Â
HÀNH PHÁP TỨ
NIỆM XỨ
LỜI PHẬT DẠY
‚Này Ananda, nếu
Tỳ kheo an trú trong an
trú này (bất động tâm),
tâm vị ấy hướng đến đi kinh hành,
vị ấy đi kinh hành và nghĩ rằng: ‚Trong khi ta đang đi
kinh hành, thời tham và
ưu, các ác bất thiện pháp không chảy vào‛. Ở đây vị ấy ý thức
rõ ràng như vậy. Này Ananda, nếu Tỳ kheo an trú trong an
trú này. Tâm vị ấy hướng đến đứng lại,
vị ấy đứng
lại và nghĩ
rằng:
‚Trong khi
ta đang đứng lại thời
tham và ưu, các ác bất thiện pháp không có chảy vào. Ở đây vị
ấy
ý thức rõ ràng
như vậy?‛.
(Kinh
Trung Bộ tập III trang 306, kinh Đại
Không)
CHÚ GIẢI:
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP IV
Muốn rõ
nghĩa của đoạn kinh này
có những từ các bạn cần phải hiểu nghĩa cho rõ ràng như: an trú trong an
trú. Vậy an trú trong an trú này có nghĩa là gì?
An trú trong
an trú có nghĩa là tâm bất động trước
các ác pháp và
các cảm thọ, nó còn có nghĩa
là không tánh.
Không tánh là tâm
thanh thản an lạc và
vô sự, là đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ
mình, khổ người.
Cho nên, khi
ở trong trạng thái này đang đi kinh
hành biết mình đang đi kinh hành thì
không thấy có niệm nào khởi lên, nếu có
niệm nào khởi lên
thì sự an trú ấy
không còn là an
trú trong an trú nữa, đó là niệm ác, còn niệm thiện khởi thành một dòng suy tư
ly tham đoạn diệt ác pháp, dòng suy tư ấy khiến cho các bạn đang an trú lại an
trú nhiều hơn. Vì thế
dòng suy tư ấy các bạn không
được tác ý diệt
nó, vì diệt nó khiến cho tri kiến giải
thoát của bạn bị diệt mất. Tri kiến giải thoát
của bạn bị diệt
mất là
một điều bất lợi
cho đường tu tập của
các bạn, vì tu tập như vậy các bạn đang ức chế tâm để
tâm rơi vào an trú
trong không tưởng. Không
tưởng tức là
tâm không vọng
tưởng.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Tâm không
vọng tưởng là
tâm không niệm thiện niệm ác. Đó là các bạn đã tu sai
pháp lạc vào thiền Đại Thừa, thiền
Đông Độ và thiền
Minh Sát Tuệ, không
còn tu tập
pháp môn Tứ Niệm Xứ được nữa.
Các bạn
an trú trong
an trú (bất độïng
tâm) thì những dòng suy tầm ác phải đoạn dứt bằng pháp
như lý tác
ý, còn những
dòng suy tầm thiện
thì không được diệt mà hãy
tăng trưởng như trong pháp môn Tứ Chánh Cần đã dạy: ‚Ngăn
ác diệt ác
pháp, sinh thiện tăng
trưởng thiện pháp‛. Cho
nên, an trú trong an trú tức là trong tâm thanh thản
an lạc và vô sự, các bạn nên phân biệt rõ ràng những niệm khởi trong tâm của
các bạn không phải toàn bộ là vọng tưởng
hết. Nhất khi tâm
các bạn hướng đến đứng lại
thì các bạn đứng lại,
trong khi đứng lại
các bạn cũng
phải biết rõ ràng
khi đứng lại
không có một
niệm nào tham, sân, si khởi lên
trong khi đứng lại. Đó là các bạn đang an trú trong an trú.
Như vậy,
các bạn biết đức Phật
đã nhắc nhở và chỉ dạy rõ
ràng khi đi biết rõ
mình đi nhưng phải
an trú trong
tâm thanh thản,
an lạc và vô sự, khi ở trong trạng
thái an trú ấy ý
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP IV
thức phải
biết rõ không có một niệm
nào khởi vào và như vậy mới thật
là an trú trong an trú.
Khi đang
an trú như vậy tâm
các bạn hướng đến đứng thì liền đứng
lại, chứ không phải
khi tâm hướng đến đứng lại
mà không đứng lại vẫn tiếp tục đi
kinh hành là các bạn
đã tu
sai pháp môn Tứ Niệm Xứ như
kinh đã dạy ở trên, vì tâm hướng
đến đứng thì các bạn nên đứng lại chứ không
phải hướng đứng lại
mà các bạn cho đó
là niệm vọng tưởng,
cho đó là niệm vọng
tưởng là các bạn tu
sai đấy! Hướng tâm
không phải là vọng tưởng
xin các bạn lưu ý. Đây là lời Phật
dạy, các bạn hãy đọc đoạn kinh này thì rõ: ‚Trong khi Ta đang đi kinh hành thời tham
ưu và các bất thiện pháp không chảy vào, ở
đây vị ấy ý thức rõ như vậy. Này Ananda nếu Tỳ kheo an trú trong an
trú này tâm vị ấy hướng
đến đứng lại vị ấy đứng
lại và nghĩ
rằng: trong khi ta
đang đứng lại thời tham
ưu và các pháp bất thiện
không chảy vào‛. Các bạn có nghe rõ lời dạy này chăng?
Khi các bạn
đang đứng lại ý thức các bạn biết rất rõ là các bạn đang đứng lại
và đứng lại với tâm an trú thanh thản, an lạc và vô sự (an trú trong
an trú) thì tâm
các bạn hướng
đến
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
ngồi, các bạn
liền ngồi xuống nhưng ý thức của các bạn
biết rất rõ ràng hành động ngồi mà không
có một niệm
tham ưu hay các
ác pháp nào xen vào trong khi các
bạn đang ngồi. Ngồi mà vẫn thấy
tâm thanh thản,
an lạc và vô sự:
‚Này Ananda, nếu
trong khi tỳ kheo ấy an trú trong
sự an trú
này, tâm vị ấy hướng đến
ngồi, vị ấy ngồi và
nghĩ rằng: ‚Trong khi
ta đang ngồi, tham ưu và các bất
thiện pháp không có chảy vào‛.
Đây các bạn
có nghe rõ đức Phật dạy cách thức
tu tập Tứ Niệm Xứ
này không? Hay
các bạn cho rằng
hướng tâm là vọng tưởng
như kinh sách Đại thừa và Thiền Đông Độ. Vọng tưởng là niệm gì? Các bạn
có biết không?
Các bạn đừng lầm tưởng tất cả niệm khởi ra trong tâm bạn là vọng tưởng
hết. Không phải đâu
các bạn ạ!
Các bạn đã
cho những niệm là vọng tưởng là
các bạn đã lầm lớn. Các bạn hãy lắng nghe đức
Phật dạy: ‚Trong khi Ta đang
ngồi tham, ưu và
các bất thiện pháp
không có chảy vào‛,
các bạn có hiểu
câu này không?
Tham có nghĩa là tâm tham muốn của các bạn tự khởi
lên.
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP IV
Ưu là sự phiền não,
đau khổ tự khởi
lên tức là các bất thiện pháp, nó là những ác pháp làm cho thân tâm của
các bạn bất an, như thân đau nhức, mỏi mệt,
nóng rát, tâm
lo lắng, sợ hãi, buồn rầu và thương nhớ v.v..
Chảy vào còn
nghĩa là
tự khởi lên, những pháp này gọi là vọng tưởng. Còn khi các bạn hướng tâm
tác ý thì không
phải vọng tưởng. Các
bạn nhớ kỹ những điều
này nhé! Đây là
Phật dạy: ‚Này Ananda, nếu trong khi Tỳ kheo ấy an trú trong sự an trú này, tâm
vị ấy hướng đến ngồi,
vị ấy ngồi
và nghĩ rằng: ‚Trong khi ta đang
ngồi, tham và ưu các bất thiện
pháp không có chảy
vào. Ởû đây vị ấy ý thức rõ ràng
như vậy‛.
Khi các bạn
đang ngồi tu tập an trú trong sự an trú này, tức là các bạn giữ gìn tâm thanh
thản, an lạc và vô sự, lúc bấy giờ tâm các bạn muốn nằm
thì các bạn liền đi
nằm và nghĩ rằng:
“Tâm các bạn rất
tỉnh giác trong trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự,
không có một sự ưu phiền nào hay một ác
pháp nào tác động thân tâm các bạn”.
Và lúc bấy giờ các bạn cũng xem xét thấy rằng tâm các bạn không có hôn trầm, thùy
miên và vô
ký. Cho nên,
các bạn nằm xuống
với tâm tỉnh
giác an lạc,
thanh
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
thản và vô sự
tức là các bạn tu tập đúng pháp, dù đang nằm nhưng vẫn an trú trong sự an trú.
Trong khi đang tu
tập an trú trong
sự an trú của
tâm thanh thản
an lạc và vô sự trong tư
thế đang nằm
các bạn ý thức rất
rõ ràng như vậy, tâm của các bạn
hướng đến độc thoại: “Nói chuyện đời,
chuyện thiên hạ, chuyện bạn bè, chuyện tình
tứ trai gái, chuyện vua quan, chuyện trộm cướp, chuyện giàu sang, danh lợi,
chuyện tôn giáo này tôn giáo khác, chuyện
bùa chú, chuyện bệnh tật v.v..”,
những độc thoại như vậy khởi ra trong tâm
của các bạn thì các bạn tác
ý đình chỉ
nó ngay liền. Vì
tâm độc thoại như vậy là
các bạn tu tập không
đúng pháp môn Tứ Niệm Xứ. Những độc thoại này được xem nó là vọng tưởng.
Trong khi an
trú trong sự
an trú, tâm hướng
đến độc thoại
tào lao, không
có tính cách li tham, đoạn ác
pháp thì phải tác ý chấm dứt đuổi đi liền. Còn ngược lại tâm hướng đến độc thoại
li tham, đoạn ác pháp, xa lìa, viễn li, từ
bỏ tâm tham,
sân, si, và
các ác pháp
khác như: thất kiết sử, ngũ triền cái, thân ngũ uẩn, thập nhị nhân duyên
v.v.. Khi tâm các bạn độc thoại như vậy thì các bạn hãy tiếp tục đừng có dừng, vì
nó không phải
là vọng tưởng
mà nó
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP IV
đang triển
khai tri kiến giải thoát
li tham, đoạn ác pháp.
Các bạn
hãy lắng nghe
đức Phật dạy:
‚Này Ananda,
nếu trong khi Tỳ kheo ấy nằm, an trú trong
sự an trú này, tâm vị ấy hướng đến độc
thoại, vị ấy suy
nghĩ như sau: ‚Ta sẽ không
độc thoại những chuyện hạ liệt, đê tiện thuộc phàm phu, không thuộc
bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích,
không đưa đến yểm
li, không li dục, không đoạn diệt,
không an tịnh, không thắng trí, không giác ngộ, không Niết
Bàn như: quốc vương luận, đạo tặc luận, đại thần luận,
chiến tranh luận, thực
vật luận, ẩm thực luận,
y phục luận, ngoạ cụ luận, hoang mang luận, hương liệu luận,
thân thích luận, xa thừa luận,
thân luận, thị trấn luận,
đô thị luận,
hạng trung luận, thủy hình xứ
luận, quốc độ luận,
nữ luận, anh hùng luận, chiến binh luận, sai biệt luận,
thế giới luận,
hãi thuyền luận, hữu vô hữu luận. Ở đây vị ấy
ý thức rõ ràng như vậy. Nhưng, này Ananda, đối với những lời nói
nào khắc khổ, khai tâm đưa đến nhất hướng yểm ly, ly tham, đoạn diệt an
tịnh, thắng trí
giác ngộ, Niết
Bàn,
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
thiểu dục luận,
tri túc luận, tinh cần luận, giới luận, định luận, tuệ luận, giải thoát luận, giải
thoát tri kiến luận,
vị ấy nghĩ:
‚Ta sẽ
nói các luận như vậy. Ở
đây vị ấy ý
thức rõ như
vậy‛.
Đoạn kinh
trên đây đức
Phật đã dạy chúng ta rất rõ ràng. Trong khi chúng
ta an trú tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự trong bốn oai
nghi đi, đứng,
nằm ngồi, đều sống
trong một tâm ấy, nhưng tâm hướng đến đi chúng
ta đi, tâm hướng đến đứng chúng
ta đứng, tâm hướng đến ngồi chúng ta ngồi, tâm hướng đến nằm chúng ta nằm,
nhưng chúng ta đều ý thức rất rõ đi, đứng,
nằm, ngồi đều an trú trong sự an
trú thanh thản,
an lạc và
vô sự. Nếu trong đó niệm tham ưu
và các bất thiện pháp thì phải diệt
ngay liền, còn tất cả niệm
khác thì không nên diệt.
Còn đang ở
trong trạng thái
an trú trong sự an trú ấy tâm hướng
đến độc thoại: có nghĩa người tu tập Tứ Niệm Xứ
an trú trong
sự an trú, cũng
giống như người
sống bình thường cũng
đi, đứng, nằm,
ngồi đều theo sự hướng tâm
chủ động điều
khiển rất tỉnh
giác. Cho nên, tâm hướng đến độc thoại
thì không được nói chuyện
ngoài vấn đề để ly
tham đoạn ác
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP IV
pháp, hay vấn
đề viễn ly, trừ bỏ đoạn diệt tâm
tham, sân, si, chứ không
phải độc thoại
là đi nói chuyện
với người khác.
Độc thoại có
nghĩa là mình nói
chuyện với mình.
Các bạn đừng hiểu lầm độc thoại là sự suy tầm, tức là
tư duy, suy nghĩ.
Ở đây đức Phật dạy khi chúng
ta an trú trong sự an trú không
nên suy tầm về tham pháp, sân pháp, si pháp.
Suy tầm tức
là tư duy suy nghĩ. Trong khi tu tập Tứ Niệm Xứ các bạn nên
phân biệt rõ ràng
lúc nào là
tâm hướng đến độc thoại,
lúc nào là tâm hướng đến suy tầm.
Lúc tâm
suy tầm, cũng như
lúc tâm độc thoại
không nên suy tầm
và độc thoại
những tham pháp, sân pháp, si pháp. Tóm lại là khi độc thoại hay suy tầm
đều nên độc thoại và suy tầm về Thánh hạnh, có khả năng cầu tiến, có khả năng hướng thượng, đưa đến sự hoàn toàn diệt khổ đau, ly tham, sân, si.
Trong khi tu Tứ Niệm Xứ các bạn nên đọc kỹ lại đoạn
kinh này: ‚Này Ananda, nếu
Tỳ kheo ấy trong khi an trú với sự an trú này, tâm hướng đến
suy tầm, vị ấy suy
nghĩ:
‚Đối với những suy tầm
hạ liệt, đê tiện,
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
phàm phu,
không liên hệ đến mục đích, không đưa đến yểm ly, li
tham, đoạn diệt, an
tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết Bàn như là dục tầm,
sân tầm, hại tầm
ta sẽ không suy nghĩ các loại tầm ấy? Ở đây vị ấy ý
thức rõ ràng như vậy‛.
Các bạn có
nghe đoạn kinh này dạy không?
Đoạn kinh này
đã xác định rất
rõ khi tu tập Tứ Niệm Xứ giữ tâm
bất động, thanh thản, an lạc và vô sự khi có một sự suy nghĩ nào khởi ra thì phải phân
biệt sự suy nghĩ
thuộc loại nào, nếu
thuộc loại tham,
sân, si thì chấm
dứt không suy nghĩ. Còn
suy nghĩ thuộc loại
nào đưa đến li tham, ly
sân, li si thì tiếp
tục suy nghĩ. Các bạn
nên đọc
đoạn kinh kế thì sẽ rõ lời Phật dạy: ‚Nhưng này Ananda, đối với
những suy tầm này,
thuộc bậc Thánh có khả năng cầu tiến, hướng dẫn đến sự
đoạn trừ hoàn toàn đau khổ, như là ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm, vị ấy
nghĩ rằng: ta sẽ suy tư các loại suy tầm này‛. Ở đây vị ấy ý thức rõ ràng như vậy‛.
Ở đây chúng tôi xin giải thích cho các bạn hiểu: suy tư
và suy tầm; suy tư
là sự suy nghĩ, nghĩ ngợi một điều gì, còn suy tầm
là một dòng
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP IV
tư tưởng suy
tư, có thể gọi suy tầm một điều gì đang suy nghĩ.
Nếu các bạn đã hiểu rõ
nghĩa suy tư và suy tầm như vậy thì mỗi suy tầm hiện ra
trong tâm, các bạn đều
biết rất
rõ ràng. Nhờ biết
rõ ràng suy tầm nào cần phải
đoạn diệt và suy tầm nào cần phải
tăng trưởng (tiếp tục suy tư). Nếu
suy tầm nào
thuộc về yểm
ly, ly tham đoạn diệt sân tầm, si tầm, hại tầm thì
các bạn suy nghĩ về suy tầm
đó; còn suy tầm
nào làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai, không ly dục tầm, sân tầm, hại tầm thì các
bạn chấm dứt ngay liền không suy nghĩ các suy tầm đó.
Trong khi các bạn tu tập Tứ Niệm Xứ
giữ gìn tâm thanh
thản, an lạc
và vô sự
(an trú trong sự an
trú) thì các bạn
nên lưu ý khi có niệm
khởi trong tâm bạn, nó thuộc loại
niệm gì? Nếu nó thuộc về năm dục trưởng dưỡng hay thuộc về Thất kiết sử v.v..
Vậy năm dục trưởng dưỡng là gì? Năm dục trưởng dưỡng gồm có:
1- Mắt các bạn thấy sắc.
2- Tai các bạn nghe âm thanh.
3- Mũi các bạn ngữi mùi thơm hay thối.
4- Lưỡi các bạn nếm mùi vị.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
5- Thân các
bạn cảm xúc mát lạnh, nóng đau, nhức, êm ái, mềm mại v.v..
Nếu trong
khi an trú trong sự an
trú như vậy mà có năm dục trưởng dưỡng
khởi lên thì các bạn biết rằng dục ái của các bạn chưa chấm dứt, chưa đoạn diệt.
Như vậy, các bạn hãy cố gắng tu tập Tứ Niệm Xứ nhiều
hơn để phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý cụ thể
rõ ràng hơn tức là
các bạn phải sống độc cư
cho trọn vẹn hơn, để
trau dồi và
rèn luyện tu tập Tứ Niệm
Xứ cho đến khi Tứ
Niệm Xứ được sung mãn. Đối với người
tu tập Tứ Niệm Xứ,
năm dục trưởng dưỡng rất quan trọng, nếu các bạn không lưu ý
thì tâm thanh thản,
an lạc và vô sự
của các bạn
không bao giờ kéo
dài ‚Nhất Dạ Hiền‛
được. Các bạn hãy
nghe lời Phật dạy: ‚Này Ananda, có năm dục trưởng dưỡng
này. Từ đây Tỳ kheo
phải thường quan sát tự tâm như
sau: ‚Trong tâm ta có khởi lên tâm hành gì với
xứ này trong xứ khác của năm dục trưởng dưỡng‛.
Đọc đến đoạn
kinh này chúng tôi xin lưu ý các bạn ghi nhớ lời nhắc nhở thấm thía của đức Phật:
‚Từ đây
Tỳ kheo phải thường quan sát tự
tâm có khởi năm dục trưởng dưỡng không?‛.
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP IV
Như vậy năm
dục trưởng dưỡng rất quan trọng đấy các bạn ạ!
Cho nên,
trong khi tu tập Tứ Niệm Xứ khi tâm
thanh thản, an lạc và
vô sự thì các
bạn phải thường quan sát tâm các bạn có khởi năm dục trưởng dưỡng không?
Nếu năm dục trưởng dưỡng còn khởi là dục ái của các bạn chưa đoạn diệt. Nếu dục ái
đoạn diệt thì năm dục trưởng dưỡng
không còn khởi.
Các bạn hãy nghe tiếp lời Phật dạy để hiểu biết cho rõ ràng hơn. Nhờ có sự hiểu biết rõ
ràng, các bạn sẽ không
lầm lạc những phương pháp dạy tu thiền của Đại Thừa và Thiền Tông, mỗi niệm khởi trong đầu của chúng
ta Đại Thừa
và Thiền Tông đều cho là vọng tưởng (chẳng niệm thiện niệm ác).
Đối với Phật giáo
Nguyên Thủy thường
dạy người tu tập là lấy giới đức,
giới hạnh làm đầu, để lập đức lập hạnh
cho người tu sĩ,
vì thế Tứ Niệm
Xứ là
pháp xây dựng con người trong
Chánh Niệm nên thường diệt Tà Niệm. Muốn giữ gìn bảo vệ
Chánh niệm thì phải
hiểu cho rõ ràng niệm nào là Chánh niệm, niệm nào là Tà
niệm. Do đó, đức Phật dạy chúng ta phân biệt từng niệm rất rõ ràng. Niệm nào là độc
thoại đúng; niệm nào độc thoại
sai; niệm nào là suy tầm đúng, niệm nào
là suy tầm
sai; niệm nào là
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
vọng tưởng;
niệm nào không
phải là vọng tưởng;
niệm nào là
năm dục trưởng
dưỡng; niệm nào là không phải năm dục trưởng dưỡng. Các bạn nên nhớ còn
năm dục trưởng dưỡng là còn ‚dục ái‛ đoạn
diệt năm dục trưởng dưỡng là
đoạn diệt dục ái. Dục
ái hết là Tứ Niệm Xứ
sung mãn.
Vì sống được
trong Chánh niệm nên con người mới làm chủ được thân,
tâm của mình, nhờ sống trong Chánh niệm mà con người mới có đầy đủ
đạo đức
làm người sống
không làm khổ mình
khổ người và khổ cả
hai. Nhờ sống trong Chánh niệm mà con người mới thoát
ra mọi sự đau khổ của kiếp làm người, chứ
không phải tu tập ức chế
tâm như Thiền Đông Độ và Đại
Thừa diệt toàn bộ
ý thức (chẳng
niệm thiện niệm ác) biến con người trở thành cây đá (vô phận biệt), biến
con người sống trong ảo tưởng (Phật tánh) tánh thấy, tánh nghe, tánh biết, thật
là điên đảo.
Xin các bạn đọc tiếp đoạn kinh này: ‚Này Ananda nếu Tỳ
kheo trong khi
quan sát như vậy
tuệ tri rằng: ‚Trong
tâm ta có khởi lên tâm hành với
xứ này hay xứ khác của năm dục
trưởng dưỡng…‛, sự kiện là như
vậy, Tỳ kheo
tuệ tri như sau: ‚Dục
ái
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP IV
này đối với
năm dục trưởng dưỡng đối với Ta chưa đoạn diệt
được‛. Ở đây vị ấy ý
thức rõ như vậy‛.
Ở đoạn kinh này những
từ các bạn cần
phải hiểu như:
tâm hành xứ
này, xứ khác
và dục ái:
Tâm hành
có nghĩa là sự hoạt động của
tâm.
Xứ này xứ khác
có nghĩa niệm
này niệm
khác.
Dục ái có
nghĩa là lòng yêu thương, trong dục ái có sự yêu thương của nam nữ.
Toàn nghĩa của
đoạn kinh này là: “Khi các bạn ở
trong trạng thái
tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì
quan sát thân, thọ,
tâm pháp của bạn thấy
có niệm này
hay niệm khác của
năm dục trưởng dưỡng khởi lên thì
biết rằng tâm ái dục của các bạn chưa đoạn diệt”. Khi biết
rõ như vậy thì các
bạn hãy tác
ý đẩy lùi những
niệm ấy
ra khỏi tâm, nếu
các niệm ấy
còn tới lui nhiều lần thì các bạn
dùng chánh tri kiến tư duy năm dục trưởng dưỡng theo pháp mà đức Phật đã dạy: ‚Các sắc do mắt nhận thức
khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả hỷ khả ý liên hệ
đến dục hấp dẫn‛
thì phải diệt ngay tâm
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
ái dục các bạn
ạ! Các bạn không được để trong tâm một
phút giây nào
khác, phải đoạn
diệt tâm ái dục đó
đi. Một
người tu theo
Phật giáo mà còn
tâm dục ái thì
không thể nào gọi là tâm
bất động được. ‚Này
Ananda, nếu Tỳ kheo
trong khi quan
sát như vậy,
tuệ tri rằng: ‚Trong
tâm ta không có
khởi lên tâm hành với xứ này hay
xứ khác của năm dục trưởng dưỡng...‛. Sự
kiện là
như vậy, Tỳ kheo tuệ
tri như sau: ‚Dục tham này đối
với năm dục trưởng dưỡng đối với ta đã được đoạn diệt‛. Ở đây vị ấy ý thức rõ ràng như
vậy‛.
Khi dục ái
còn là năm dục trưởng dưỡng còn, năm dục trưởng
dưỡng diệt thì tâm dục ái diệt. Tâm dục ái còn là do sự phòng hộ sáu căn
không chặt. Chính là không giữ độc cư trọn
vẹn nên năm dục
trưởng dưỡng tăng
thịnh, vì thế an trú trong an trú
không trọn vẹn, nên sự hộ trì chân lí không trọn vẹn, thành ra sự
tu hành Tứ Niệm Xứ không có kết quả tốt
tức là không sung mãn Tứ Niệm Xứ.
HỦY BỎ NHỮNG
HỌC GIỚI NHỎ NHẶT
LỜI PHẬT DẠY
‚Này Ananda,
nếu chúng Tăng muốn sau khi ta diệt độ
có thể hủy bỏ những học giới nhỏ nhặt chi tiết‛.
(Trường Bộ
Kinh tập I trang 663, kinh Đại Bát Niết Bàn)
CHÚ GIẢI:
Nếu một người
tu sĩ chạy theo dục lạc thế gian gặp đoạn
kinh này như mèo gặp mỡ, như
chuột sa hũ gạo, mặc sức
tung hoành phá giới, bẻ vụn giới. Vì thế sau khi Phật nhập
diệt một thời gian, ở bản xứ Ấn Độ cũng
đã chia ra
2 lối tu tập,
một bên phòng hộ tự lực để ly dục,
một bên phóng dật
tha cầu. Nên có quan điểm bất đồng
rồi chia thành 2 bộ phái:
Thượng Tọa Bộ
gồm những bậc
Trưởng Thượng y chỉ nguyên gốc Giới Kinh, Giới hạnh, Giới hành
Phật dạy để tự lực
tu tập và
phát
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
triển rất chậm
về phương nam lan truyền qua hướng
Tích Lan, Miến
Điện, Thái Lan,
Lào, Cam-Bu-Chia và phía
nam Việt Nam
mà các học giả thường gọi là Phật
Giáo Nguyên Thủy (hay phái Tiểu thừa Nam
tông). Kinh sách lấy Đại
Tạng Nikaya làm gốc, trong
chùa chỉ thờ duy nhất
một đức Phật
Thích Ca, có nơi
thêm vài đệ tử của Phật Như Ngài
Ca Diếp, Ngài xá lợi Phất.
Còn Đại
Chúng Bộ phần lớn gồm những bậc Tân Tăng học giả Tưởng giải
Tha lực, họ theo khuynh hướng tư tưởng phục hưng Vệ Đà (bà La Môn)
phát triển rộng về phương bắc hơn
10 hệ phái
qua các nước Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam dưới
nhiều dạng phật giáo
khác nhau được gọi là Phật
giáo Đại thừa
(hay Phật Giáo
Bắc Tông), bao gồm hơn 10 tông phái như: Thiền Tông, Mật tông,
Tịnh Độ tông, Luật
tông, Duy Thức tông, Pháp Hoa
tông, Hoa Nghiêm tông, Liên Tông (ở Nhật)
v.v.. Riêng Thiền
Tông Trung Hoa cũng
đã phát triển
thành nhiều Tông môn nữa.
Đại thừa Bắc
tông đi đến xứ nào thì thích nghi với phong
tục tập quán của xứ
đó, nên giáo lý thì như một chiếc
áo bá nạp đủ thứ tín
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP IV
ngưỡng, họ
đi đến xứ
nào thì kinh sách phát triển để
thích nghi với tín ngưỡng ở bản địa
xứ đó, cứ đặt thêm một bộ kinh là tưởng thêm một vị Phật nữa ra đời
hoặc một vị Bồ Tát nữa để đưa vào chùa thờ! Vì thế, nghi thức thờ
phượng trong chùa thì cũng
trăm thứ như:
Tượng Di Dà, Dược Sư, Di Lặc,
Quan Âm, Thế Chí, Địa Tạng, Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Thánh, Thập Điện Diêm
Vương, Tề Thiên Đại Thánh, Hộ Pháp Già Lam, Thần thiện, Thần ác, Lê Sơn Thánh
Mâu, Cửu Thiên Huyền Nữ, Chúa Ba, Chúa Xứ v.v…
Có nơi đưa cả những
con vật như Cọp,
Ngựa vào chùa
thờ nữa. Nói
chung là họ thờ Đa Thần Giáo, họ
đi đến địa phương nào là liền thích
nghi lấy lòng vị Thần bổn xứ và
người dân nơi đó tín
ngưỡng liền đưa vào chùa để thờ. Họ biên
soạn ra những Kinh sách tưởng giải nương vào tha lực (mang nặng tư tưởng đa thần của 62
trường phái Bà
La Môn mà thời
đức Phật
đã dẹp bỏ, nay
có cơ hội phục
sinh) lồng vào kinh sách
Phật để phá
giới và diệt giới luật Phật. Cho nên, tu sĩ thời nay
lợi dụng câu kinh họ lồng vào
như thế này:
“Nếu chúng Tăng muốn sau khi ta
diệt độ có thể hủy bỏ những
học giới nhỏ nhặt chi tiết‛, do đó họ
xem thường giới
luật Phật. Toàn bộ
các sư
Thầy theo Phật
giáo phát triển
đều
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!