ham muốn; thủ là giữ gìn, bảo thủ. Hai chữ dục thủ có nghĩa là bảo thủ, cố chấp vào lòng ham muốn của mình, hay
còn
có nghĩa là không buông bỏ
lòng ham muốn. Biết lòng ham muốn là nơi tập hợp sinh ra muôn ngàn thứ khổ
đau
cho kiếp sống con ngƣời. Thế mà không ai bỏ đƣợc lòng
ham
muốn của
mình. Đó là dục thủ.
-
Sự
cố chấp, bảo thủ thứ hai là “Kiến thủ”. Vậy kiến thủ nghĩa là gì? Kiến thủ là chữ Hán. Kiến nghĩa là ý kiến của mình, sự hiểu biết của mình, sự vay mƣợn tích lũy những tƣ tƣởng tà kiến của ngƣời khác, của kinh sách ngoại đạo,
của triết học, của khoa học, y học, v.v…Thủ là
giữ gìn, bảo thủ. Hai chữ
“kiến thủ” có nghĩa
là bảo
thủ cố chấp vào ý kiến hiểu biết của mình hoặc vay mƣợn
của ngƣời khác. Nhƣng dù những ý kiến đó sai, mọi ngƣời ai nói gì, khuyên gì cũng không chịu buông bỏ những
kiến
chấp tà tƣ tƣởng,
tà pháp ấy, v.v...
Ví dụ: Kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ không phải
Phật thuyết, tu
tập chẳng ra gì, nhƣng họ
vẫn vô minh chấp
cứng giáo pháp đó. Ai nói kinh này sai là họ lộn gan lên
đầu.
B iết rằn g k iến
thủ
là
nh ữn g đ iều
sin h
ra n gu
mu ội,
k h iến
cho ta phải
ch ịu mu ôn n gàn
thứ
k h ổ
đ au . Th ế mà
ít
n gƣời
b ỏ đ ƣợc n h ữn g kiến
thủ đ ó !.
- Sự cố chấp, bảo
thủ thứ ba là “Giới cấm thủ”. Vậy Giới cấm thủ nghĩa là gì? Giới cấm thủ là chữ Hán, nghĩa là những giới luật bắt buộc một cách vô lý nhƣ: Tu hạnh con
bò,
tu hạnh con chó, đứng một chân, ngâm mình trong nƣớc, ăn phân bò con, ăn rất ít, ngủ ngồi, ngủ đứng, ngủ trên rác bẩn, giết 1.000 ngƣời thì chứng đạo, v.v... thì mới đƣợc cộng
trú
với Phạm Thiên.
Ba
chữ “Giới Cấm Thủ” có nghĩa là bảo
thủ, cố chấp vào tà giới luật làm khổ mình, khổ ngƣời, phí công sức tu tập mà chẳng
tìm thấy sự giải thoát
chân thật.
Những giới luật của Phật Giáo là những hành động đạo
đức
không làm khổ mình khổ ngƣời. Nên
giới
lu ật đ ã
giúp
ch o
n h ữn g n gƣời b iết g iữ
gìn
thì
có mộ t đ ời số n g an lạc với
tâ m
h ồn than
h thản và
vô
sự,
tràn đ ầy
h ạn h
p h ú c tron g
cu ộc
sốn g . Cho nên giới luật của Phật Giáo là pháp môn
thiện giúp cho con ngƣời sống trong thiện pháp. Nó là nền
tảng đạo đức nhân bản - nhân quả
của
loài ngƣời.
Còn giới cấm thủ là các ác pháp. Ví dụ: Khi ngồi kiết già
hai
chân bị đau mà cố ngồi chịu đau cho hết giờ. Đó là giới
cấm
thủ,
là giới luật làm khổ mình mà cứ cố giữ gìn. Ngƣời tu khổ hạnh là ngƣời bị giới cấm thủ ràng buộc. Cho nên
Đạo Phật không
chấp nhận khổ
hạnh, vì khổ
hạnh đi ngƣợc lại đƣờng lối
giải thoát của Đạo
Phật. Vì thế Đức Phật nói:
“Đạo Ta không có thời gian đến để mà thấy…”. Chính lời dạy này mà chúng ta mới biết Phật Giáo là đạo giải thoát
thật sự, không dối ngƣời.
- Sự cố chấp, bảo thủ thứ tƣ là “Ngã
chấp thủ”. Vậy Ngã chấp thủ nghĩa là gì? Ngã chấp thủ chữ Hán, nghĩa là bảo
thủ,
cố chấp sắc, thọ, tƣởng, hành, thức là ngã của mình, cho là ta, là của ta, bản ngã của ta. Nếu ai động đến thì sân
hận,
giận dữ, sinh ra phiền não
khổ
đau, v.v...
Con ngƣời sinh ra ở đời vì lầm chấp ngã là thật có, nên
phải
chịu nhiều thứ khổ đau. Bởi vì chấp ngã nên xem
ngã bằng trời, nếu ai
đụng đến ngã của họ là họ sẽ ăn thua
đủ...Cƣớp của, giết ngƣời, gian tham trộm
cắp
cũng vì ngã,
cờ
gian bạc lận cũng vì ngã, làm việc
mê tín, bói khoa, cúng sao giải hạn, xin xăm bói quẻ, cầu siêu cầu an lƣờng
gạt ngƣời cũng
vì ngã...
Ngã chấp thủ là những từ chỉ cho sự lầm
lạc, ngu si lầm
chấp cái không thật có
mà
cho là có thật. Ai cũng biết năm duyên ngũ uẩn hợp
lại thành
một con
ngƣời, khi năm duyên này rã ra thì chẳng có cái chi là con ngƣời, là ngã cả.
Bởi
chúng ta không chịu tƣ duy suy xét cho kỹ lại xem cái
gì là
ngã ở đâu. Nếu thật có ngã thì sau khi chết cái ngã ở đâu hay chỉ còn là
một
đống đất hôi thối?
Tóm
lại:
Dục thủ, Kiến thủ, Giới cấm thủ, Ngã chấp thủ là bốn điều bảo thủ cố chấp một cách lầm lạc, sai lệch để
mang lấy những
hậu
quả khổ đau bất tận từ kiếp này
sang kiếp khác.
Ngƣời tu theo Phật Giáo thấy bốn điều chấp thủ này thì rất
sợ hãi, luôn luôn tìm mọi cách từ bỏ, tránh xa. Xem
nó nhƣ loài rắn độc, khi bị nó cắn thì nọc độc lan khắp ngƣời, mà không có thuốc gì cứu chữa đƣợc. Vì thế mà loài ngƣời đành phải chịu chết trong bốn loại nọc độc này. Xin các bạn lƣu ý
ngay từ phút
này
cẩn thận dè dặt từng tâm niệm của mình nếu thấy có bóng dáng của: Dục thủ, Kiến thủ,
Giới
cấm thủ, Ngã chấp thủ thì phải mau mau diệt trừ tận
gốc .
LÀM THẾ NÀO ĐOẠN TẬN LẬU HOẶC NHANH CHÓNG
LỜ I P H ẬT DẠ Y
“Lúc bấy giờ có một Tỳ Kheo sanh khởi suy nghĩ nhƣ sau:
“Biết nhƣ thế nào, thấy nhƣ thế nào, các lậu hoặc đƣợc đoạn
tận lập tức”?
“Biết rõ tâm niệm này
Đức Phật liền trả lời với các Tỳ Kheo: “Này
các Tỳ Kheo! Pháp đã đƣợc giải thích, thuyết giảng; Bốn Niệm Xứ đã đƣợc giải thích, thuyết giảng; Bốn Chánh cần đã đƣợc giải thích, thuyết giảng; Bốn Nhƣ Ý Túc đã
đƣợc
giải thích, thuyết giảng; Năm Căn đã đƣợc giải thích
thuyết giảng; Năm lực đã đƣợc giải thích thuyết giảng; Bảy Bồ
Đề Phần đã đƣợc giải thích thuyết giảng; Thánh Đạo Tám ngành đã đƣợc giải thích thuyết
giảng”.
“Nhƣ vậy, này các Tỳ kheo, pháp đƣợc Ta giải thích thuyết giảng. Vậy mà ở đây còn có Tỳ Kheo khởi
lên suy nghĩ nhƣ sau: “Biết thế nào, thấy thế
nào,
các lậu hoặc đƣợc đoạn tận lập tức?”.
CH Ú GIẢ I:
Tất cả các pháp đã đƣợc Đức Phật giải thích và thuyết
giảng ở trên, nếu là một ngƣời biết đời khổ nhƣ thật, không
có
một vật gì là của mình, thì ngay đó buông
bỏ tức khắc, không còn tiếc rẻ một thứ gì nữa, ngay cả đến thân mạng cũng bỏ sạch, Chính buông bỏ nhƣ vậy, lậu hoặc đã đƣợc
đoạn
dứt tức thời. Nhƣng tại sao các vị Tỳ Kheo này đã nghe Phật thuyết giảng và giải thích mà lậu hoặc vẫn còn,
không đoạn tận đƣợc nên mới có những câu hỏi
nhƣ vậy.
Thƣa các bạn! Chính vì các bạn nghe thuyết giảng hiểu biết, nhƣng sự hiểu biết của các bạn chƣa nhƣ thật. Do sự
h iểu
b iết ch ƣa n h ƣ thật
n ên
các b ạn
b u ôn g bỏ
ch ƣa sạch,
h oặc vì n gh iệp củ a các
b ạn qu á sâu d ày,
tu y
có tâ m
q u yết
b u ôn g b ỏ,
n h ƣn g
n h ân
q u ả
còn đ eo man g ch ƣ a ch ịu ly h ay
n ói cách
k h ác là
chƣa chu yển h óa .
Những pháp trên đây đã đƣợc Phật thuyết giảng để cho
chúng ta tu
tập chuyển hóa nhân quả. Nhờ tu tập theo các
pháp này đúng
cách
thì mới chuyển
hóa nhân
quả sạch đƣợc. Chuyển hóa nhân quả sạch đƣợc tức là tâm vô
lậu.
Bài pháp trên đây
để
xác định cho chúng ta thấy rằng Phật Giáo
chỉ
có những pháp này
mà thôi, (không ngoài
37
phẩm
trợ đạo) không còn pháp nào khác nữa. Nhƣ thế
chúng ta không bị kẻ khác lừa đảo, vì nó
đƣợc xác định quả
quyết của Phật, khi các vị Tỳ Kheo hỏi Phật còn có pháp
nào vô lậu nữa không?
Xin các
bạn
đọc lại đoạn kinh trên để thấy Phật Giáo chỉ có những bài kinh vô lậu thiết thực, cụ thể, thực tế và rất đơn
giản: “Lúc bấy giờ có một Tỳ Kheo sanh khởi suy nghĩ nhƣ sau: “Biết
nhƣ thế nào,
thấy nhƣ thế nào,
các
lậu hoặc đƣợc đoạn tận lập tức?”
Biết rõ tâm niệm này
Đức
Phật liền trả
lời với các Tỳ Kheo:
“Này các Tỳ Kheo! Pháp đã đƣợc giải thích, thuyết giảng;
Bốn Niệm Xứ đã đƣợc giải thích, thuyết giảng; Bốn Chánh Cần
đã đƣợc giải thích,
thuyết giảng; Bốn Nhƣ Ý Túc đã
đƣợc giải thích, thuyết giảng; Năm Căn đã đƣợc giải thích thuyết giảng; Năm Lực đã đƣợc giải thích thuyết giảng;
Bảy Bồ Đề Phần đã đƣợc giải thích
thuyết giảng; Thánh Đạo Tám
Ngành đã đƣợc giải thích thuyết giảng. Nhƣ vậy,
này
các Tỳ Kheo, pháp đƣợc Ta giải thích thuyết giảng. Vậy
mà ở đây còn có Tỳ Kheo khởi lên suy nghĩ nhƣ sau: “Biết thế nào, thấy thế nào, các lậu hoặc đƣợc đoạn tận lập
tức?”
Đọc qua đoạn kinh này, các bạn đã biết rõ, Đạo Phật chỉ có
37 phẩm
trợ
đạo, không còn pháp nào khác hơn nữa. Vì đó là lời của Đức
Phật đã xác định. Còn có pháp nào khác nữa là của ngoại đạo.
LỜ I P H ẬT DẠ Y
“Dục hữu
Sắc hữu
Vô
sắc hữu”
CH Ú GIẢ I:
HỮU GỒM CÓ BA
CÕI NGƢỜI
Dục hữu là gì? Dục là lòng ham muốn; hữu là
có.
Dục hữu danh từ Hán có nghĩa là loài ngƣời và muôn loài động vật
trong cõi thế gian này. Vì loài ngƣời và các loài động vật đều có sự
ham
muốn (thích dục) giống
nhƣ nhau, nên
thƣờng sống trong dục (ham muốn). Nói dục hữu là nói
tâm trạng của tất cả chúng
sanh
trong vũ trụ nhất là trên hành
tinh này.
Tóm
lại dục hữu tức là dục giới có nghĩa là thế
giới của loài
ngƣời và loài thú vật.
ĐỊNH HỮU SẮC
Sắc hữu nghĩa là gì?
Sắc hữu là chỉ cho cảnh giới bốn thiền.
Cảnh giới bốn thiền tức
là trạng thái Tứ Thánh Định. Bốn
trạng
thái này trong kinh sách Đại Thừa thƣờng gọi
là bốn cảnh Trời hữu sắc:
1/ Sơ Thiền Thiên
2/ Nhị Thiền Thiên
3/ Tam Thiền Thiên
4/ Tứ Thiền Thiên
Bốn trạng thái thiền này do ý
thức tu tập tạo ra, nên gọi là bốn sắc cứu cánh thiên. Cho nên nói sắc hữu là chúng ta
biết
ngay là bốn trạng thái Tứ
Thánh Định.
ĐỊNH VÔ SẮC
Vô sắc hữu nghĩa là gì? Vô sắc hữu nghĩa là chỉ cho cảnh giới
bốn thiền vô sắc, Cảnh giới bốn thiền vô sắc tức là trạng thái Tứ Không Tƣởng Định. Bốn trạng thái này mà trong kinh sách Đại Thừa thƣờng gọi là bốn cảnh Trời vô sắc:
1/ Không Vô Biên Xứ Tƣởng Thiên
2/ Thức Vô Biên Xứ
Tƣởng Thiên
3/ Vô Sở Hữu Xứ Tƣởng Thiên
4/ Phi Tƣởng Phi Phi Tƣởng Xứ Tƣởng Thiên.
Bốn trạng thái thiền này do tƣởng thức tu tập tạo ra, nên gọi là bốn vô sắc cứu cánh thiên.
Cho nên, nói đến Vô sắc
hữu là nói
đến bốn định tƣởng này
THẾ GIỚI SIÊU
HÌNH KHÔNG CÓ
LỜ I P H ẬT DẠ Y
“Này Hiền giả Channa, tôi
tận mắt nghe Thế Tôn, tận mắt nhận lãnh từ Thế Tôn giáo giới này cho tôn giả Kaccànaghotta: “Thế
giới này dựa trên hai quan điểm, này
Kaccàna, hiện hữu và không hiện hữu. Ai thấy nhƣ thật với
chánh trí tuệ sự tập khởi của thế giới, thì không chấp nhận là thế giới không hiện hữu! Nhƣng này Kaccàna, ai thấy
nhƣ thật với chánh trí tuệ sự đoạn diệt của thế giới, thì không chấp nhận là thế
giới
có hiện hữu. Thế giới này phần
lớn,
này Kaccàna là chấp thủ các
phƣơng tiện và bị trói buộc
bởi những thành kiến.
Với
ai không đi đến không chấp thủ, không an trú vào chấp thủ các phƣơng tiện, tâm không an
trú và thiên kiến tùy
miên, vị ấy không nói; “Đây là tự ngã
của tôi”. Với ai nghĩ
rằng: “Cái gì khởi lên là đau khổ, cái gì diệt là đau khổ”, vị ấy không có phân vân nghi hoặc. Trí ở
đây không mƣợn nhờ ngƣời khác. Cho đến nhƣ vậy, này
Kaccàna là Chánh trí”.
CH Ú GIẢ I:
Đọc
đoạn
kinh này chúng ta thấy rất rõ ràng Đức Phật đã
xác định thế giới hữu hình và thế giới siêu hình không có
thật.
Con ngƣời trên hành tinh này
đều dựa trên hai quan điểm
cực
đoan “có” và “không” mà cho rằng: “Có hai thế giới
hữu hình và vô hình”. Cho nên có ngƣời chấp nhận “có hiện hữu” thì
không chấp nhận “không hiện hữu”. Nhƣng
sự hiện hữu do duyên hợp mà có nên thành
không
có.
Con ngƣời không có
chánh trí tuệ, nên điên đảo lầm chấp là thật có
hai
thế giới hữu hình và siêu hình.
Con ngƣời đau khổ vì thế giới không có thật mà cứ nghĩ
tƣởng là
có thật, do đó
chấp
chặt không dám buông xuống.
Cho n ên có
h iểu b iết
sắc
là
vô
thƣờn g, là k h ổ, là vô ngã,
n h ƣn g
b iết là đ ể
biết,
từ
b ỏ thì
kh ôn g từ b ỏ,
vẫn
thấy
sắc
là
mìn h , là của mìn h , là b ản n gã củ a mìn h
.
Đức Phật đã xác định thế
giới siêu hình không có thật là
tuyệt vời: “Ai thấy nhƣ thật với chánh trí tuệ
sự tập khởi của thế giới, thì không chấp nhận là thế giới không hiện hữu! Nhƣng này Kaccàna, ai thấy nhƣ thật với chánh trí tuệ sự đoạn diệt của thế giới, thì không chấp nhận thế
giới
có hiện hữu”.
Khi đọc đoạn kinh này chúng ta
cần phải hiểu rõ nghĩa những từ. Vậy thế giới
không
hiện
hữu là gì?
Và thế giới có hiện
hữu
là gì?
Thế giới không
hiện
hữu là thế giới
không
có hình sắc, thế giới không hình sắc tức là
thế giới vô hình.
Thế giới có hiện
hữu là thế giới có hình sắc, tức là thế giới
mà
chúng ta đang sống đang có mặt. Hai thế giới
n ày đ ều do tƣởn g
tri d ựn g lên, n ó
đ ều
k h ôn g nh ƣ thật
. Nếu ngƣời nào chấp nó thì phải thọ chịu lấy
những sự khổ đau.
LỜ I P H ẬT DẠ Y
PHÁP MÔN
NHƢ LÝ
TÁC Ý
“Thƣa Hiền giả Sàriputta (Xá Lợi Phất) những pháp gì Tỳ
kheo
giữ giới cần phải nhƣ lý tác ý”?
“Này Hiền giả
Kotthika, Tỳ Kheo
giữ giới cần phải nhƣ lý tác ý năm thủ uẩn là vô thƣờng, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi
tên, bất hạnh, ngƣời lạ, ốm đau, ngƣời lạ hủy hoại, rỗng
không,
vô ngã”.
“Thế
nào là năm? Tức là
sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tƣởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn”.
“Này Hiền giả Kotthika,
vị
Tỳ Kheo giữ giới cần phải nhƣ lý
tác ý
năm thủ uẩn là vô thƣờng, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, ngƣời lạ, hủy hoại, rỗng không, vô
ngã”.
“Này Hiền giả, sự kiện này xảy ra: Tỳ Kheo giữ giới do nhƣ lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thƣờng...
vô ngã, có thể chứng
đƣợc quả
“Dự lƣu”.
“Với Tỳ Kheo đã chứng quả Dự lƣu, này Hiền giả Sàriputta, những pháp gì cần phải nhƣ lý tác ý
nữa”?
“Với Tỳ Kheo đã chứng quả Dự lƣu, này Hiền giả Kotthika cần phải tác ý năm thủ uẩn này là vô thƣờng... vô ngã. Sự
kiện này có thể xảy ra, này Hiền giả, Tỳ Kheo Dự lƣu, do
nhƣ lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thƣờng... vô ngã, có thể
chứng đƣợc quả “Nhất
lai”.
“Nhƣng Tỳ Kheo Nhất Lai, này Hiền giả Sàriputta, phải nhƣ
lý
tác ý các pháp
gì”?
“Tỳ Kheo Nhất Lai, này Hiền giả Kotthika, phải
nhƣ lý tác ý
năm thủ uẩn này là vô thƣờng... vô ngã. Sự kiện này có thể xảy ra”.
“Này Hiền giả, Tỳ Kheo Nhất Lai do nhƣ lý tác ý năm thủ
uẩn
này là vô thƣờng... vô ngã, có thể chứng đƣợc quả “Bất
Lai”.
“Nhƣng Tỳ Kheo Bất Lai, này Hiền giả Sàriputta, cần phải nhƣ lý
tác ý những pháp gì”?
“Tỳ Kheo Bất
Lai, này Hiền giả
Kotthika, cần phải nhƣ lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thƣờng... vô ngã. Sự kiện này
có
thể xảy ra, này Hiền giả, Tỳ
Kheo Bất Lai, do nhƣ lý
tác ý năm thủ uẩn này là vô thƣờng...vô ngã, có thể chứng
đƣợc quả “A
La Hán”.
“Nhƣng Tỳ Kheo A La Hán, này Hiền giả Sàriputta, cần phải
nhƣ lý
tác ý những pháp gì”?
“Với vị A La Hán,
này
Hiền giả Kotthika, không
có gì phải làm nữa hay không
có phải thêm gì nữa trong công việc làm.
Những sự tu tập, làm cho sung mãn những pháp này sẽ đƣa
đến
hiện tại lạc trú và chánh niệm tỉnh giác. (Tƣơng Ƣng kinh tập 3 trang 298).
CH Ú GIẢ I:
QUẢ TU ĐÀ HOÀN
Theo nhƣ trong bài kinh này dạy thì pháp tu hành phải có
kết quả từ thấp đến cao đều duy nhất có một pháp tu tập,
đó là pháp NHƢ LÝ TÁC Ý NĂM THỦ UẨN. Khởi sự bắt đầu tu
tập là phải tu tập giới luật. Vậy
tu tập giới luật phải tu tập
nhƣ thế nào?
Chúng ta hãy lắng nghe pháp thoại giữa ông Sàriputt và ông Kotthika: “Thƣa
Hiền giả Sàriputta, (Xá Lợi Phất) những pháp gì Tỳ
kheo giữ giới cần phải
nhƣ lý
tác ý”?
“Này Hiền giả
Kotthika, Tỳ Kheo
giữ giới cần phải nhƣ lý tác ý năm thủ uẩn là vô thƣờng, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi
tên, bất hạnh, ngƣời lạ, ốm đau, ngƣời lạ hủy hoại, rỗng
không,
vô ngã”.
“Thế
nào là năm? Tức là
sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tƣởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn”.
Nhƣ các bạn đã biết năm thủ uẩn là thân
ngũ uẩn của các bạn. Mục đích của bài
pháp
này dạy là các bạn tu tập năm
thủ uẩn bằng pháp nhƣ lý
tác ý với câu này: “ Năm thủ u ẩn
là vô
th ƣờ n
g, kh ổ,
bện h
h oạn ,
un g
nh ọt,
mũ i tên , bất h ạnh ,
n gƣờ i
lạ,
ốm đau , n gƣời lạ
h ủ y
h oại, rỗn g kh ôn g,
vô n gã
”. Muốn giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh,
không
hề vi phạm
một lỗi nhỏ nhặt nào, thì luôn luôn phải tác ý câu trên đây.
Tác ý
câu trên đây cho đến khi nào giới luật nghiêm chỉnh,
tức
là giới luật thanh tịnh. Giới luật thanh tịnh là các bạn
đã
đƣợc dự vào dòng Thánh. Đƣợc dự vào dòng Thánh.
Dòng Thánh có tên gọi là TU
ĐÀ HOÀN. Cho
nên bài kinh này đã xác định rõ ràng: “Này Hiền giả, sự kiện này xảy ra: Tỳ Kheo giữ giới do nhƣ lý tác
ý năm thủ uẩn này là vô thƣờng... vô ngã, có thể chứng đƣợc quả “Dự lƣu” (Tu Đà Hoàn).
QUẢ TƢ ĐÀ
HÀM
Khi Giới luật nghiêm chỉnh các bạn sẽ là một bậc Thánh giới
của Phật Giáo, tức là các
bạn
đã ly dục ly ác pháp
tƣơng ƣng với Sơ Thiền. Khi tu tập đạt đƣợc kết quả này
các
bạn lại tiến bƣớc thêm trên đƣờng thiền định bằng
phƣớng pháp nhƣ lý
tác ý năm thủ uẩn nhƣ trong kinh
dạy:
“Với Tỳ Kheo đã chứng quả Dự lƣu, này Hiền giả Sàriputta, những
pháp gì cần phải nhƣ lý tác ý
nữa”?
“Với Tỳ Kheo đã chứng quả Dự lƣu, này Hiền giả Kotthika cần phải tác ý năm thủ uẩn này là vô thƣờng... vô ngã. Sự
kiện này có thể xảy ra, này Hiền giả, Tỳ Kheo Dự lƣu, do
nhƣ lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thƣờng... vô ngã, có thể chứng
đƣợc quả
“Nhất lai”.
Chỉ có một pháp duy nhất NHƢ LÝ TÁC Ý NĂM THỦ UẨN mà
các
bạn đã chứng quả
Nhất Lai. Quả Nhất Lai là quả TƢ ĐÀ HÀM quả này tƣơng ƣng với quả Nhị Nhiền. Nhƣ vậy các bạn muốn nhập Nhị Thiền thì các bạn chỉ cần dùng pháp NHƢ LÝ TÁC Ý NĂM THỦ UẨN là
diệt
tầm tứ nhập Nhị Thiền.
Bây giờ các bạn biết rõ pháp tu tập
để
nhập Nhị Thiền
chƣa? Từ lâu các bạn chỉ ở trên lý thuyết của các học giả.
B
ây giờ
k h ôn g
còn lý thu yết n ữa
là
ph áp
h àn h cụ thể rõ
ràn g,
k h ôn g còn
mơ h ồ trừu tƣợn g n ữa .
QUẢ A NA HÀM
Hiện giờ các bạn nhập đƣợc Nhị Thiền, chứng đƣợc quả
Nhất Lai thì các bạn lại tiếp tục tu tập pháp NHƢ LÝ TÁC Ý
NĂM
THỦ UẨN nhƣ trong kinh đã dạy: “Nhƣng Tỳ Kheo Nhất Lai, này
Hiền giả Sàriputta, phải nhƣ lý
tác ý các pháp gì”?
“Tỳ Kheo Nhất Lai, này Hiền giả Kotthika, phải
nhƣ lý tác ý
năm thủ uẩn này là vô thƣờng... vô ngã. Sự kiện này có thể xảy ra”
.
“Này Hiền giả, Tỳ Kheo Nhất Lai, do nhƣ lý tác ý năm thủ
uẩn
này là vô thƣờng... vô ngã, có thể chứng đƣợc quả “Bất Lai”.
Do tu tập pháp NHƢ LÝ
TÁC Ý NĂM THỦ UẨN mà chứng
đƣợc quả bất lai. Quả bất lai tức là Quả A Na
Hàm. Quả A Na Hàm tƣơng ƣng quả của Tam Thiền
là ly hỷ trú xả. Nhƣ
vậy các bạn muốn nhập Tam Thiền thì chỉ cần thực hành pháp NHƢ LÝ TÁC Ý NĂM THỦ UẨN .
QUẢ A LA HÁN
Sau khi tu tập chứng quả A Na Hàm xong thì các bạn tiếp tục tập để chứng quả A La Hán, muốn tu chứng quả A La
Hán thì các bạn nên tu tập Thiền Thứ Tƣ. Thiền Thứ
Tƣ là
phải
tịnh chỉ hơi thở, là phải xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh
tịnh. Nhƣ vậy muốn tịnh chỉ hơi thở xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh thì phải làm
sao? Tu tập nhƣ thế nào để đạt
đƣợc quả A La Hán? Vậy các bạn hãy lắng nghe ông Xá Lợi Phất dạy: “Nhƣng Tỳ Kheo Bất Lai, này Hiền giả
Sàriputta, cần phải
nhƣ lý tác ý những
pháp gì”?
“Tỳ Kheo Bất
Lai, này Hiền giả Kotthika, cần phải nhƣ lý tác ý năm thủ uẩn này
là vô thƣờng... vô ngã. Sự kiện này có thể
xảy ra, này Hiền giả, Tỳ Kheo Bất Lai, do
nhƣ lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thƣờng... vô ngã, có thể chứng đƣợc quả
“A La Hán”.
Nhƣ lời
d ạy trên đ ây
ch ú n g
ta
th ấy
rất đ ơn giản
p h áp NH
Ƣ
L Ý T ÁC Ý NĂM
T H Ủ
UẨN . Ch ỉ có
b ấy n h iêu thôi
mà tu
tập
ch ứn g
q u ả
A
L
a Hán
thật
k h ôn g có
k h ó
k h ăn , k h ôn g có
mệt
n h ọc.
Phải không các bạn? Cho nên Phật dạy: “Với
tâm định tỉnh nhu nhuyến, dễ
sử dụng, nhập bốn thiền, thực hiện Tam Minh không có khó khăn, không có mệt nhọc ”,
n h ƣn g làm sao đ ạt
đ ƣợc tâ m
đ ịn h
tỉnh , nh u nh u yến ,
d ễ sử
d ụ n g? Th ì
ra là ph áp môn
NH Ƣ L Ý T ÁC Ý NĂM T H Ủ UẨN .
Vậy, bây giờ các bạn đã biết pháp tu rồi chứ! Nếu không có
bài
kinh này chắc các
bạn
không bao giờ biết cách thức
nào và làm sao nhập Tứ Thánh Định và
thực hiện Tam Minh.
Pháp môn NH Ƣ L Ý T ÁC Ý NĂM
T H Ủ
UẨ N là
pháp môn gì, các
b ạn có
b iết k h ôn g?
Đó
là
p h áp
môn T ứ Niệ m X ứ
các b ạn
ạ!
S au k h i soạn thảo giáo trìn h tu h ọc
ch o
tá m l ớp và b a
cấp
củ a
Ph ật
Giáo thì ch ú n g tôi sẽ đ ƣa n h ữn g
b ài h ọc
và
tu
tập
n ày giản
g d ạy
đ ún g chƣơn g
trìn h
giáo
dụ c
đào tạo b ậc
A
L a Hán
th ì các b ạn sẽ
hiểu rõ bài
k inh
n ày n h iều
h ơn
.
CHỨNG QUẢ A LA HÁN CÒN TU PHÁP NÀO NỮA KHÔNG?
Sau khi tu chứng quả A La Hán xong thì còn tu tập pháp
môn nào nữa không?
Thƣa các bạn! Khi tu chứng quả A La Hán xong thì không còn tu tập pháp môn nào nữa,
vì tu tập đến đó là tu tập đã
xong, Chứng quả A La Hán là kết
quả
cuối cùng của con
đƣờng tu theo Phật Giáo, đó là mục đích mà bốn chân lý của Phật Giáo đã xác định “DIỆT ĐẾ”, cho nên nó không
còn
phải tu tập pháp gì nữa khác. Xin các bạn hãy lắng nghe ông Xá Lợi Phất dạy: “Nhƣng Tỳ Kheo A La Hán, này
Hiền giả Sàriputta, cần phải
nhƣ lý
tác ý những pháp gì”?
“Với vị Alahán, này Hiền giả Kotthika,không có pháp gì phải làm
nữa hay khôg có phải
thêm gì nữa trong
công việc làm”.
“Những sự
tu tập, làm cho sung
mãn những
pháp này sẽ đƣa
đến
hiện tại lạc trú và chánh niệm tỉnh giác”. (Tƣơng Ƣng kinh tập 3 trang 298).
Đoạn
k inh
n ày đ ã
xác
đ ịn h
rõ ràn g, n gƣời tu
ch ứn g q u ả A
L
a Hán
là
k h ôn g
còn tu n ữa,
vậy
mà Đại T h ừa
d ám b ịa
đ ặt
ra tu ch ứn g q u ả A L a Hán xon g
còn p h ải tiếp
tục
tu
tập
đ ể
ch ứn
g q
u ả Ph ật.
Đại
T h ừa xây d ựn g q u ả Ph ật cao
h ơn
q u ả
A La Hán. Khi tu chứng quả A La Hán là quả tâm vô lậu. Tâm vô lậu là tâm không còn khổ đau, tâm giải thoát, tâm làm chủ sanh, già,
bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi. Thế mà Đại Thừa còn bảo tu nữa,
đ ó
là
ý
đ ồ củ a Đại T h ừa
là mu ốn q u ét
sạch
Ph ật
Giáo ra
k h ỏi
thế
gian
n ày, ch o n ên
đ ặt
ra q u ả Ph ật đ ể
d iệt q u ả A L a Hán . Diệt quả A La Hán
tức
là diệt chân lý thứ ba của Phật Giáo (Diệt đế). Quả Phật
không phải
Diệt đế, vì Diệt đế là tâm vô
lậu.
Đọc
đ ến
b ài k in h
n ày các
b ạn mới thấy rõ
â m mƣu củ a Đại
T
h ừa và T h iền T ôn
g rất mu ốn d iệt
Ph ật
Giáo mộ t cá ch
sâu
sắc kh iến
cho tín đ ồ Phật Giáo
k h ôn g thể n ào
n gờ đ ƣợc .
Trên đây là một bài pháp mà Phật đã dạy cho chúng
Tỳ Kheo về pháp môn NHƢ LÝ TÁC
Ý NĂM
THỦ
UẨN vô thƣờng…vô ngã. Duy nhất chỉ có một pháp nhƣ lý tác ý
năm
thủ uẩn vô thƣờng…vô ngã. B ắt
đ ầu tu tập n h ƣ vậy,
sẽ ch ứn g từ qu ả Dự Lƣu đ ến
qu ả A
La H án .
Xem bài kinh trên đây chúng ta mới thấy pháp nhƣ lý
tác ý rất quan trọng trong sự tu tập theo Phật Giáo. Nếu tu theo
Ph ật
Giáo mà
k h ôn g có
p h áp
n h ƣ lý tác ý thì ch ú n g
tôi
tin
rằn g k h ôn g
có ai tu giải thoát đ ƣợc. Và
k h ôn g
có p h áp n h ƣ
lý tác
ý
thì
ch ú n g
ta
sẽ
tu
thiền
đ ịn h
tƣởn g của
n goại đ ạo,
ch ứ k h ôn g ph ải thi ền đ ịn h củ a Ph ật Giáo
(Chánh Định).
Bài kinh này xác định rằng:
Ngƣời n ào
d ù n g ý thức tu tập
p h áp
n h ƣ lý tác ý đ ể ly tham,
đ oạn d iệt
ác
p h áp , là kh ôn g
tu sai Ph ật Ph áp ,
còn n gƣợc lại
là tu sai. Và
nh ƣ vậy ch ú n g
ta mới có
đ
ủ n
iề m tin v ữn g ch
ắc đ
ối với p h áp môn n ày.
Có
n iềm tin vữn g
ch ắc
với Ph ật p h áp ,
th ì
mới
có đ ủ
ý
ch í
sắt,
đ á và k iên gan ,
b ền
c h í
ch iến
đ ấu với
giặc
san h tử . Nhờ đó thì sự
tu
hành mới có tiến bộ
và đạt đến đích
cuối
cùng.
Trên đây là một pháp
môn
tu tập rất đơn giản của Phật Giáo, không bị
ức chế tâm một chút nào cả, mà bất cứ
ngƣời nào từ già đến trẻ đều tu tập có kết quả giải thoát
nhƣ nhau. Đó là “PHÁP MÔN NHƢ LÝ TÁC Ý NĂM THỦ UẨN”.
Xin các bạn hãy vững lòng tin mà áp dụng vào đời sống của mình thì
các bạn sẽ thấy kết quả
giải thoát ngay liền.
LỜ I P H ẬT DẠ Y
BẬC A LA HÁN
“Này
Ràdha, có năm thủ uẩn này, Thế nào là năm? Sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tƣởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ
uẩn”.
“Này Ràdha! Khi nào Tỳ Kheo sau khi nhƣ thật biết rõ, sự tập
khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly
của năm thủ uẩn này, vị ấy đƣợc giải thoát, không có chấp
thủ;
nhƣ vậy, gọi vị Tỳ Kheo là bậc A La Hán, đã đoạn tận các lậu hoặc, đã thành tựu Phạm hạnh, đã làm những việc phải làm, đã đặt gánh nặng xuống,
đã đạt đƣợc mục đích, đã đoạn tận hữu kiết sử, đã giải thoát nhờ chánh trí”. (Tƣơng Ƣng Kinh tập 3 trang 337).
CH Ú GIẢ I:
Đọc qua
đoạn
kinh này, chúng
ta thấy chứng
quả A La Hán không phải khó khăn, chỉ có thật quán thân ngũ uẩn nhƣ thật, để thấu suốt năm uẩn này không phải là ta, là của ta, là bản ngã
của ta, nó vô
thƣờng, khổ, vô ngã,
nó
là ngƣời xa lạ, nó là nguy
hại,
là ổ bệnh tật khổ
đau,
v.v...
Chỉ cần chính quán nhƣ lý
tác ý năm thủ uẩn này nhƣ vậy,
thì chứng quả A La Hán không có khó
khăn,
không có mệt
nhọc. Đọc
h ai b ài
k inh
tron g
tập
3
Nhữn g L ời Ph ật Dạy
n ày,
thì
q u ý
vị
T
h ấy Phật Giáo k h ôn g
p h ải
là
p h áp
môn tu
tập k h ôn g
đ ƣợc . Nhƣng chúng ta phải thấy rằng: Ngƣời
tu
theo Ph ật Giáo
p h ải
có n gh ị lực, p h ải gan d ạ
và b ền chí thì
mới
thực
sự
thấy
thân
n gũ u ẩn
kh ôn g p h ải
là
ta,
là
củ a
ta
. Còn nếu không có nghị
lực, không gan dạ và bền chí thì xin các bạn đừng tu theo Phật Giáo. Dù bạn có tu cũng chẳng
có lợi ích gì cho bạn.
Đoạn
k in h
trên
đ ã xác đ ịn h rõ
ràn g
đ ƣờn g
lối
và
c ách
thứ c
tu tập củ a Đạo Ph ật nh ƣ thật qu án thân
n gũ
u ẩn thì
sẽ
ch ứn g q u ả A L a Hán rõ
ràn g
và
cụ thể . (Đến đây tạm dừng
tập bốn này xin chúc các bạn tinh cần tu tập gặp đƣợc thắng duyên trên Đƣờng Về
Xứ Phật sớm thoát khổ
đau.)
(Hết Tập Bốn – Xin Mời Quí Phật Tử Đọc Tập Tiếp Theo)
----Øv×----
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!