còn sai,
còn lậu hoặc,
còn đủ các thứ. Kính
xin
Thầy chỉ dạy.
Đáp:
Trong kinh Đại thừa Duy Ma Cật, ngoại đạo
viết kinh này đã có ý đồ diệt Phật giáo
bằng cách hạ bệ các bậc A La Hán hàng đại đệ tử đức Phật, trong đó có ông Xá Lợi
Phất được đức Phật xem là người đệ tử trí tuệ đệ nhất.
Bây giờ đến
thầy Chơn Quang cũng đi theo lối mòn của các Tổ, muốn dùng lý luận học giả để hạ
bệ hai
vị đại đệ tử A La
Hán của Phật,
ông Ca Diếp và
ông Phú Lâu
Na. Thầy Chơn
Quang không hiểu đó
là những bài
kinh do các giáo sĩ Bà La Môn lồng vào trong kinh sách Phật để
diệt Phật giáo.
Như chúng
ta đã biết,
hai vị A La
Hán, ngài Ca Diếp và
ngài Phú Lâu Na
là hai
vị đại đệ tử của
Phật, tu hành
đã chứng quả A
La Hán
hẳn hòi. Giáo sĩ Bà La Môn bịa đặt
ra câu chuyện bỏ những giới nhỏ nhặt, chứ
giới luật là thiện pháp giúp người tu ly dục, ly ác pháp để tâm
bất động trước các ác pháp, để được tâm giải thoát hoàn toàn, để
tâm nhập Sơ Thiền.
Và như vậy
thì có giới nhỏ nhặt nào phải bỏ. Chỉ có một số tỳ kheo chạy theo dục lạc,
mới a dua theo Bà La Môn mà tuyên bố bỏ những giới nhỏ nhặt.
Đối với
hai vị A La Hán
này, thì sự giải quyết bỏ những giới nhỏ nhặt đâu phải là
việc khó, vì họ
có đủ Tam
Minh nên nhập vào Niết Bàn sẽ hỏi
đức Phật bỏ những giới nào? Tại sao hai
vị A La
hán có đầy đủ thần
thông,
mà không
làm điều này, lại còn
tranh cãi với nhau không khác
gì phàm phu? Đại Thừa
có thủ đoạn nhưng
không khôn ngoan, khi họ
lồng vào những loại
kinh này để lừa đảo tín đồ
Phật giáo. Trí tuệ học giả tưởng giải của thầy Chơn Quang lọt vào cạm bẫy
của Bà La Môn nên đã vô tình nối giáo cho Đại thừa hạ bệ những vị đại đệ tử của đức Phật
một cách quá
đáng. Hai vị đệ tử này đều từ giới luật mà đạt được quả A La
Hán. Không do Giới thì làm sao các ông có được Thiền định, có được Tam
minh, chứng quả
A La Hán. Sao các ông lại bỏ những giới luật nhỏ
nhặt?
Các bậc
A La Hán đều do giới
sanh ra, cho nên đức Phật nói: “Ta nói giới luật là nói tâm ly dục, ly ác
pháp”. Nếu tâm
không ly dục, ly ác
pháp thì làm sao chứng
quả A La Hán được,
phải không? Cho nên các nhà Đại thừa đã dìm Phật giáo xuống. Thầy Chơn Quang
không hiểu biết, bắt chước ngoại đạo diệt Phật giáo một lần nữa, khi nói
các bậc A La
Hán Thánh tăng của
Phật giáo như kẻ phàm
phu, không bằng
chư Thiên. Đó là một lời phỉ báng
Phật giáo tận cùng, sau này thầy Chơn Quang không thể tránh khỏi quả
báo này. Các bậc Hòa
Thượng tôn túc chỉ
có vô tình xương minh Đại thừa mà
còn chịu nghiệp quả khổ đau. Các
vị A La Hán
này sống một đời sống phạm hạnh,
giới luật nghiêm chỉnh mà đến bây giờ không có một vị Hòa Thượng nào sống được bằng các vị đó, thế mà thầy Chơn Quang dám phỉ báng những bậc A La Hán.
Dám phỉ
báng những bậc A
La Hán như ngài Ca Diếp
và ngài Phú
Lâu Na tức
là phỉ báng Phật giáo. Đức hạnh của ngài Phú Lâu Na
khó có ai sanh kịp. Chúng ta hãy nghe đây:
Một hôm,
Ngài Phú Lâu Na xin Phật để đi độ chúng
sanh ở xứ Độc Ác
Sunaparanta, thì đức Phật hỏi
Ngài:
- Này Phú
Lâu Na, xứ Sunàparanta là xứ thô bạo, nếu người xứ đó chửi bới nhiếc mắng ông, ở
đây ông nghĩ thế nào?
- Nếu người
xứ đó chửi bới nhiếc mắng con, ở đây con sẽ nghĩ: “Thật là hiền thiện”, vì những
người đó không lấy tay đánh đập con.
- Nếu
như người xứ đó lấy
tay đánh đập ông, thì ông nghĩ
sao?
- Nếu người
xứ đó lấy
tay đánh đập con, thời con sẽ nghĩ: “Thật là hiền thiện”, vì những người xứ
này không đánh đập con bằng cục đất.
- Nhưng nếu họ đánh đập ông bằng cục đất,
thì ở đây ông nghĩ thế nào?
- Vậy con sẽ
nghĩ: “Thật là
khéo hiền thiện”, vì những người xứ này không đánh đập
con bằng gậy.
- Nhưng nếu họ
đánh đập
ông bằng gậy,
thời ông nghĩ thế nào?
- Vậy con sẽ
nghĩ: “Thật là
khéo hiền thiện”, vì những người xứ này không đánh đập
con bằng kiếm.
- Nhưng nếu những người này đánh ông bằng kiếm, thì
ông nghĩ như thế nào?
- Con sẽ
nghĩ: “Thật là hiền thiện”, vì những người này không đoạn mạng con với cây kiếm
sắc bén.
- Nếu họ đoạn mạng ông với cây kiếm sắc bén, thì ông nghĩ thế nào?
- Vậy
con sẽ nghĩ:
“Thật là hiền
thiện”, vì người xứ đó vẫn còn
thương con.
Câu chuyện
trên đã nói được đạo hạnh của một vị Thánh tăng không thể lường được.
Đến mức độ
người ta giết ông, ông vẫn còn thương
người ta. Một
người như vậy
là người đã ly dục,
ly ác pháp hoàn
toàn, thì làm gì còn
tranh chấp những
việc nhỏ nhặt
đó. Phải không hỡi
các con? Mà ly
dục, ly ác pháp đâu phải ly bằng ngôn ngữ được, mà phải
ly bằng giới luật.
Đọc lại một
đoạn sử của ngài Phú Lâu La, chúng ta thấy rõ ràng ông phú Lâu Na là bậc Thánh
tăng. Không lẽ một vị Thánh tăng mà lại tuyên bố bỏ những giới nhỏ nhặt như vậy
thì thật là vô lý. Đúng là lý luận này của ngoại đạo diệt Phật giáo.
Tóm lại, việc
phỉ báng bậc Thánh tăng A La Hán đại đệ tử của đức Phật
là một việc
làm tội lỗi rất lớn đối với Phật
giáo, đối với loài người.
ĐỨC PHẬT VÀ
CHÚNG THÁNH TĂNG ĐỀU ĂN NGÀY MỘT BỮA MÀ ĐÃ CHỨNG ĐẠO
Hỏi: Thật
tình chúng con rất mến mộ thầy Chơn Quang, chính chúng con đã kêu gọi bạn bè đóng góp tiền để in
cuốn sách Luận Về Nhân Quả. Thậm chí những cuộn băng của thầy
Chơn Quang chúng con rất
quý, nhưng từ
khi chúng con nghe được cuộn
băng mà thầy
Chơn Quang nói về thầy Thông Lạc,
có những điểm mà trước đây chúng con nghe qua những cuốn sách, băng của Thầy
giảng viết thì khác,
ví dụ có những
điểm như thế này:
Thầy Chơn
Quang nói rằng, Thầy không có đồng ý với Sư ông (Thầy Chơn Quang đang nói chuyện với
các đệ tử của mình,
cho nên gọi thầy Thông
Lạc là Sư
ông). Nói rằng
sư ông Thông Lạc còn
có những điểm
mà Thầy không
đồng ý, như là
ăn uống không
đủ chất bổ.
Ăn uống không đủ chất
bổ thì không thể nhiếp
tâm được, thậm chí mình ăn no đi, ăn thật no nữa là khác, chỉ cần đi
kinh hành một
chút xíu thì bắt
chân lên ngồi là nhiếp tâm được liền;
còn ăn uống thiếu
chất thì nó hại đến não, sẽ làm
cho mình bệnh hoạn này kia.
Thầy ấy
còn nói là
Sư ông ở tu
viện Chơn Như bệnh nặng lắm, việc này thực
hư thế nào xin Thầy từ bi dạy cho.
Đáp: Để
xác định điều
này, quí cư sĩ về đây
trực tiếp gặp Thầy, có thấy Thầy bệnh nặng không?
- Dạ không.
Thầy không
có bệnh nặng, Thầy làm việc suốt đêm từ 7 đến
12 giờ đêm, rồi Thầy chỉ
đi nghỉ chút xíu, khuya Thầy dậy
tọa thiền phục hồi sức khỏe để ngày
hôm sau làm việc nữa. Trong
một thời gian ngắn
chưa đầy 3
năm mà bộ
sách Đường Về Xứ Phật nhiều
tập và các tập sách khác
trên 6000 trang giấy
được Thầy soạn
thảo ra. Một khả
năng làm việc
phi thường như vậy
thì các con cũng đủ biết Thầy làm việc rất nhiều. Và Thầy còn tiếp tục soạn thảo
bộ sách đạo đức làm người nhiều
tập. Trong lúc ấy, Thầy vừa trả lời thư các cư sĩ bốn phương và cũng vừa
làm việc trên máy vi
tính để in thành sách với những trang sách có mỹ thuật như người chuyên
nghiệp, nhằm để hoàn tất một cuốn sách đẹp, chứ không in bừa bãi thiếu mỹ thuật.
Thầy làm việc như vậy quý phật tử phải thấy được sức khoẻ của Thầy không kém
thua những người còn trẻ. Trong lúc tuổi Thầy đã 74 (năm 2001). Nhất là Thầy chỉ
ăn ngày một bữa. Ăn
ngày một bữa
không thiếu sức khỏe,
không bị bịnh
đau. Ăn ngày một bữa ít
bịnh đau hơn người ăn nhiều bữa.
Đau bịnh phần lớn là do
tâm phiền não,
giận hờn, lo lắng, khổ đau, thương ghét,
v.v... kế đó là do ăn uống không điều độ, ăn uống quá nhiều, ăn uống phi thời, ăn nhiều bữa,
ăn uống không
vệ sinh, v.v... ăn uống nhiều sanh ra dục tầm liên hệ giữa nam nữ, phạm
cấm giới làm hư hoại Phật pháp, còn ăn
ngày một bữa đủ sống
mà không sanh dục, không hôn trầm,
dễ tu hành.
Trong giới luật,
Phật đã cấm
không cho tu sĩ ăn uống phi thời.
Người mới vào
tu như một Sa di
tăng hay Sa di ni, thọ 10 giới
thì giới thứ 9 cấm ăn
phi thời, còn tỳ kheo thọ
250 giới thì giới thứ 37 cấm
ăn phi thời,
giới này thuộc giới đọa Địa Ngục (Ba Dật Đề). Lý luận
của thầy Chơn Quang ở trên là lý luận của người phá giới, để chạy theo tham dục
về ăn uống. Những lý luận đó tức là thầy Chơn Quang không hiểu thiền
của đạo Phật, đã giẫm lại lối mòn của các Tổ nên mới bảo: “Ăn thật no chỉ
cần đi kinh hành
một chút xíu thì bắt chân lên ngồi
là nhiếp tâm được liền”. Như quí phật tử
đã biết, thiền
của Phật là phải
lìa tâm
tham diệt ác
pháp, chứ không
phải ngồi bắt chân lên là nhiếp
tâm không vọng tưởng. Thiền của Phật
là ngăn ác, diệt ác
pháp, tức là ly dục,
ly ác pháp. Cho
nên, nếu còn tham ăn, tham dục mà gọi là Thiền định
thì phải gọi đó là Tưởng thiền, thiền Đông độ, thiền Đại thừa, v.v...
Tóm lại,
ngày xưa đức Phật và chúng Thánh tăng ăn ngày một bữa mà tu hành chứng đạo làm
chủ sự sống
chết, chấm dứt luân hồi sanh tử. Còn bây
giờ tu sĩ
ăn uống phi thời cho bổ
khỏe, phá giới luật Phật tận
cùng, sống đời sống phi phạm hạnh. Vì thế, chẳng có vị tu sĩ nào chứng quả giải
thoát làm chủ
sanh, già, bịnh,
chết, chấm dứt luân hồi sanh tử được. Rất uổng phí một đời
tu hành, đời chẳng ra đời mà đạo chẳng ra đạo.
THẦY
CHƠN QUANG GIẪM LẠI KIẾN TƯỞNG ĐẠI THỪA
Hỏi: Thầy
Chơn Quang nói rằng, con đường đạo
Phật trong tương lai
thứ nhất là phải tôn kính
Phật thật nhiều
thì mới chứng đạo được.
Thứ hai là phải có lòng vị tha vô hạn để cứu độ đời. Còn tu mà ăn ít, ngủ ít
như vậy là không có chứng đạt được, còn có thể có tác hại nữa. Cho nên, cuối
cùng Thầy dẫn chứng rằng con đường của
thầy ấy đi là
con đường được
Phật chấp nhận. Sự dẫn chứng là
thầy CQ có một người đệ tử ngồi thiền hai tiếng đồng hồ mà cảm thấy như mới ngồi
15 phút. Trong khi đó, vị sư này được nhập vào hội đức Phật đang thuyết pháp và
nghe đức Phật thuyết
pháp rất hay.
Và vị sư
đó kể rằng đức Phật thuyết
pháp y như
thầy Chơn Quang thuyết. Đó
là kết luận của cuộn
băng mà con được nghe. Kính xin Thầy chỉ dạy.
Đáp: Thầy
Chơn Quang nói tôn kính chư Phật thật nhiều, nhưng
tôn kính như thế nào thì thầy Chơn Quang không nói rõ.
Nếu Thầy lập lại ý của kinh sách Đại thừa
mà từ xưa những kinh sách này đã dạy như:
1- Kinh
sách Đại
thừa dạy là phải lạy hồng
danh tam thiên
chư Phật để
tiêu tội nghiệp chướng (Lạy hồng danh sám hối). Lạy hồng
danh sám hối tức
là kinh sách Đại thừa cho đó
là tôn kính chư Phật.
Khi tôn kính chư Phật
lạy hồng danh sám hối thì tiêu tội
nghiệp chướng. Nếu dựa vào kinh sách này mà thầy Chơn Quang cho là chứng đạo
thì e rằng không đúng.
Vì từ xưa đến nay, có biết bao
nhiêu người cung
kính tôn trọng Phật theo kiểu lạy sám hối tam thiên chư Phật, mà có thấy
người nào tiêu tội và chứng đạo đâu?
2- Phải có
lòng vị tha vô hạn để cứu độ chúng sanh. Điều này kinh sách Đại thừa đã dạy
“Hành Bồ Tát Đạo”, tức là thực hiện lòng
vị tha vô hạn để cứu độ chúng sanh. Nhưng con người tu chưa chứng đạo
thì làm sao có lòng vị tha vô hạn được. Phải không quí vị?
Tâm còn
tham, sân, si chưa
lìa, thì lòng vị tha vô hạn ở chỗ
nào có được?
Vì thế những người
tu chưa chứng mà thực hiện Bồ Tát Đạo, cũng giống như người mù dắt một đám
người mù mà đi.
Vì lòng vị
tha vô hạn của người tu chưa chứng để độ chúng
sanh, vì thế độ chúng
sanh đâu
không thấy,
mà thấy độ danh, độ lợi, độ chùa to, Phật lớn, độ xe hơi, tivi, tủ lạnh, v.v...
Có lẽ thầy Chơn Quang nghĩ rằng người tu có chùa to, Phật lớn, tủ lạnh, tivi
là chứng đạo.
3- Thầy Chơn
Quang dạy: ăn ít, ngủ
ít thì tu không chứng đạo. Thầy dạy như vậy có ngược lại với Phật giáo hay không?
Đức Phật
và chúng Thánh
tăng, Thánh ni ăn ngày một bữa, sao các Ngài lại chứng quả
giải thoát, tự tại trong sinh tử, chấm dứt luân hồi, mà trong kinh sách Nguyên
Thủy còn ghi rõ ràng. Thời nay quí Thầy
ăn uống phi thời,
thân xác mập phì,
đau bịnh liên
tục, lúc nào cũng thuốc thang châm cứu. Vậy chứng đạo
chỗ nào?
Thầy Chơn
Quang dám phỉ báng đức Phật và chúng Thánh tăng
và Thánh ni
như vậy mà không sợ tội đọa Địa Ngục sao?
Tại tu viện Chơn
Như, Thầy đã tiếp nhận những
tin tức từ
chùa Phật Quang
loan báo: “Thầy Thông Lạc chết;
Thầy Thông Lạc bịnh nặng; thầy Thông lạc bại liệt; thầy Thông Lạc ói ra
máu...”. Những tin tức loại này đã làm cho một số phật tử
hoang mang dao động. Nhờ những tin tức
này mà Thầy mới được rảnh rang.
Làm một vị
Thầy có trách nhiệm và bổn phận đối với đệ tử của mình
thì rất vất vả, nhưng
nếu chỉ cần có số lượng
đệ tử đông
thì để làm danh, làm lợi chứ họ tu hành đi đến đâu. Điều
này đã chứng minh cụ thể, hiện
giờ số lượng
tu sĩ đông
như kiến
mà tu hành
chẳng đi đến
đâu cả. Ai chịu trách nhiệm này?
4- Một người
nhập định thì không có thời gian và
không gian, chứ làm
sao có chuyện
2 tiếng đồng hồ mà cảm thấy
như 15 phút?
Như thế chứng
tỏ vị này chưa phải nhập định, mà đã
rơi vào trạng
thái “lên đồng”
của tưởng ấm. Sắc
và thinh tưởng hiện
ra, thầy ấy cảm thấy mình
như đang dự hội Phật
Thích Ca Mâu Ni
thuyết pháp giống như thầy Chơn Quang.
Vị sư ấy chưa
chứng minh được đời sống
phạm hạnh, giới
luật còn vi phạm
thì làm sao sư ly dục, ly ác pháp được để nhập đúng Chánh định.
Chưa nhập đúng
Chánh định thì làm
sao có Tam Minh.
Không có Tam
Minh thì làm sao dự
hội Phật thuyết
pháp được. Như vậy,
rõ ràng
vị sư này nhập
vào định tưởng,
bị sắc, thinh tưởng đánh lừa.
Tóm lại, vị
sư này rơi vào định tưởng, một loại thiền
định đưa đến bịnh thần
kinh. Hầu hết những người có nhiệt tâm tu hành thiền định
đều bị bịnh thần
kinh này mà chúng
tôi đã gặp rất
nhiều.
PHƯỚC CHÚNG
SANH CHƯA ĐỦ, TÌM MỘT VỊ A LA HÁN RẤT KHÓ
Hỏi: Bạch Thầy!
Thầy nói đợi cho có 10 vị A La Hán, mà bây giờ kiếm một vị cũng không
ra. Nếu không có 9 vị như Thầy thì họ
không chịu tin, mà đợi cho có
đủ chín vị nữa,
thì con coi bộ khó quá, đợi chừng
nào mới có được thứ nhì?
Đáp: Một người
tu chứng trong giai đoạn này làm Phật sự,
thì khó có người
tin được. Bởi vậy, cần
phải có 10 người
tu chứng để chỉnh đốn lại
kinh sách Phật thì mọi người mới tin. Vì thế, một người không thể chỉnh đốn Phật
giáo lại được.
Phước của
chúng sanh chưa đủ,
nên các vị A
La Hán chưa xuất hiện, chứ không phải chúng ta tìm một vị A La Hán khó. Chúng
ta cứ sống đúng đức hạnh,
giới luật của Phật thì các bậc
A La Hán sẽ xuất
hiện. Chỉ vì
chúng ta sống không
đúng đức hạnh,
giới luật của Phật
nên chúng ta tìm một vị A La Hán rất khó.
Giới luật
là mẹ sanh
ra A La Hán.
Cho nên tất cả tăng,
ni giới luật nghiêm
chỉnh thì không những 10 vị A La
Hán, mà có hàng trăm vị A La Hán xuất hiện.
Giới luật ở
đâu là có bậc A La
Hán ở đó; Bậc A La Hán ở đâu là giới
luật ở đó. Như vậy, bậc A La Hán đâu phải khó tìm phải không quí vị?
Bậc A La Hán
từ con người mà có, chứ không phải ngoài
con người mà tìm được bậc A La Hán. Con
người giữ giới nghiêm chỉnh,
tu tập đúng pháp ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng
trưởng thiện, sống không
làm khổ mình,
khổ người, đó là bậc A La Hán. Xưa đức Phật còn tại thế,
Ngài đã xác định: “Giới luật còn là Phật pháp còn, giới luật mất là Phật pháp mất”.
Câu nói này có nghĩa là: Giới luật
còn là còn bậc A La
Hán, Giới luật mất là bậc A La Hán mất.
Quí phật tử đừng bảo rằng một vị A La
Hán khó kiếm, chẳng qua chỉ vì tăng, ni không giữ gìn giới luật nghiêm
chỉnh, nên bậc A La Hán khó kiếm.
Tóm lại, bậc
A La Hán xuất hiện ra đời là vì chúng sanh có đủ phước báo thọ hưởng phước vô lậu.
PHÁP SAI CHỨ
NGƯỜI KHÔNG SAI
Hỏi:
Kính bạch Thầy! Con thấy có một số quý
tăng, ni khi thuyết
pháp với tấm
lòng rất tốt. Nhưng
vì pháp mà quí vị đó đọc được qua Thầy, Tổ ngày xưa như thế nào, thì học
hỏi như thế đó.
Chưa hẳn
là quí vị
có tâm ác, lừa đảo phật tử đâu. Kính
xin Thầy giảng.
Đáp: Pháp
sai chứ người không sai; người không
sai thì phải có trí
tuệ; có
trí tuệ thì mới nhận ra
pháp sai. Pháp sai tức
là pháp lừa đảo,
dối gạt
người. Nhận ra
pháp sai mà cứ hành pháp sai tức là lừa đảo, lường gạt người.
Vì thế, người mới vào
tu là người
tốt. Sau một thời
gian tu học pháp
sai biến họ trở thành
người xấu. Hằng ngày phải làm nghề
lừa đảo: cúng bái, tụng niệm, cầu siêu,
cầu an, v.v... Cầu
siêu, cần an là một cái nghề làm giàu, có nhiều tiền một
cách dễ dàng. Cho nên biết pháp
sai nhưng các Thầy
không bao giờ bỏ.
Người mới
vào tu thì nghèo đến nỗi một đồng xu
dính túi còn không có. Nhưng sau khi tu
lâu có những kiến giải, họ đứng vào vị
trí trụ trì, giảng sư, thì tiền bạc
nhiều, danh vọng lớn, nên họ
không thể bỏ những pháp sai, vì nhờ những pháp sai, pháp lừa đảo này mà họ sống
trên nhung lụa. Thế nên làm sao họ bỏ được.
Chúng ta
không thể lường được những tu sĩ mượn
tôn giáo để
kinh doanh buôn bán,
có khi còn buôn đồ lậu thuế. Những
người này là những người không những buôn bán tôn giáo, mà còn buôn bán đồ trái
pháp luật. Chỉ có một thời gian năm, ba năm sau, là họ cất chùa rất đẹp; họ sắm
xe hơi, nhà lầu
đàng hoàng; tủ lạnh, tivi cái
gì ngoài đời có là họ cũng có hết.
Tóm lại,
pháp sai dẫn người ta đi vào chỗ sai. Pháp
lừa đảo, dối gạt người
sẽ dẫn người
ta đi vào chỗ lừa đảo, dối gạt.
Cho nên, kinh sách phát triển là kinh sách
kiến giải của
các nhà học giả
xưa và nay, là những kinh sách mà mọi người cần phải được lưu ý. Vì đó là những
kinh sách phi đạo đức, lừa đảo, dối gạt
người. Biến người
tốt thành người xấu, bằng chứng
rõ ràng là những tu sĩ
Phật giáo hiện giờ đang hành nghề phi pháp.
KINH DUY
MA CẬT LÀ MỘT TRONG NHỮNG BỘ KINH
PHI ĐẠO ĐỨC,
KHÔNG PHẢI CỦA PHẬT THUYẾT;
NAM TÔNG, BẮC
TÔNG VÀ ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO
Hỏi: Kính
bạch Thầy! Trong
kinh Duy Ma Cật
dạy: “Bồ tát bịnh vì
chúng sanh bịnh”. Câu kinh
này dạy có đúng theo
giáo lý của đạo Phật hay không? Kính xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Kinh Duy
Ma Cật là
kinh phát triển. Kinh giáo phát
triển là kinh sách chịu ảnh hưởng của
nhiều tôn giáo
và những phong tục
tập quán
khác nhau của
con người trên hành
tinh này mà thành lập ra giáo lý
của mình, nó không có gì đặc biệt riêng
của nó, chỉ khéo dùng những danh từ thật
kêu và cũng
giống như vẽ rắn thêm
chân, thêm râu, khiến cho mọi người dễ bị lường gạt tưởng là rồng thật.
Giáo lý phát triển và thiền Đông Độ cũng lường gạt tín đồ như vậy, tưởng là một chân
lý siêu việt của đạo Phật, nào ngờ là một giáo lý chắp vá, như chiếc áo may nhiều
loại vải thô xấu.
Câu: “Bồ tát
bịnh vì chúng sanh bịnh” cũng giống như câu: “Chúa chịu đóng đinh trên thánh
giá là vì Chúa chịu khổ thay cho con người”.
Trên bước đường
hoằng hóa độ sanh của Phật giáo, sau
Ngài A-Nan nhập
diệt, các vị lãnh
đạo Phật giáo lúc bấy giờ nguồn gốc là những giáo sĩ Bà La Môn và lục sư
ngoại đạo. Vì thế, kinh sách phát triển do các vị này biên soạn và viết ra, nên
các ngài
cố tình dìm giáo
lý của đức Phật xuống và lồng giáo lý của mình vào, để phát
triển một Phật giáo mới mang tên là “Phật giáo Đại thừa”.
Trước khi nhập
diệt, đức Phật
đã nhìn thấy trong môn đồ của mình, chưa có ai là người có đủ khả năng lãnh đạo giáo
hội và duy trì giáo pháp của mình.
Ngài biết rất
rõ, những kẻ
có khả năng, có trí
tuệ, có
học thức đều xuất thân từ
trong các gia
đình của Bà
La Môn và Lục sư ngoại đạo, họ còn mang đầy ắp những kiến
chấp trong tôn giáo của họ. Do
những kiến chấp
này, họ không thực hiện theo giáo pháp của đức Phật.
Và cũng
vì thế họ
tu hành không
giải thoát, không chứng
đạt. Còn những
đệ tử của đức Phật đã tu chứng thì hầu hết đã nhập diệt, chỉ
còn lại một số ít. Khi đức
Phật nhập diệt
xong và giáo đoàn bị
phân hóa chia
làm nhiều bộ
phái, do những người
có trình độ kiến
thức tranh danh, đoạt lợi với
nhau. Đức Phật biết rất rõ những đệ tử
này, nên không trao quyền thừa kế lãnh đạo Phật
giáo cho ai cả, chỉ nhắc
nhở các đệ tử của mình nên “lấy giới luật và giáo pháp làm
Thầy, không nên nương
tựa vào ai cả”. Ngài
đã từng dạy con người có ba tướng:
1- Nhân tướng
2- Hành tướng
3- Đặc tướng
Do ba đặc tướng
ấy, nên con người không ai giống ai. Vì thế, đức Phật không trao quyền thừa kế
cho người đệ tử nào hết. Bởi nếu được
trao quyền, họ sẽ dạy đạo theo đặc
tướng riêng của họ, thì Phật
pháp sẽ bị lệch đi, không
còn đúng chánh
pháp, dù đó
là những người đệ tử đã tu chứng,
còn những hạng đệ tử tu không chứng, thì lại
còn không được
trao quyền thừa kế hơn nữa.
Vậy mà sau
này, các vị giáo sĩ Bà La Môn còn bịa
câu chuyện “Niêm
Hoa Trên Núi Linh Thứu”, rằng đức
Phật đã trao quyền cho Ngài Ca Diếp thừa
kế làm tổ thứ nhất.
Đó là một
câu chuyện bịa đặt, thế mà mọi
người vẫn tin và còn tiếp tục xây dựng thành 33 vị Tổ Sư Thiền Đông Độ. Tuy
không được
trao quyền thừa kế, nhưng
họ đã khéo léo biến Phật giáo
thành Thần giáo. Giáo lý của Phật biến thành một giáo lý chấp ngã, thần quyền, mê
tín, mơ hồ, trừu
tượng, lạc hậu,
phi đạo đức, đi ngược lại giáo
lý chân
chánh của đạo Phật.
Những vị
giáo sĩ Bà La Môn và giáo sĩ của Lục Sư ngoại
đạo theo Phật
tu hành đạt được giải thoát thì lần lượt họ đã thị tịch trước
hoặc sau Ngài không bao lâu,
còn lại những
người tu chưa chứng
đắc, tâm danh lợi còn dẫy đầy.
Những vị tỳ kheo
này là những
tỳ kheo phá giới, phạm giới, sống không đúng phạm hạnh, tu
không đúng lời dạy của
Ngài, họ là những người
ngoại đạo, với những thâm ý sâu độc,
mang lớp tu sĩ Phật giáo, ẩn núp chờ khi đức Phật thị tịch là sẽ biến giáo pháp của Phật
thành giáo pháp
Bà La Môn và Ấn Độ giáo.
Quý vị,
nên đọc lại
kinh Phạm Võng “Bồ
tát giới”, cấm không cho tu sĩ và
cư sĩ học và tu theo pháp môn
Nguyên Thủy. “Bồ tát giới” cho giáo pháp
Nguyên Thủy của Phật là ngoại đạo,
là Thinh Văn thừa,
là Nhị thừa,
là phàm phu thiền...
Đọc Bồ
tát giới, chúng
ta mới thấy rõ thâm ý ác độc của ngoại đạo quyết tâm diệt
Phật giáo, có thủ đoạn và sách lược rõ ràng, với ý đồ lật đổ đức Phật Thích
Ca Mâu Ni thay vào bằng đức Phật Di Lặc, để dễ bề sử dụng
toàn bộ giáo pháp Đại thừa mà không còn ai nghi ngờ.
Và sẽ cấm không
cho tín đồ tu và học theo
giáo pháp của đức Phật Thích
Ca Mâu Ni, kinh sách và
giáo lý của đức Phật
Thích Ca Mâu Ni sẽ bị đốt sạch.
Đúng vậy,
sau khi đức Phật tịch,
trong giáo hội chia làm hai bộ
phái:
1- Thượng tọa
bộ
2- Đại chúng
bộ
Thượng tọa bộ là những tu
sĩ già thủ cựu, cố giữ nguyên giáo lý căn bản Nguyên Thủy của
đức Phật, không cho
ai thêm bớt một chữ
nào cả. Đem kinh sách này hoằng
hóa và phát triển đi về phương Nam, nên người thời bấy giờ gọi là Phật giáo Nam
tông.
Trên đường
hoằng hóa độ sanh, Thượng tọa bộ tuy cố giữ gốc Nguyên
Thủy, nhưng vì
các vị tu hành chưa chứng đắc, nên có sự kiến giải
trong giáo lý ấy bằng trí tuệ học giả,
hoặc bằng những kinh nghiệm chưa đến nơi
đến chốn, như thiền sư Mahàsi, thiền sư A-Chaan-chah. Hai
Ngài có những bài kinh biên soạn theo kiến giải kinh nghiệm tu
hành của mình
như: Mặt Hồ
Tĩnh Lặng, Thiền Minh Sát Tuệ, v.v.. Làm sai ý nghĩa và giáo pháp của đức Phật rất lớn.
Vì tu hành
chưa tới nơi tới chốn, nên các Ngài biên
soạn những loại
kinh sách này, trong
hiện tại và mai sau sẽ
để lại cho loài người những
tai hại rất lớn,
làm hao tài, tốn của và
phí cả cuộc đời của họ chẳng ích lợi gì, khi họ theo
tu những pháp môn này.
Trong thế kỷ này, tín đồ Phật giáo khắp năm
châu bốn
biển đua nhau tu tập thiền
Minh Sát Tuệ. Tu tập thiền
này phải tập
trung theo cơ bụng (phồng, xẹp) nhằm diệt “vọng tưởng”.
Loại thiền ấy thuộc
về thiền ức chế tâm,
nó không phải là thiền của đạo Phật,
thiền của Phật
giáo là loại thiền
xả tâm “ly dục,
ly ác pháp”. Mục đích tu hành của đạo Phật là phải khắc phục
cho bằng được tâm tham, ưu, tức là diệt ngã, xả
tâm, ly dục, ly ác pháp,
để đạt được
tâm thanh tịnh bất động.
Theo kinh nghiệm
tu hành của những người đã
trải qua, thì tâm thanh
tịnh bất động ấy là tâm không còn tham, sân, si. Khi tâm không còn tham, sân,
si thì tâm có một năng lực (đạo lực)
siêu việt, điều
khiển làm chủ
sanh, già, bịnh, chết.
Năng lực điều khiển
làm chủ sự sống
chết của
kiếp người mà đức Phật gọi là “Bốn
Như Ý Muốn”
(Tứ Như Ý
Túc), chứ không phải “Minh Sát”
theo kiểu thiền sư Mahàsi dạy.
Cũng trong
thế kỷ này,
thiền sư A
Chaan- Chah người Thái
Lan đã kiến
giải qua kinh nghiệm
tu hành của
mình sản xuất
ra một loại thiền “Tĩnh Lặng”. Qua hồi ký tu hành của
Ngài, do ức chế tâm hết vọng tưởng, Ngài đã rơi vào thiền tưởng, thay vì ngài
tu đúng pháp “ly dục, ly ác pháp” thì tâm
Ngài sẽ thanh
tịnh. Khi tâm thanh tịnh thì Ngài
sẽ nhập được Nhị thiền, Tam
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!