánh quả mà cho mình đã
chứng
6- Ty liệt mạn:
Mình thua người nhiều mà nói mình thua ít.
7- Tà mạn:
Người tu về
tà mạn được
chút ít thần thông, hoặc hiểu biết
đôi chút việc quá khứ,
vị lai, rồi khinh
lướt người khác,
xem trời đất không còn ai.
5/ NGHI:
có nghĩa
là lòng nghi
ngờ, ngờ vực, không tin.
Hòa thượng
Thiện Hoa dạy: “Người nghi ngờ không
làm được việc
gì hết. Đối với
người thân trong gia
đình, họ không
tin cậy giao phó công việc; đối với bạn bè, họ nghi ngờ tất cả
mọi thiện chí. Ngay đối với họ, họ cũng
không tự tin, họ còn gây hoang mang cho người chung
quanh, làm cho người ta ngã lòng thối chí”.
Đối với đạo lý
chân chánh như đạo Phật,
có một nền đạo đức nhân bản giải
thoát tuyệt vời mà
họ cũng không
tin, nhưng họ lại
tin theo tà giáo và những pháp
môn mê tín, trừu
tượng của kinh sách phát triển.
NGHI NGỜ CÓ
BA
1- Tự nghi:
Có nghĩa là nghi mình. Chẳng hạn
như đọc
kinh sách đức Phật dạy: “Tu
hành sẽ được giải thoát”, nhưng lại
tự nghĩ rằng: “Chẳng biết mình tu
có được không?”
Vì lòng do dự nghi ngờ ấy, nên không chịu tu hành.
2- Nghi
pháp: Có nghĩa là nghi phương pháp mình
đang tu. Chẳng
hạn như nghe
kinh Tứ Chánh Cần dạy: “Ngăn
ác diệt ác
pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện
pháp” thì sẽ được giải thoát ngay liền, hay như trong kinh Pháp Cú dạy:
“Chư ác
mạn tác, chúng
thiện phụng hành,
tự
tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo”. Do sự nghi ngờ lời
dạy này không biết kết quả có đúng hay không, nên không tu tập.
3- Nghi
nhân: Có nghĩa
là nghi người
dạy mình, không tin ông
thầy dạy mình,
nghi pháp mình đang tu
không đúng chánh
pháp của Phật. Khi chánh pháp của Phật dạy mà
mình nghi là không giải pháp của Phật thì đó là
mình đã mất pháp chân chánh. Còn thầy dạy
mình tu học mà mình nghi thầy là
mình đã bị đứt đầu không còn cách cứu chữa
được.
Ở tại tu viện
Chơn Như chúng
tôi có một số
đệ tử ham mê thần thông, nhưng chúng tôi không thể hiện thần thông, nên họ mất
niềm tin và không theo tu tập với chúng tôi nữa. Mục đích tu viện của
chúng tôi hướng
dẫn tu tập xả tâm,
ly tham, đoạn diệt các ác pháp, để đạt được tâm giải thoát không còn phiền
não, khổ đau, không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa,
giúp cho con người có một đời sống đạo đức
không làm khổ
mình, khổ người. Đấy
là hạnh phúc
giải thoát chứ không phải ngồi thiền nhập định năm bảy
ngày, hoặc kiến tánh thành Phật, hoặc tụng kinh niệm chú cho có thần thông phép
lạ, hoặc niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc Tây Phương, v.v...
Ở đây
chúng tôi dạy
đúng theo đường
lối tu tập của đạo Phật, là hằng
ngày không có tụng niệm, lần chuỗi, ngồi thiền ức chế tâm, mà chỉ có sống đúng
giới luật và
theo như những
lời dạy trong kinh Tăng Chi tập 3
trang 30: “Ở đây, này
các Hiền giả,
Tỳ kheo ưa công việc, thích thú nói chuyện; ưa ngủ nghỉ; ưa hội chúng, thích
thú hội chúng, chuyên tâm
ưa thích hội chúng,
ưa liên lạc giao
thiệp, thích thú
liên lạc giao
thiệp, chuyên tâm ưa
thích liên lạc giao
thiệp; ưa hý luận,
thích thú hý luận, chuyên
tâm thích hý luận.
Như vậy, này các Hiền giả, Tỳ kheo sống nếp
sống như vậy,
khi lâm chung
không được hiền thiện. Này các Hiền
giả, đây gọi là Tỳ kheo ái lạc có
thân, không từ bỏ có
thân để chân chánh chấm dứt khổ đau”. Đây là lời dạy
chân chánh của đức Phật, muốn tu theo đạo Phật thì phải tu
đúng pháp, sống
đúng pháp như lời dạy thì mới
có giải thoát.
Còn tổ chức
gia đình phật tử này, đạo tràng
nọ thì chỉ là một hình
thức Phật giáo Đại thừa, chứ
tu tập chẳng
có kết quả gì,
chỉ là một
trò giải trí lành
mạnh như bao nhiêu trò giải trí lành mạnh khác của
xã hội. Đó là những người đi tìm ái lạc
của thân, vì họ là những người dư thừa thời gian, không biết làm gì cho hết tuổi
đời. Nếu không từ bỏ những trò giải trí
này thì không bao giờ
chân chánh chấm dứt
sự khổ đau.
Nếu quý vị
không tin lời chúng tôi nói thì nên đọc lại đoạn kinh trên rồi suy ngẫm, và xét
lại từ xưa đến nay biết bao nhiêu đạo tràng và gia đình phật tử, họ đã được giải
thoát những gì với con đường giải thoát này. Đối với đạo Phật, thời gian sinh
hoạt của quý vị như vậy rất là uổng phí, vì “được thân người là khó”, nên đức
Phật đã nhắc nhở:
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!