x
các bạn ạ! Vì trạng thái Bi Tâm đã có đầy đủ thiền định và Tam Minh, mặc dù bạn chƣa bao giờ có một phút tu tập Thiền
định.
7/ H Ỷ TÂM
THỨ BẢY:
HỶ TÂM LÀ PHÁP ĐỘC NHẤT
TRONG KINH BÁT THÀNH
“Hỷ tâm này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự
vật
gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt.” Vị ấy vững trú ở đây
đoạn
trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn
trừ,
do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy
đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết Bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này. Này Gia chủ như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Trí Giả,
Kiến Giả, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố...”
CH Ö GIẢ I:
Nếu bạn chọn Hỷ tâm
tu tập rèn luyện, khi Hỷ tâm
thành tựu thì tâm tham, sân, si, mạn, nghi không còn nữa, do lòng hoan hỷ của bạn đã đoạn trừ các ác pháp. Nhờ đó
tâm
bạn vô lậu hoàn toàn, chứng quả A La Hán. Khi chứng
quả A La Hán với tâm hỷ
thì bạn không cần phải
tu tập thiền định và Tam Minh gì cả, vì chính trong tâm hỷ
của bạn đã đầy đủ Bốn Thiền và Tam Minh, bạn có thể
thực hiện giờ nào cũng
đƣợc không có khó
khăn không có
mệt nhọc.
vvv
8/ XẢ TÂM
THỨ TÁM:
XẢ TÂM LÀ PHÁP ĐỘC NHẤT
TRONG KINH BÁT THÀNH
“Xả tâm này
là pháp hữu vi, do suy tư tác
thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt.” Vị ấy vững trú ở đây
đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy
đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết
Bàn
tại cảnh giới
ấy,
khỏi phải trở lui
đời này.
Này
Gia chủ như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Trí Giả,
Kiến Giả, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác tuyên
bố...”
CH Ö GIẢ I:
Nếu bạn chọn lấy
pháp Xả tâm mà tu tập và
rèn
luyện tâm mình, khi tâm xả thành tựu thì bảy năng lực Giác Chi xuất hiện,
lúc
bấy giờ các bạn muốn nhập thiền
nào thì các bạn sẽ tác
ý theo trạch Pháp Giác Chi thì nhập ngay thiền
ấy và thực hiện Tam
Minh không có khó khăn không có mệt nhọc. Bởi vì xả vô lƣợng tâm ác thì tất cả lậu hoặc sẽ
đƣợc đoạn trừ. Khi lậu hoặc đã trừ diệt xong thì các bạn chứng quả A La Hán, không cần phải tu tập pháp môn nào
khác
nữa.
Trên đây là tám pháp độc nhất mà các bạn tự lựa chọn cho mình một pháp phù hợp với đặc tƣớng để tiện việc tu tập cho đến nơi
đến chốn.
Thƣa các bạn! Các bạn nên nhớ kỹ và
hãy
xét lại thân tâm
của các bạn trong giai đoạn ôm một pháp độc nhất này tu
tập. Nếu các bạn cảm thấy mình có đủ khả năng để ôm
một pháp độc nhất thì nên tu tập, còn nếu thấy khả năng
chƣa đủ thì đừng nên. Nếu các b ạn
miễn
cƣõn g tu tập s ẽ b ị
ức
ch ế
tâm, và tu n h ƣ vậy d ễ th àn h
b ệnh
h ơn là
thàn h
đ ạo
. Một ngƣời mới vào tu theo Phật Giáo thì không đƣợc phép tu tập một pháp độc nhất mà phải tu tập nhiều
pháp, vì tu tập nhiều pháp nên không bị ức chế tâm. Tu ức chế
tâm
có hai điều nguy
hiểm:
- Căng đầu, căng mặt, căng thần
kinh thành bệnh.
- Rơi vào tƣởng định, tƣởng tuệ phát triển, kiến giải tƣởng
giải lung tung. Con đƣờng tu giải thoát
bế tắc, biến ngƣời tu sĩ Phật Giáo trở
thành những vị thầy phù thủy, thầy
cúng,
thầy bùa, thầy thuốc trị bệnh,
trừ tà yểm quỷ,
v.v...
Kinh Bát Thành chỉ dành riêng cho những bậc
giới luật nghiêm túc,
tâm không phóng dật, nhƣ trên đã nói, chứ
không phải để cho những ngƣời phá giới phạm giới tâm
còn
phóng dật. Các bạn nhớ kỹ,
nhƣ kinh đã
dạy: “Nếu có
Tỳ Kheo nào tâm không phóng dật”. Xƣa Đức Phật sáu
năm
tu tập khổ hạnh trong rừng già, Ngài
đã sống một đời
sống
Phạm hạnh chƣa từng có một tu sĩ nào sống đƣợc
nhƣ vậy. Vì thế thân tâm Ngài quá thanh tịnh, giới luật
quá
nghiêm túc. Do đó Ngài trở về với pháp Sơ Thiền độc
nhất
ly dục ly bất thiện pháp, Ngài thành tựu giải thoát
nơi chính pháp môn này. Xin các bạn đọc
lại bài Đại Kinh
Saccaka thì rõ.
Bây giờ xin các bạn vui lòng đọc lại đoạn kinh Bát Thành
trên đây thì hiểu rõ ràng: “Nếu có Tỳ Kheo nào không
phóng dật, nhiệt tâm tinh cần sống hành trì pháp ấy, thời tâm chưa giải thoát của vị ấy được
giải thoát, hay các
lậu hoặc chưa được
đoạn trừ, đi đến đoạn trừ, hay pháp an ổn
khỏi
các ách phược, chưa được chứng
đạt được chứng đạt”. Đọc hết đoạn kinh này, chúng tôi xin nhắc lại, các bạn cần phải lƣu ý câu duy
nhất: “Nếu có Tỳ Kheo nào tâm không phóng dật”. Bốn chữ “Tâm không phóng dật” các bạn nên
biết đó là một giai đ oạn
tu
tập
sốn g ch ết
với tâ m tha m,
sân ,
si
củ a
b ạn b ằn g
nhiều p h áp môn
ch o
đ ến
k h i
n ào tâm
thu ần
ph ụ c kh ôn g
p h ón g
d ật thì b ạn
mới
d ám ô m mộ t
p h áp đ ộc n h ất
.
Các bạn có hiểu chƣa?
Chúng tôi đƣa bài kinh
Bát Thành này ra đây có ba điều
rất
quan trọng để các bạn cần phải lƣu ý:
-
T h ứ
n h ất
: Không nên tin trọn vẹn vào kinh sách, vì kinh sách
đƣợc kết tập là do các Tổ, nhƣng các Tổ thêm vào và pha trộn các pháp môn của ngoại đạo, làm cho kinh sách
Phật mất hết giá
trị giải thoát
chân thật của nó.
-
T h ứ
h ai
: Phải biết khả năng và đặc tƣớng của các bạn khi chọn tu tập một pháp môn độc nhất nào hay phải tu
tập nhiều pháp môn. Nếu chƣa nắm vững đƣợc điều này thì nên tập sống
đúng
đời
sống Phạm hạnh, giới luật
nghiêm trì, chứ đừng nên tu tập pháp môn nào khác cả, vì
nếu có tu tập bất cứ một pháp nào cũng chỉ là ức chế tâm mà thôi. Ngày xƣa các Tổ không có ngƣời tu chứng hƣớng dẫn nên các Ngài tuy tu tập theo pháp môn của Phật,
nhƣng đã
biến
pháp môn của Phật thành pháp môn ức chế
tâm
của ngoại đạo. Đó là một lỗi lầm rất lớn của các Tổ,
làm cho ngƣời đời sau mất đƣờng
lối tu tập theo đúng Chánh Phật pháp.
-
T h ứ
b a : Pháp môn độc nhất của Phật ở đây đã khiến cho những nhà học giả điên đầu, không thể hiểu đƣợc, nhất là
lời dạy này: “Vị ấy đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hoá
sanh, nhập Niết Bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui lại đời này nữa”. Nếu đoạn kinh này không đƣợc giải thích rõ ràng thì mọi ngƣời sẽ nghĩ rằng Đạo Phật có thế giới siêu hình. Nếu dựa vào kiến giải của những nhà học giả cho
rằng Đạo Phật có thế giới siêu hình thì rất oan uổng cho Phật Giáo, khiến
cho Phật Giáo tự mâu thuẫn lại với
nó.
Phật Giáo cho rằng không có thế giới
siêu hình là vì chủ
trƣơng tự
lực vƣợt thoát khổ đau,
không nhờ tha lực: “Tự thắp đuốc lên mà đi”.
B ởi
vì
n ếu
có thế giới siêu h ìn h
thì
p h ải có
tha
lực,
mà có
t h a
lực
thì
sẽ
có sự b ất
côn g
. Có sự
bất
công thì trong cuộc đời này đau khổ sẽ không bao giờ hết và nhƣ vậy bốn chân lý loài
ngƣời của Phật Giáo không còn là chân lý nữa. Và thế gian này sẽ không còn có công bằng và công lý, chỉ còn là một cuộc sống bất công.
Tôn Giáo chỉ là một mánh khoé lừa đảo bằng hình thức
cầu
khẩn, cúng tế, bái lạy, v.v... Các đấng thiêng liêng ảo
tƣởng của các tôn giáo gia hộ tai qua, nạn khỏi, bệnh tật
tiêu trừ, chỉ là những trò bịp bợm, chứ thế gian này khổ
cũng không bao giờ hết khổ. Và cũng vì vậy mà nền đạo
đức
nhân bản – nhân quả của con ngƣời không bao giờ có đƣợc.
Muốn biết rõ Phật Giáo không có thế giới siêu hình qua
đoạn
kinh Bát Thành này thì chúng tôi
xin rút ra và giải thích một pháp
trong
tám pháp
của
kinh
Bát
Thành, chẳng hạn nhƣ bài pháp thứ nhất là pháp Sơ Thiền. Xin
các
bạn vui lòng đọc lại đoạn kinh này: “Ở
đây này gia chủ, Tỳ kheo ly dục ly bất thiện pháp chứng và trú thiền thứ
nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Vị
ấy suy tư và được biết: “Sơ
Thiền này là
pháp hữu vi, do suy
tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy
tư tác thành, thời sự vật ấy là
vô
thường chịu sự đoạn diệt.” Vị ấy
vững trú ở đây đoạn
trừ được các lậu hoặc. Và nếu các
lậu hoặc chưa được
đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ
pháp
này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được
hóa
sanh, nhập Niết Bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này. Này gia chủ như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc
Trí Giả, Kiến Giả, Bậc
A La Hán, Chánh Đẳng Giác
tuyên bố...”
Qua đoạn kinh này chúng ta cần lƣu ý
đoạn: “Sơ Thiền
này
là pháp hữu vi, do
suy
tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do
suy
tư tác thành,
thời
sự vật ấy là vô thường
chịu sự đoạn
diệt.”
Bốn Thánh Định là Thiền Hữu Sắc, Thiền Hữu Sắc là
pháp
hữu vi do ý thức tu tập làm nên (do suy tƣ tác
thành), và nhƣ vậy bốn Thiền là
pháp vô thƣờng, mà pháp
vô thƣờng là phải chịu sự hoại diệt (thời sự vật ấy là vô
thƣờng chịu sự đoạn diệt).
Đoạn kinh trên đã xác định cho các bạn thấy rất rõ trạng
thái Sơ
Thiền trong tâm
các
bạn không phải là trạng thái
vĩnh
hằng mà chỉ là một
trạng thái thọ hƣởng phƣớc thiện trong một
thời gian nhất
định. Khi thọ hƣởng phƣớc thiện do diệt năm hạ phần kiết sử hết thời gian nhất định thì
trạng
thái ấy bị hoại diệt vì
nó là pháp hữu vi vô
thƣờng.
Thƣa các bạn! Trạng thái ấy không phải
là cảnh giới siêu hình nhƣ các bạn tƣởng. Khi nào các bạn nhập Sơ Thiền
là bạn cảm nhận trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm, có tứ, có hỷ, có lạc, có nhất tâm, d o ý thức b ạn
b iết rất
r õ
n h ƣ vậy
làm
sao
là
cảnh
giới
siêu hìn h đ ƣợc . Ngoài ý thức, thân và tâm của bạn thì không có cái biết và cái cảm nhận trạng thái Sơ Thiền
đó.
Khi thân tâm bạn hoại
diệt
mất thì trạng thái hỷ lạc của Sơ Thiền cũng
không còn. T rạn g thái
h ỷ lạc củ a
S ơ T h iền
kh ôn g còn
thì
làm
sao
b ảo rằn g có
cản h
giới
S ơ T hiền
Thiên
đ ƣợc . Không có cảnh
giới Sơ
Thiền Thiên thì làm sao bảo rằng có thế giới siêu hình đƣợc. Phải không hỡi các bạn? Các bạn cứ suy ngẫm lại
rồi
mới tin lời chúng tôi nói. Nếu các bạn nhập định và có
Tam Minh thì khỏi cần chúng tôi phải giải thích, vì các
bạn
cũng thấy rõ nhƣ chúng tôi.
Điều đặc biệt ở đoạn
kinh này là nhập vào cho đƣợc trạng
thái Sơ Thiền và an trú trong trạng thái đó, đừng lìa khỏi
trạng thái đó, dù bất cứ có những pháp ác nào tác động
vào thân tâm bạn, bạn cũng đừng rời bỏ trạng thái này,
nhƣ đoạn kinh đã dạy: “Vị ấy vững trú ở đây đoạn trừ
được
các lậu hoặc”. Các bạn nên lƣu ý
bốn chữ: “vững trú ở đây”. Nếu các bạn có đƣợc cơ thể
còn
khỏe mạnh không
bị
chết một cách đột
ngột và cứ luôn luôn an trú nơi trạng thái này thì các bạn sẽ đoạn trừ đƣợc tất cả các lậu hoặc
và chứng quả vô lậu A
La Hán. Còn nếu các bạn có cơ thể suy yếu hay
bệnh tật, chết thình lình,
lậu hoặc chƣa đoạn trừ thì các bạn nên vững trú nơi trạng thái Sơ Thiền này, vì trong trạng thái Sơ Thiền là các bạn đã đoạn trừ năm
hạ
phần kiết sử, nhƣ kinh đã dạy: “Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này (Sơ Thiền), do hoan hỷ pháp này (Sơ Thiền), vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử”.
Khi đã đoạn trừ đƣợc năm hạ phần kiết sử tức là nhập Sơ
Thiền, lú c
b ấy
giờ cơ
thể k h ôn g may
b ị b ện h
chết thì trạn g
thái S ơ
Th iền
n ày đ ƣợc tƣởn g thức t u
tập
tiếp đ ể đ oạn
d iệt lậu h oặc. Kh i lậu h oặc
đ ƣợc đ oạn
d iệt sạch thì trạn g
thái S ơ
T
h iền n ày liền
mấ t
và
thay
thế
vào
trạ n g thái Niết
Bàn. Khi ở trạng thái Niết Bàn thì không còn tƣơng ƣng với chúng sanh nữa, nên không còn tái sanh làm ngƣời, nhƣ trong kinh đã dạy: “được hóa sanh, nhập Niết Bàn tại
cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời
này”. Ở đoạn kinh này
có nhiều ngƣời đã hiểu lầm hai chữ “hoá sanh ” vì ch o rằn g
có h óa sanh
là
p h ải có
một thế giới siêu h ìn h . Họ hiểu rằng: Hóa sanh là biến hóa sanh ra cũng giống nhƣ ngƣời thị hiện thần thông một thân biến ra nhiều thân. Thật ra,
chữ hoá sanh ở đây phải hiểu nghĩa là tƣởng uẩn. Khi thân
tứ đại này mất là sắc uẩn diệt; sắc uẩn diệt thì bốn
uẩn
kia cũng đều diệt theo, chỉ còn
nghiệp tiếp tục luân
hồi
tái sanh. Nhờ tu tập nhập đƣợc Sơ Thiền nên năm hạ phần kiết sử đoạn diệt nên n gh iệp thế
gian
đ ã b ị mu ội
lƣợc, k h ôn g
còn tƣơn g
ƣn g
với n gh iệp
ch ú n g
san h , d o
đ ó
k h ôn g thể tái san h
lu ân h ồi
. Con ngƣời vốn do năm uẩn duyên hợp tạo thành nên không có một linh hồn thƣờng còn bất biến. Vì thế khi sắc uẩn diệt mà
nghiệp không
tƣơng ƣng với nghiệp chúng sanh thì không tái sanh đƣợc, tại vì hành giả đã đoạn dứt năm hạ phần kiết sử. Khi đoạn trừ năm hạ phần kiết sử thì từ trƣờng
thiện do sự đoạn
trừ
năm hạ phần kiết sử phóng xuất ra và bảo vệ sắc uẩn làm cho sắc uẩn không bị hƣ hoại, giống nhƣ một ngƣời đang ngủ nằm mộng.
Kh i một
n gƣời tu h àn h thân
tứ
đ ại
ch ết thì k h ôn g n ên đ em thiêu đ ốt, ch ỉ n ên đe m ch ôn cất
n ơi
k h ô
ráo đ ể
giúp ch o n gƣời ấy t iếp
tục
tu tập
b ằn g
tƣởn g
u ẩn . Tu tập bằng tƣởng uẩn giống nhƣ trong chiêm bao thấy tu tập vậy, nhƣng lúc bây giờ sắc uẩn phải không
bị hƣ hoại; nếu sắc uẩn hƣ hoại do một nhân duyên gì thì
ngƣời ấy
không còn tu tập đƣợc và nhƣ vậy duyên ngƣời ấy đã thọ hết
phƣớc báo đoạn diệt năm hạ phần kiết sử.
Mọi ngƣời đều dễ hiểu lầm chỗ hóa sanh trong bài kinh
này. T ron g k in h Nik aya có
n h iều
b ài k in h n hắc
đ ến ch ỗ
h óa sanh
n ày, n ếu k h ôn g p h ải
là
một n gƣời t u ch ứn g
thì
k h ôn g
thể h iểu đ ƣợc . Cho nên sự hiểu
biết
của các nhà
học giả đã biến Phật Giáo thành một tôn giáo có thế giới siêu
hình: Có Linh hồn, Thần thức hay Phật tánh giống nhƣ tất cả các tôn giáo khác. Hiểu nhƣ vậy thì Phật Giáo sẽ tự
mâu
thuẫn lại nó, lúc thì nói 33 cõi Trời là cõi tƣởng, lúc
thì nói hóa sanh vào cõi Trời Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, v.v...
Khi ngƣời ta không
hiểu hai chữ
“hóa sanh” thì nghĩ tƣởng rằng phải có cõi siêu hình mới
có
hóa sanh. Thật ra hai chữ hóa sanh còn nằm trong bốn
loại sanh của loài thực vật và động vật trên hành tinh này.
Bốn loại sanh này
gồm có:
-
Thấp
sanh nhƣ loài rong rêu, cỏ cây, loài động vật
sanh nơi ẩm thấp.
- Noãn sanh nhƣ loài thảo mộc (hạt giống), loài động vật nhƣ chim,
thú sanh trong trứng.
- Thai
sanh
nhƣ loài ngƣời, loài thú
sanh ra con.
- Hoá sanh không phải là những Thần,
Tiên biến hoá nhƣ trong truyện Tàu, nhƣ các phù thủy trong truyện cổ tích Tây
Phƣơng. Hoá sanh là một sự hợp duyên của qui luật nhân quả tạo thành vạn vật trong vũ trụ;
hóa sanh là một
sự hợp các gen tạo thành ngƣời, vật nhƣ các nhà
khoa học. Các nhà tu
theo Phật Giáo có đủ bảy
năng lực Giác Chi
dùng
thực hiện sự hóa
sanh
nghĩa là phối hợp các gen tạo
thành ngƣời, vật và vật dụng theo
ý muốn của mình, giống nhƣ chúng ta hợp các duyên tạo thành nhà cửa, đồ vật dụng nhƣ: Bàn, ghế, tủ,
giƣờng, chỏng,v.v... Cho nên đừng hiểu hóa sanh là khi chết linh hồn biến hoá vào cảnh giới siêu hình.
Chữ hóa sanh ở đây có nghĩa là tâm bám
chặt ở trạng thái Sơ Thiền hoặc luôn luôn giữ tâm
sống
trong trạng thái ấy thì các lậu hoặc lần lƣợt cũng sẽ đƣợc đoạn trừ, nhƣ kinh
dạy:
“Vị ấy vững trú ở đây đoạn trừ được
các lậu hoặc”. Và
nếu chƣa đoạn trừ đƣợc các lậu hoặc mà lỡ mất thân
(chết) thì tiếp tục tu tập bằng tƣởng thức nhƣ trên đã
nói. Tu tập bằng tƣởng thức đƣợc là nhờ nhập đƣợc Sơ
Thiền; nhờ Sơ Thiền mà diệt đƣợc năm hạ phần kiết sử; nhờ diệt
đƣợc năm
hạ
phần kiết sử nên phát sinh từ trƣờng bảo vệ
thân tứ đại không bị hƣ hoại, nhờ đó mà tƣởng thức thay thế ý thức tu tập cho đến khi lậu hoặc diệt
sạch, nhƣ kinh
dạy:
“Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn
trừ,
do tham luyến pháp này, do hoan hỷ
pháp
này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết Bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này”. Nhƣ
vậy chỉ cần
đƣợc nhập Sơ Thiền thì chúng ta
cũng vào đƣợc Niết Bàn, tức là cũng
đã đi
đến nơi
đến chốn.
Bài kinh này dạy tám
pháp độc nhất, chỉ cần tu một pháp là đã đi
đến cứu cánh giải thoát hoàn toàn, không cần phải
tu cả tám pháp. Nhƣng ở
đây chúng tôi xin các bạn lƣu ý,
các bạn nên nhớ
tùy theo khả năng của mình có đủ sức
kham nhẫn một pháp này hay không? Nếu không đủ sức
thì các bạn tu tập cũng chỉ hoài
công mà thôi.
LỜ I P H ẬT DẠ Y
BÀ LA MÔN
“Ai biết được đời trước Thấy Thiên giới,
đọa xứ Đạt được sanh diệt tận Thắng trí, tự viên thành
Bậc Mâu Ni đạo sĩ
Viên mãn mọi thành tựu
Ta gọi Bà La Môn”. Kinh Pháp Cú.
CHÖ GIẢ I:
Một lần nữa Đức Phật xác định cho chúng ta thấy một tu sĩ Phật Giáo đƣợc gọi nhƣ thế nào là một Bà La Môn chân chánh trong những
tiêu chuẩn nào?
Đọc bài kệ trên đây trong kinh Pháp Cú chúng ta mới
thấy rõ một vị tu
sĩ Phật Giáo
đƣợc gọi là Bà La Môn chân chánh thì phải hội đủ những
tiêu chuẩn:
1- Biết đƣợc đời trƣớc của mình là phải có Tam Minh.
Trong Tam Minh có Túc Mạng Minh. Có Túc Mạng Minh mới biết đƣợc nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ của mình và của ngƣời khác. Một Bà La Môn chân chánh tu tập phải có Túc Mạng Minh biết đƣợc nhiều đời của mình
thì mới đƣợc gọi là một Bà La Môn, bằng không biết thì
không đƣợc gọi là Bà La Môn. Cho nên câu kệ này dạy:
“Ai biết được đời trước ”.
Chúng ta
hiện
giờ nhìn lại tu sĩ Phật Giáo có vị nào tu tập biết đƣợc nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ của mình
chƣa? Nếu chƣa biết thì chƣa đƣợc gọi là Thánh Tăng,
Thánh Ni, chƣa đƣợc gọi là Bà La Môn chân chánh. Phải
không
các
bạn?
2- Một ngƣời đƣợc gọi là Bà La Môn chân chánh là phải
có
trí tuệ nhân quả thấy thiện và ác rất rõ ràng. Ngƣời
thấy thiện ác rõ ràng
là ngƣời có chánh tri kiến. Ngƣời có chánh tri kiến là ngƣời ly dục ly ác pháp. Ngƣời ly dục ly ác pháp là ngƣời tâm bất động trƣớc các pháp và các cảm
thọ. Ngƣời có tâm bất động là ngƣời xứng đáng đƣợc gọi là Bà
La Môn chân chánh.
Hiện giờ nhìn xem
những tu sĩ Phật Giáo thì chúng ta biết
ngay
họ chƣa ly dục ly ác
pháp vì họ còn ăn uống và ngủ
nghỉ phi thời, tâm
còn
ham vui, thích tài sản, của cải, tiền bạc, nhà cửa sang
đẹp, nhƣ chùa to Phật lớn, v.v... Chính họ không thấy những sự ham muốn đó là
dục, là ác pháp. Do nhƣ vậy họ chƣa xứng đáng làm Thánh Tăng, Thánh
Ni; chƣa xứng đáng làm Thánh Tăng, Thánh Ni thì làm
sao xứng đáng làm đệ tử của Phật đƣợc. Họ là những ngƣời không thấy nhân quả thiện ác thì làm sao đƣợc gọi là Bà La Môn chân chánh.
Cho nên câu kệ thứ hai Đức Phật đã xác định: “Thấy Thiên giới, đọa xứ”. Câu này chúng ta phải hiểu nghĩa cho
rõ ràng. Vậy Thiên
giới
và đọa xứ là gì?
Thiên giới là cõi Trời; đọa xứ là địa ngục. Ở đây không phải là cõi Trời mà là Thập thiện, ở
đây không phải là địa
ngục mà là Thập ác. Thấy thiên giới, đọa xứ là thấy Thập thiện,
thập ác. Thấy Thập thiện và Thập ác là thấy nhân quả. T h ấy đ ƣợc n h ân q u ả thì mới đ ƣợc Đức
Ph ật ch ấp
n h ận
là
B
à L
a Môn chân
ch án h . Có hiểu nghĩa
nhƣ vậy
mới hiểu lời Đức Phật dạy. Các bạn có hiểu đúng nghĩa nhƣ vậy không?
Nhƣng một vị Bà La Môn chân chánh đâu phải tu tập có bấy nhiêu pháp thôi, mà còn phải tu tập nhiều hơn nữa,
phải
làm chủ sanh tử nhƣ câu kệ dƣới đây: “Đạt
được sanh diệt tận”. Vậy, sanh diệt tận nghĩa là gì?
Sanh là đời sống, sự sống; diệt là chết, sự chết; tận là tận
cùng, cuối cùng, chấm
dứt. Toàn nghĩa câu này là phải đạt
cho được
sự tận cùng sống chết của kiếp
làm
người thì mới đƣợc Đức Phật chấp nhận là một
Bà La Môn chân chánh, còn
chƣa tu tập đƣợc nhƣ vậy
thì chƣa xứng đáng là Tăng
là Ni đệ tử của Phật.
Làm một đệ tử của Đức Phật đâu phải dễ. Phải không
hỡi
các bạn? Phải đầy đủ thắng trí. Vậy thắng trí là gì? Thắng
trí
là một trí tuệ
chiến thắng mọi ác pháp và các
cảm
thọ, một trí tuệ không bao giờ chịu khuất phục trƣớc mọi trở
ngại, gian nan hay mọi việc khó khăn nào,
luôn
luôn giành phần thắng về mình. Có thắng trí nhƣ vậy là có sự chiến thắng vẻ vang trong trận giặc sanh tử luân hồi. Ngƣời có thắng trí mới xứng đáng là đệ tử của Đức
Phật, mới xứng đáng là Bà La Môn chân chánh, nên câu kệ dạy: “Thắng trí,
tự viên thành”.
Ngƣời có thắng trí là ngƣời thành tựu đạo giải thoát dễ
dàng, đâu cần gì tu tập nữa. Có đúng nhƣ vậy không các bạn?
Hai câu kệ cuối cùng để tán thán một ngƣời tu sĩ Phật
Giáo thành tựu viên mãn đạo
giải thoát:
“Bậc Mâu Ni đạo sĩ
Viên mãn mọi thành tựu”.
Vậy, Mâu Ni và viên mãn nghĩa là gì? Mâu
Ni dịch âm tiếng Phạn là Mouni có nghĩa là năng nhơn, năng
từ, năng mãn, năng
tịch,v.v... Năng nhơn nghĩa là lòng thƣơng ngƣời; năng từ là lòng từ bi; năng mãn là tâm tròn đầy đức hạnh; năng tịch là tâm bất động trƣớc các pháp và các cảm thọ. Tóm
lại nghĩa của toàn câu kệ này là bậc đạo sĩ đầy đủ những năng lực siêu việt không có một ngƣời nào
hơn đƣợc “Bậc Mâu Ni đạo sĩ”.
Viên mãn: là tròn đầy, đầy đủ, không còn thiếu khuyết một chỗ nào cả. Nghĩa của câu này là tất cả những pháp
môn
tu hành của Phật Giáo đều đã tu hành xong: “Viên mãn mọi thành tựu ”.
Đọc
bài
kệ trên đây chúng ta thấy
đƣợc những kết quả vĩ đại
của
một
ngƣời tu theo Phật Giáo mà
đáng
đƣợc gọi là Bà La Môn chân chánh thì đâu phải dễ nhƣ toàn bài kệ :
“Ai biết được đời trước Thấy Thiên giới,
đọa xứ Đạt được sanh diệt tận Thắng trí, tự viên thành
Bậc Mâu Ni đạo sĩ
Viên mãn mọi thành tựu
Ta gọi Bà La Môn.”
Đƣợc gọi là Bà La Môn là phải tu tập cho đến nơi đến chốn, chứ không phải tu danh, tu lợi theo kiểu Đại Thừa
và Thiền Tông. Có
đúng
nhƣ vậy
không các bạn?
MỘT TU SĨ PHẬT GIÁO MÀ
SỐNG PHẠM GIỚI
PHÁ
GIỚI LÀM NHỮNG ĐIỀU
MÊ TÍN LÀ HỌ TU THEO NGOẠI ĐẠO
ĐA THẦN GIÁO BÀ LA MÔN CHỨ
KHÔNG PHẢI TU
SĨ ĐỆ TỬ CỦA ĐỨC PHẬT
Hỏi
: Kính bạch Thầy, Bà La Môn nào trong kinh Pháp Cú mà Đức Phật ca ngợi và Ba La Môn nào mà Đức Phật chê,
bài bác. Xin Thầy dạy cho
chúng
con
được rõ?
Đáp
: Bà La Môn đƣợc Đức Phật khen ngợi là một Bà La
Môn
sống đúng giới luật và chánh pháp của Phật, còn
sống không đúng
giới luật và chánh pháp của Phật thì Đức Phật không chấp nhận. Vậy chúng ta hãy đọc lại
những bài
kinh Pháp Cú thì sẽ biết rõ ràng hơn:
“Với người thân, miệng, ý Không làm các
ác hạnh Ba nghiệp được phòng hộ
Ta gọi Bà La Môn”
Thân, miệng, ý không làm các ác hạnh tức là sống đời
sống
giới luật nghiêm chỉnh, thƣờng tu tập các pháp ly dục ly ác pháp diệt ngã xả tâm tức là phòng hộ
ba nghiệp.
“Đoạn hết
các kiết sử
Không
còn
gì lo sợ
Không
đắm
trước buộc ràng
Ta gọi Bà La Môn”
Đoạn hết các kiết sử tức
là dùng pháp ngăn ác diệt
ác (Tứ Chánh cần) đó
là Bà La Môn tu đúng pháp đƣợc Đức Phật
chấp nhận. Không đắm trƣớc buộc ràng tức là hộ trì các căn: mắt, tai, mũi, miệng,
thân, ý không cho dính mắc sáu
trần:
Sắc, thinh, hƣơng, vị, xúc, pháp.
“Bỏ điều ưa, điều
ghét
Thanh lương,
không nhiễm ô
Hùng dũng thắng mọi
cõi
Ta gọi Bà La Môn”
Thân tâm đƣợc trong sạch không cấu uế nhƣ vầng trăng
sáng, tịnh lặng giữa đêm trƣờng sâu thẳm và tất cả những
hữu
ái đều đƣợc đoạn trừ. Nếu ngƣời nào giữ thân tâm
đƣợc nhƣ vậy là tu tập Tứ Niệm Xứ
đƣợc viên mãn. Ngƣời ấy đƣợc Đức Phật chấp nhận là
một
Bà La Môn.
“Như trăng sạch không uế
Sáng
trong và tịnh lặng
Hữu ái được đoạn tận
Ta gọi Bà La Môn”
Tóm lại ngƣời đƣợc Đức Phật gọi là Bà La Môn là phải sống đúng giới luật
thƣờng ngăn ác diệt
ác pháp “Chư ác
mạc
tác, chúng thiện phụng hành”. Một Bà La Môn tu tập
và sống nhƣ vậy
chính là tu sĩ Phật Giáo một bậc Sa Môn
Phạm Hạnh, còn ngƣợc lại là một Bà La Môn của đạo Bà
La Môn; hay nói cách khác một tu sĩ Phật Giáo
sống phạm giới, bẻ vụn giới, sống chạy theo danh lợi
làm những điều mê tín lừa đảo tín đồ... đó là Bà La Môn của Đạo Bà La Môn chớ không phải một tu sĩ Phật Giáo (một bậc
Sa Môn Phạm Hạnh).(Trích
ĐVXP - 6)
(Trưởng Lão tiếp Phật Tử Thành
Phố về Tu Viện xin bái kiến tu học)
LÀ
PHẬT TỬ THÌ PHẢI TU
ĐÖNG PHÁP ĐÖNG CÁCH ĐÖNG CĂN CƠ ĐẶC TƢỚNG
Hỏi
: Kính thưa Thầy, Thầy dạy chúng con, hằng ngày phải
tu cho đúng pháp, đúng cách, đúng căn cơ đặc tướng của
mình, song chúng con chưa thấu triệt lắm, kính mong Thầy
chỉ dạy cho chúng con được thâm hành Phật Pháp, để sớm
đặng giải thoát thân tâm.
Đáp Muốn tu tập đúng pháp, đúng cách, đúng căn cơ đặc tƣớng nhƣ thế nào?
Chúng ta nên chia làm ba
phần: Đúng
pháp.
Đúng cách.
Đúng căn cơ đặc tƣớng.
ĐÖNG P H ÁP
Sau khi nghiên cứu tƣờng tận biết rõ pháp môn nào là của
Phật, pháp môn nào không phải
của Phật.
Ví d ụ :
1/ Pháp môn của Phật là pháp xả tâm, chứ không phải là
pháp
môn ức chế tâm.
2/ Pháp môn của Phật là pháp môn vô ngã ác pháp, hữu ngã
thiện pháp.
3/ Pháp môn của Phật là pháp môn ngăn ác diệt ác pháp,
sanh
thiện tăng trƣởng thiện pháp.
4/
Pháp
môn của Phật là pháp môn toàn thiện.
5/ Pháp môn của Phật là một pháp môn đạo đức nhân bản
không
làm khổ mình khổ ngƣời và
khổ tất cả chúng
sanh.
6/ Pháp môn của Phật là một pháp môn huấn luyện tâm, rèn luyện tâm,
nhƣ lý
tác
ý.
7/ Pháp môn của Phật là một pháp môn dùng để dẫn tâm
vào đạo đức làm Ngƣời, làm Thánh...
Nếu các con biết rõ đúng pháp thì sẽ tu tập
đúng pháp. Ngoài bảy sự hiểu biết trên đây là đúng về Phật pháp cón là sự hiểu sai, hiểu sai Phật pháp tức là tu sai, tu sai thì
phí công vô ích mà còn tạo thêm gánh nặng cho Phật tử (tín đồ) cúng
dƣờng.
Cho nên trƣớc khi đi tu
thì phải nghiên cứu cho tƣờng tận lời dạy của Đức Phật rồi mới tu.
ĐÖNG C ÁCH
Tu tập đúng cách, tức
là
tu tập xả tâm, xả tâm đúng cách tức
là phải khéo léo thiện xảo, tu tập đúng cách là không
bao giờ ức chế tâm.
Tu tập đúng cách là phải biết pháp nào tu trƣớc pháp nào
tu
sau...
Ví d ụ :
Nhƣ pháp tam vô lậu học (Giới – Định – Tuệ) thì Giới luật phải tu trước,
sau khi tu giới luật xong, nghĩa là sống đúng giới luật không
có
vi phạm một lỗi nhỏ
nhặt nào thì mới tu
tập thiền định, còn vi phạm
giới luật dù là một giới rất nhỏ
thì cũng còn phải tu giới luật trở lại, chứ không đƣợc tu Thiền Định chừng nào
giới luật thanh tịnh thì mới bắt đầu
tập tu Thiền Định.
Sau
khi nhập xong Tứ Thiền thì mới bắt
đầu tu Trí Tuệ, thiền định chƣa xong mà vội tu trí tuệ
là tu
sai, tu nhƣ vậy trở thành Tưởng tuệ chứ không
phải
là Trí Tuệ.
Cũng nhƣ tu tập Tứ
Thánh Định thì phải tu tập Sơ Thiền trƣớc tiên, sau khi Sơ
Thiền đƣợc sung mãn thì mới tu tập Nhị
Thiền, sau khi Nhị Thiền đƣợc sung mãn thì mới tu tập
Tam Thiền, sau khi Tam Thiền đƣợc sung mãn thì
mới tu tập Tứ Thiền.
Nếu chúng ta tu tập không đúng cách thì cũng giống nhƣ con bò, chân trƣớc chƣa bƣớc mà chân sau đã bƣớc thì con bò không thể
nào
đi đƣợc. Cũng giống nhƣ vậy, ngƣời tu sĩ Đạo Phật giới luật chƣa nghiêm trì mà tu thiền định
thì chẳng bao giờ có thiền định đƣợc, thiền định của những ngƣời tu sĩ phạm giới là thiền định tƣởng. Đó là những ngƣời tu không đúng
cách.
TU ĐÖNG CĂN
CƠ ĐẶ C TƢ ỚNG
Nếu tu tập không đúng
căn cơ của mình thì cũng giống
nhƣ ngƣời nhạc sĩ lên dây đàn, căng quá thì đứt dây, chùng quá thì không
thành tiếng.
Do đó khi tu hành chúng ta phải biết căn cơ của mình.
Vậy muốn biết căn cơ của mình thì
phải
biết nhƣ thế nào?
Căn cơ của chúng ta thể hiện qua nhân tƣớng và hành tƣớng. Vì thế khi tu tập chúng ta nên tu tập theo nhân tƣớng và hành tƣớng tự nhiên của mình.
Ví d ụ :
Hành tƣớng ngoại tự nhiên của mình đi chậm, khi tu tập thì
phải theo hành tƣớng đi chậm mà tu, không đƣợc đi nhanh, cũng không đi quá chậm. Khi hành tƣớng tự nhiên của mình đi nhanh thì tu tập không đƣợc đi chậm hoặc quá chậm hoặc quá nhanh, phải đi với tƣớng tự nhiên của mình.
Hành tƣớng nội tự nhiên của mình khi hơi thở chậm thì
nên tu tập theo hơi thở chậm, hơi thở
nhanh thì nên tu tập
theo hơi thở nhanh,
không nên hơi thở chậm mà khi
tu tập thì lại thở nhanh cũng nhƣ hơi thở nhanh mà khi tu tập thì lại thở chậm, tu nhƣ vậy
không tự nhiên. Không tự
nhiên thì có sự ức chế mà có sự ức chế thì có chƣớng ngại
pháp, có chƣớng ngại pháp thì không có giải thoát ngay
liền, không có sự giải thoát ngay liền là tu sai pháp Phật, tu sai
pháp Phật tức là tu theo
pháp
môn của ngoại
đạo.
Nhân tƣớng là hình dáng của cơ thể, có ngƣời có nhân
tƣớng cao, nhƣng cũng có ngƣời có nhân tƣớng thấp, ngƣời đẹp, ngƣời xấu, ngƣời trắng,
ngƣời đen,
ngƣời mập
ngƣời ốm, ngƣời mặt dài, mặt ngắn, mặt vuông, mặt chữ điền, mặt bầu, mặt tròn. v.v... Tất cả mọi hình
tƣớng khác
nhau
đều gọi là nhân tƣớng.
Ngƣời tu theo Đạo Phật không nên vì nhân tƣớng mà tu
tập. Ƣớc mơ có một tƣớng đẹp
nhƣ Phật, 32 tƣớng tốt tám mƣơi vẻ
đẹp.
Ba mƣơi hai tƣớng tốt tám mƣơi vẻ đẹp có còn đâu, khi
Đức Phật nhập Niết bàn chỉ còn lại một nắm xƣơng vụn bất tịnh thiêu chƣa cháy
hết.
Mục đích của Đạo Phật là tâm bất động trước các
pháp
và các cảm thọ chứ không phải tướng tốt. Dƣới đôi mắt của
Phật thì nhân tƣớng của con ngƣời chỉ là tứ đại duyên hợp, bất tịnh uế trƣợc không có đáng cho chúng ta quan
tâm, nhƣng trong khi tu tập chúng ta biết sử dụng nó
nhƣ sử dụng một con ngựa để đi đƣờng xa vạn dậm. Vì thế chúng ta
phải
biết cách khi thì dụ dỗ khi thì ra lệch, chứ
không bắt ép nó tu tập
nhiều thì cũng không tốt mà tu tập ít thì cũng không có lợi, không đƣợc khổ hạnh ép xác, mà
cũng
không đƣợc lợi
dƣỡng phá
giới luật.
Ngày ngày tu tập phải tùy theo đặc tƣớng của mình mà
thực hiện cho đúng pháp thì có kết
quả
lợi ích rất lớn. (Trích
ở sách ĐVXP)
LỜ I P H ẬT DẠ Y
KHÔNG SỞ HỮU
“Ai quá,
hiện, vị lai Không một sở hữu gì Không sở hữu,
không nắm
Ta gọi Bà La Môn”. (Kinh Pháp Cú Phẩm Bà La
Môn).
CH Ö GIẢ I:
Bốn câu kệ trên đây để xác định một vị tu sĩ Phật Giáo
đúng
Thánh hạnh mà ngày xƣa Đức Phật thƣờng xem
mình nhƣ một Bà La Môn nghiêm trì giới luật không hề
sai phạm.
Câu kệ
thứ nhất dạy: “Ai quá, hiện, vị lai”. Có nghĩa là ngƣời tu sĩ nào trong ba thời gian quá khứ, vị lai và hiện
tại sống không có của cải
tài sản, sống không gia đình, không nhà cửa, đời sống luôn luôn thiểu dục
tri túc, chỉ có
ba y một
bát,
tâm hồn trắng bạch nhƣ vỏ ốc,
phóng
khoáng nhƣ hƣ không. Đó là Phạm hạnh của ngƣời tu sĩ Phật Giáo. Ngƣời sống đúng Phạm hạnh nhƣ vậy mới
đƣợc gọi là Bà La Môn.
Vì thế câu kệ thứ
hai
đã xác định điều này: “Không
một sở hữu gì”. Cho
nên ngƣời tu sĩ không có của cải tài sản,
không
có
gia đình, không có nhà cửa thì không có sự ràng
buộc,
không bị
dính mắc.
Do không bị tài sản, của cải
ràng buộc, dính mắc thì đó là giải thoát các
bạn
ạ! Giải thoát phần thô về vật chất. Nếu phần vật chất đã lìa
xa thì phần nội
tâm quét cũng
không
còn
khó khăn. Hai phần này
gom lại là tâm đã ly dục ly ác pháp. Tâm ly dục ly ác pháp là
tâm
không phóng dật. Tâm không phóng dật là tâm bất động trƣớc các pháp và các cảm thọ.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!