chi sơn”, có nghĩa là một đóm lửa giận, có thể thiêu đốt
sạch muôn mẫu rừng công đức. Thật
vậy, lửa sân hận đã
bừng cháy lên giữa lòng nhân loại và đã đốt thiêu không biết bao nhiêu công lao, sự nghiệp mà con ngƣời đã tốn biết bao
nhiêu mồ hôi nƣớc mắt mới
tạo ra
đƣợc.
3/ Si, có nghĩa là si mê, mờ ám, biết không rõ, không chính xác, không đúng: «Si như là một tấm màn dày
đặc, đen tối trùm lên trí tuệ của ta, làm cho ta không thể nhìn thấy được
sự thật, phán đoán được cái hay cái dở, cái tốt, cái xấu». Do
đó ta gây ra không biết bao nhiêu tội lỗi, làm hại mình hại ngƣời mà không hay, Vì si mà lòng tham
trở thành không đáy, bởi vì nếu ngƣời sáng suốt thấy cái tai hại của lòng
tham, thì ngƣời ta đã kềm hãm đƣợc một phần nào tánh
tham, Vì ngu si mà lửa giận bùng cháy; nếu ngƣời sáng suốt biết cái tai hại
của
lửa sân thì không để cho nó hoành
hành nhƣ thế. Ngƣời xƣa dạy: “Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác tri”. Có nghĩa là không sợ tâm tham
và sân, mà chỉ sợ tâm si mê. Nếu tâm tham sân nổi lên mà có trí tuệ
sáng suốt ngăn chặn lại, thì lòng tham sân
phải bị dập tắt, không còn làm gì đƣợc cả. Cho nên Đạo Phật lấy trí
tuệ làm đầu, nếu đã có trí tuệ sáng suốt thì lòng tham
sân không thể tồn tại đƣợc cũng nhƣ khi đã có ánh sáng mặt trời lên thì
bóng tối tất nhiên phải tan biến.
Đức Phật thƣờng gọi tham sân si là ba độc,
nó thường làm
đau khổ chúng sanh và phải chịu nhiều kiếp sanh tử luân
hồi, đọa vào ba cõi địa
ngục, ngạ
quỷ
và súc sanh.
4/ Mạn, có nghĩa là ngã mạn, kiêu căng, tự đắc: «Là
nâng cao mình lên
và hạ người khác xuống; tự
thấy
mình là quan trọng mà khinh rẻ mọi người; ỷ mình có tiền của tài trí, có học
thức, có cấp bằng cao như thạc sĩ, tiến sĩ hay
có
quyền thế mà sanh tâm dương dương tự đắc, mục hạ vô nhân,
khinh
người già cả, hỗn
láo với người đức
hạnh, chà đạp kẻ dưới,
lấn
lướt người
trên ».
Vì lòng ngã mạn tự
kiêu
tự đại cho mình là hơn hết nên chẳng chịu học hỏi thêm những điều hay lẻ phải. Do đó làm nhiều điều
lầm lẫn sai quấy, gây ra bao nhiêu tội ác,
phƣớc lành tổn giảm, tội lỗi càng tăng, cho nên phải chịu
sanh
tử luân hồi muôn đời
ngàn
kiếp.
Mạn
có
b ảy thứ :
Mạn: Nghĩ
mình hơn nghĩ
ngƣời.
Ngã mạn: Ỷ mình hay giỏi
mà lấn lƣớt ngƣời.
Quá mạn: Mình bằng ngƣời mà cho là hơn ngƣời,
ngƣời hơn mình mà
cho là bằng.
Mạn quá mạn: Ngƣời hơn mình nhiều mà cho mình hơn ngƣời.
Tăng thƣợng mạn: Chƣa chứng Thánh quả mà cho
mình đã chứng.
Ty liệt mạn: Mình thua ngƣời nhiều mà nói mình
thua ít.
Tà mạn: Ngƣời tu
về tà mạn đƣợc chút
ít thần thông, hoặc hiểu biết đôi chút
việc quá khứ, vị lai, rồi khinh
lƣớt ngƣời khác xem trời
đất
không còn ai.
5/ Nghi, có nghĩa là lòng nghi ngờ, ngờ vực, không tin:
«Người nghi
ngờ
không làm được việc gì hết. Đối với người thân trong gia đình, họ không tin cậy giao phó công việc;
đối với bạn bè, họ nghi ngờ tất cả mọi thiện chí. Ngay đối với họ,
họ cũng không tự tin nữa. Đã
không tự tin,
họ còn
gây hoang mang cho người chung quanh, làm cho người
ta ngã lòng thối chí». Đối với đạo lý chân chánh nhƣ Đạo
Phật có một nền đạo đức nhân bản giải thoát
tuyệt vời mà họ cũng không tin,
nhƣng họ lại tin theo tà giáo và những pháp môn mê tín, trừu tƣợng của kinh sách
phát triển.
T ron g sự n gh i n gờ có
b a p h ƣơn g d iện
:
a) Tự nghi, có nghĩa là nghi mình. Chẳng hạn nhƣ đọc kinh sách Đức
Phật dạy: “Tu hành sẽ được
giải thoát”, nhƣng lại
tự nghĩ rằng: “Chẳng
biết
mình tu có
được không?” Vì
lòng do dự nghi ngờ ấy, nên không chịu tu
hành.
b) Nghi pháp, có nghĩa là nghi phƣơng pháp mình đang tu. Chẳng hạn nhƣ nghe kinh Tứ Chánh Cần dạy: “Ngăn
ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp” thì sẽ đƣợc giải thoát ngay liền hay nhƣ trong kinh Pháp Cú
dạy:
“Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng hành. Tự tịnh kỳ ý. Thị chư Phật Giáo”. Do sự nghi ngờ lời dạy này
không biết kết quả
có đúng hay không ? Nên không
tu tập.
c) Nghi nhân: có nghĩa
là nghi ngƣời dạy mình, không tin
ông
Thầy dạy mình, nghi pháp mình đang tu không đúng là chánh pháp của Phật. Khi chính pháp của Phật dạy mà
mình
nghi
là không phải pháp
của
Phật thì đó
là mình
đã mất pháp chân chánh. Còn Thầy dạy mình tu học mà mình nghi Thầy mình là mình đã
bị
đứt đầu không còn cách nào cứu chữa đƣợc. Ở tại tu viện Chơn Nhƣ chúng
tôi có một số đệ tử ham mê thần thông, nhƣng chúng tôi
không thể hiện thần thông, nên họ mất niềm tin và không theo tu
tập với chúng tôi nữa. Mục đích tu viện của chúng tôi hƣớng dẫn tu tập xả
tâm
ly tham đoạn diệt các ác pháp để
đạt
đƣợc tâm giải thoát không còn phiền não, khổ đau, không còn
tham sân,
si,
mạn,
nghi
nữa, giúp
cho
con ngƣời có một đời sống đạo đức không làm khổ mình khổ
ngƣời, đấy
là hạnh phúc là giải thoát chứ không phải
ngồi thiền nhập định năm
bảy
ngày hoặc kiến tánh thành Phật, hoặc
tụng
kinh niệm chú cho có thần thông phép lạ hoặc niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc Tây Phƣơng v.v... Ở đây chúng tôi dạy đúng theo đƣờng lối tu tập của Đạo Phật là
hằng
ngày không có tụng
niệm
lần chuỗi ngồi
thiền ức chế tâm, mà chỉ có sống đúng giới luật và theo nhƣ
những lời dạy trong kinh Tăng Chi tập 3 trang 30: “Ở đây
này các hiền giả, Tỳ Kheo ưa công việc, thích thú công việc;
ưa nói chuyện, thích thú nói chuyện; ưa ngủ nghỉ, thích thú ngủ nghỉ, chuyên tâm ưa thích ngủ nghỉ; ưa
hội
chúng , thích thú hội chúng, chuyên tâm ưa thích hội chúng, ưa
liên lạc giao thiệp, thích thú liên lạc giao thiệp, chuyên tâm
ưa thích liên lạc
giao thiệp; ưa hý luận, thích thú hý luận, chuyên tâm thích hý luận. Như vậy, này
các hiền giả, Tỳ
Kheo sống nếp sống như vậy, khi lâm chung
không được
hiền
thiện, khi mệnh chung không được hiền thiện. Này các
Hiền giả, đây
gọi là Tỳ Kheo ái lạc
có
thân, không từ bỏ có
thân
để chân chánh chấm dứt khổ đau”. Đây là lời dạy chân chánh của Đức Phật, muốn tu theo
Đạo Phật thì phải tu đúng pháp, sống đúng pháp nhƣ lời dạy thì mới có sự
giải thoát. Còn tổ chức Gia đình Phật tử này,
Đạo tràng nọ
thì chỉ là một
hình thức
Phật
giáo Đại Thừa, chứ tu tập chẳng có kết quả gì chỉ
là một trò giải trí lành
mạnh nhƣ bao nhiêu
trò
giải trí lành mạnh khác của xã hội, đó
là những ngƣời đi tìm ái lạc của thân vì họ là những ngƣời
dƣ thừa thời gian không biết làm gì cho hết tuổi đời. Nếu không từ bỏ những trò
giải trí này thì không bao giờ chân
chánh chấm dứt sự khổ đau. Nếu quý vị không tin lời
chúng tôi nói thì nên đọc lại đoạn kinh trên rồi suy ngẫm và xét lại từ
xƣa đến nay biết bao nhiêu Đạo
tràng và Gia
đình
Phật tử họ
đã
đƣợc giải
thoát những gì với
con đƣờng giải thoát này. Đối với Đạo Phật thời gian sinh hoạt
của quý vị rất là uổng
phí
khi: “Được
thân người là khó ”, nên Đức Phật đã nhắc nhở:
“Tấc bóng thời gian một tấc
vàng
Tấc vàng tìm được không
gì khó, Tấc bóng thời gian khó hỏi han ”.
Thế mà quý vị sinh hoạt
nhƣ vậy gọi là tu, tu nhƣ vậy
phỏng có giải thoát đƣợc những gì? Quý vị cứ nhìn lại bản
thân
của quý vị thì quý
vị sẽ thấy, nếu chúng tôi nói thẳng
thừng thì quý vị không ƣa chúng tôi chứ quý
vị chỉ là một
con
cờ cho người
khác
sử dụng nước cờ tôn
giáo chứ
quý vị tu nhƣ vậy dù tu một triệu năm nữa cũng chƣa thấy và
hiểu biết giải thoát nhƣ thế
nào?
Chúng tôi dạy đúng nhƣ Phật dạy cấm
không cho tu sĩ tập
hợp nói chuyện thì họ không thích, họ muốn tu tập theo
kiểu Đại Thừa, sinh hoạt nhƣ các Đạo tràng và các Gia
đình Phật tử,
họ khoái hội hợp thích
vui
chơi, nói chuyện.
Chỗ tu hành của chúng
tôi là chỗ tu tìm sự giải thoát, làm
chủ bốn sự đau khổ của
kiếp người sanh, già, bịnh, chết và
chủ động
đi vào con đường hoá
sanh chứ không
chấp
nhận chịu bó tay sanh nơi dâm dục bất tịnh ô trược
bẩn thỉu hôi
thúi
và khổ đau. Vì thế,
ai
muốn tu đƣợc thì hãy sống đúng
nhƣ lời Đức Phật đã dạy, nhƣ chúng tôi đã dạy, nếu không sống được thì đừng nên theo Đạo Phật tu hành, chẳng có ích lợi gì mà còn làm cho kẻ khác phỉ báng Phật Giáo.
Đạo Phật không cầu mong có nhiều người tu mà phá giới,
phạm giới, bẻ vụn giới, vô đạo đức làm người, làm Thánh
thà chỉ cần ít
người
hay
một người tu đúng
pháp
có giới đức hẳn hoi, có một đời sống phạm hạnh của bậc
Thánh Tăng thì Phật Giáo mới còn rực rỡ trên thế gian này, dù chỉ có một ngƣời còn hơn đi đâu cũng
gặp Tăng sĩ mà đời chẳng đời, đạo chẳng đạo, họ sống với những nghề nghiệp lừa đảo thiên hạ thật là đau lòng cho Phật Giáo ngày nay. Giữa ban ngày thắp đuốc
lên đi tìm một bậc
giới
đức khắp trên thế gian này không
bao giờ có, toàn
là những tu sĩ phá
giới, phạm giới, bẻ vụn giới v.v...
Nếu quý vị thấy sống không kham nổi trong giới luật của Phật, thì quý vị đi tu làm gì, để phạm giới,
phá giới nhƣ vậy, có ích lợi gì cho quý vị và cho ngƣời khác,
nếu quý vị sống không kham, thì quý vị ra đời mà sống, sống trong
chùa mà bày ra những trò mê tín, dị đoan,
cúng
bái,
tế lễ, xin xăm bói quẻ v.v... đó là đi ngƣợc lại Phật giáo, cũng nhƣ quý vị thuyết giảng hý luận trừu tƣợng mơ hồ bằng lối chơi chữ để lừa đảo những ngƣời nhẹ
dạ
dễ tin để cầu
đƣợc sự cúng dƣờng.
Tóm
lại quý vị muốn tu theo Đạo Phật thì quý vị phải nghiên cứu Phật Giáo cho kỹ, nếu thấy chúng tôi dạy đúng
thì
xin vào tu,
còn
nếu thấy chúng
tôi dạy không đúng
thì quý vị đừng xin vào tu thử, vì sự tu thử sẽ làm quý vị phí thì giờ vô ích mà còn sanh tâm nghi ngờ chánh pháp của
Phật,
tạo thêm tội lỗi nhƣ quý thầy: Thầy Chơn Đức,
Thầy Từ Minh, Thầy
Minh
Tông, Thầy Thiện
Thiền v.v... họ đã trở thành những ngƣời đệ tử bất nghĩa muôn đời
ngàn
đời để lại tiếng đời
không
tốt cho mai sau.
Tánh nghi ngờ làm cản trở sự tiến triển tu hành cũng nhƣ những sự việc
khác, làm ngăn ngại mọi công tác hữu ích cho mình cho xã hội và cũng vì tâm nghi ngờ khiến cho cuộc đời
không vƣợt khỏi cảnh
tối tăm khổ
sở.
6/ Thân kiến: Có nghĩa là vì không rõ nên lầm chấp thân ngũ uẩn tứ đại giả hợp này cho là Ta, là của Ta, là bản ngã của Ta: «Vì cái chấp sai lầm ấy, nên thấy
có
một cái TA (Ngã) riêng biệt, chắt thật không biến đổi, thấy cái Ta ấy là riêng
của Ta, không dính dấp đến người khác, và xem nó là một thứ rất quý
báu».Vì tƣởng lầm
nhƣ vậy, nên kiếm món ngon vật lạ cho Ta ăn, may sắm quần áo tốt đẹp cho Ta mặc, lo xây dựng nhà cao cửa lớn cho Ta ở, thâu góp thật nhiều của cải, đất ruộng để dành cho Ta dùng, kiếm công danh chức tƣớc, địa vị cho Ta hãnh diện với mọi ngƣời. Do
sự quý chuộng cung phụng cho cái Ta ấy, mà tạo ra lắm điều tội lỗi, chà đạp lên bao nhiêu cái Ta
khác, làm cho
họ
đau khổ vì Ta. Và
thế giới trở thành một bãi chiến trƣờng cũng
vì cái Ta.
Chúng ta hằng ngày chịu nhiều đau
khổ
cũng chính vì
Thân kiến tức là
cái
kiến chấp về thân.Nó
là một trong bảy
kiết sử trói buộc và sai
sử chúng ta nhƣ một tên nô lệ rất khó mà bứt bỏ, nếu không có pháp như lý tác ý của Đức Phật
dạy thì khó có pháp nào diệt thân kiết sử này được, nếu hằng ngày chúng ta không siêng tu pháp như lý tác ý thì chẳng bao giờ chúng ta bứt sợi dây thân kiết sử này được, cho nên Đức Phật thƣờng nhắc
đi
nhắc lại câu pháp
hƣớng này: “Thân này kh ôn g ph ải
là
Ta,
kh ôn g
ph ải củ a
Ta, kh ôn g ph ải
bản
n gã củ a Ta ”. Câu này quý vị nên nhớ mà hƣớng tâm hằng ngày đừng nên biếng trễ
và xem thƣờng, đó
là lời tâm huyết mà Đức Phật đã
dạy cho chúng ta vì thƣơng tƣởng chúng ta vô minh mà lầm chấp
thân kiến chịu khổ muôn đời.
7/ Biên kiến: Có nghĩa là chấp một bên, nghiêng về một
phía, đó là những thành kiến rất cực đoan. Biên kiến có
nhiều lối chấp sai lầm
lớn nhất là:
T h ƣờn g
k iến.
Thƣờng kiến là một loại luận thuyết mơ hồ trừu tƣợng,
cho rằng ngƣời chết còn linh hồn cho rằng có
thế giới siêu hình, có bản thể vũ trụ, có Tiểu ngã, Đại ngã, có Thần
thức, có Phật Tánh,
có
Thiên Đàng, có Địa
ngục, có
Ngọc Hoàng Thƣợng Đế, có
Chúa Trời, có Thần, Quỷ,
Ma v.v...
Những ngƣời chấp thƣờng kiến là những ngƣời thƣờng sống trong mê tín, lạc hậu, sống trong mộng tƣởng, xây
dựng cảnh giới siêu
hình thƣờng cầu cúng tế, lễ bái và ƣớc vọng làm những điều thiện để khi chết đƣợc sanh lên Cực Lạc Thiên Đàng
của cõi Trời cõi Niết Bàn hay cảnh giới chƣ Phật. Thiền Tông, Mật Tông đều thuộc về thƣờng
kiến.
Đoạn k iến:
Đoạn kiến là một loại luận thuyết chết cứng, khô cằn, chết là hết không còn gì cả, loại
luận thuyết này, khiến cho con
ngƣời mất hết niềm hy vọng về tƣơng lai. Cho nên ngƣời
ta đặt ra câu hỏi: “Tương lai không có thì hiện
giờ
làm để làm gì? Ngày
mai chết là hết", vì vậy con ngƣời chấp đoạn
kiến
thì làm bao nhiêu
ăn bấy
nhiêu chẳng
còn
biết nghĩ đến ai cả, sống chỉ quay cuồng trong dục lạc,
ăn uống vui
đùa
trụy lạc, xì ke, ma túy, rƣợu chè bê bết, sống theo
Thuyết Hiện Sinh không có ngày mai:
«Đối với hạng người chấp đoạn kiến, thì hễ tắt thở là không còn gì tồn tại nữa;
tội cũng không
mà
phước lại cũng chẳng có. Họ không tin nhân quả luân hồi, nên mặc tình làm các điều tội lỗi». Họ tự
bảo: “Tu nhân tích đức già đời cũng chết; hung hăng
bạo ngược tắt thở
cũng không còn”.
Vì chấp đoạn kiến, có ngƣời đứng trƣớc cảnh thất tình, thất vọng, hoặc gặp cảnh buồn lòng nghịch ý,
tƣởng rằng
chết là hết đau khổ, là giải thoát tất cả khổ, nên họ không
ngần
ngại mƣợn chén thuốc độc, hay dòng sông sâu hoặc
sợi
dây oan trái để kết
liễu đời mình, Họ đâu có ngờ rằng
chết rồi vẫn chƣa hết! Họ đâu biết rằng luật nhân quả nghiệp
báo là một vật thƣờng hằng bất
biến
của
môi trƣờng sống, ngoài những hành động thiện ác của loài
động vật ra khi chết, không có gì còn lại cả. Chính vì những hành động của loài đông vật
là một tác nhân tạo ra
nghiệp, cho nên Đức Phật dạy: “Nghiệp là cha đẻ ra con
n gườ i,
con n gườ i là thừa
tự
n gh iệp
”. Nhƣ thế làm sao gọi
là đoạn kiến. Khi chết trong ác nghiệp khổ đau thì nghiệp khổ đau ấy vẫn phải tiếp tục tái sanh trong nghiệp nhân quả
đau khổ kế tiếp.
Người chấp đoạn kiến là những người không thông suốt môi trường
sống hợp
duyên của các
pháp.
Trong môi
trường sống này không
có
một vật gì sanh ra
mà đơn điệu
toàn là các pháp hợp
lại
tạo thành.
Ví dụ 1: không thể có một ngƣời đàn ông cũng nhƣ một
ngƣời đàn bà đơn điệu tự một mình sanh ra con đƣợc, mà phải có hai ngƣời nam nữ lấy nhau tạo duyên ngũ uẩn hòa hợp mới
thành ra con ngƣời.
Ví dụ 2: Không thể lấy một
cây
cột, lấy một
tấm
tôn, một miếng vách mà bảo rằng vật đó là cái nhà đƣợc, một cái
nhà
phải có các vật hợp lại nhƣ: cột, kèo, vách, tôn, cửa
cái, cửa sổ rồi tạo dựng ra
cái
nhà. Đó là các pháp trong
môi trƣờng sống
này đều do
duyên
hợp
mà thành, nhƣng bảo rằng khi hoại diệt thì không còn gì hết là sai (đoạn
kiến) mà bảo rằng còn thì cũng sai (thƣờng kiến), đó là
hai cái
sai của những lý luận này.
Vừa th ƣờn g
vừa đ oạn kiến
Có một
luận
thuyết cho rằng các
pháp
trong thế gian này
vừa có vừa không
nhƣ Ngài Long Thọ: “Sắc tức thị không,
không tức thị sắc”,
đó là lối lý luận trƣờn uốn nhƣ con
lƣơn, để rồi Ngài
đẻ ra trí tuệ Bát Nhã Chơn Không thành ra thƣờng kiến, cuối cùng Ngài cũng nhƣ các nhà thƣờng kiến khác, nhƣng giỏi khéo lý luận để che mắt thiên hạ, chứ kỳ thực Chơn Không của Ngài đâu có khác gì thần
thức, linh hồn, đại ngã, Phật tánh, bản thể vạn hữu, chỉ có
khác
là danh từ mà
thôi.
Do
những
lý luận này đã biến những tu sĩ
Phật Giáo thành
những nạn nhân bỏ biết bao nhiêu công lao sức lực tu hành rốt cùng cũng chẳng ra gì, khổ đau cũng hoàn khổ đau, chẳng
có ai làm chủ sanh, già,
bịnh, chết cả.
8/ Kiến thủ:
Có nghĩa là chấp chặt sự hiểu biết sai lầm
của
mình có
ba trƣờng hợp:
a)
Kiến thủ vì ảnh hƣởng tƣ tƣởng của ngƣời khác: Khi học hiểu một điều gì do lý luận của các nhà tƣ tƣởng nhƣ tƣởng Chơn Không,
Phật Tánh v.v…Cũng nhƣ thấy những
hiện tƣợng nhập đồng nhập cốt do cô cậu hoặc linh hồn ngƣời chết oan nhập vào nói đâu trúng đó rồi cho đó có
linh
hồn ngƣời chết,
có
thế giới siêu hình rồi chấp chặt
ai nói gì cũng
không
tin. Không ngờ thế giới siêu hình là do tưởng uẩn tạo thành chứ không có thế giới siêu hình thật
sự. Do sự chấp chặt này họ phải chịu thiệt
thòi nhiều mặt
về sự tu hành cũng nhƣ về
đời sống.
b) Kiến thủ vì không ý thức đƣợc sự sai lầm của mình: Hành vi của mình sai
quấy, ý kiến
của mình sai lầm, nhƣng vì không đủ sáng suốt để
nhận
thấy, nên cứ bảo thủ
hành vi, ý kiến của mình, tự cho mình là hay là giỏi, ai nói gì cũng
chẳng nghe.
c) Kiến thủ vì tự ái hay vì ngoan cố cứng
đầu: Biết mình làm nhƣ thế là sai, nói nhƣ vậy là không đúng, lỡ lời, nhưng vì tự ái cứ bảo thủ cái sai cái không đúng của
mình, không chịu thay đổi,
không chịu sám
hối,
xin lỗi, không
chịu từ
bỏ, xa lìa.
Ví d ụ
: nhƣ trƣớc kia ông bà đã lỡ theo tà giáo, ngoại đạo, nay con cháu vẫn biết đó là tà giáo nhưng cứ theo
mãi không dám bỏ, cho đó là tôn giáo truyền thống của Tổ Tiên, ông bà để lại không đƣợc bỏ, mặc dù tôn giáo đó dạy những điều phi đạo đức, phi nhân quả, thƣờng dạy những
điều
cầu cúng, mê tín, lạc hậu v.v... Có ngƣời còn nói một
cách liều lĩnh, ngu si: “Xưa sao nay vậy” hay “Xưa bày nay làm”. Cũng nhƣ cha mẹ trƣớc là nghề nghiệp ác chài lƣới, săn bắn hoặc làm nghề đồ tể, bán thịt sống, thịt chết, mãi
dâm; nghề sát phạt bài bạc rƣợu chè, thuốc phiện, xì ke
ma
túy v.v... đó là những nghề ác độc tội lỗi, đến con cháu
vẫn cứ
bảo thủ nghề ấy, không chịu thay đổi nghề khác.
Nhìn rộng ra xã hội bên ngoài, có một số đông ngƣời, mặc
dù
thời đại của chúng ta hiện giờ,
con
ngƣời đã có nhiều tiến bộ về khoa học kỹ thuật hiện đại hóa đời sống, thế mà
ngƣời ta cứ vẫn giữ lại những lề
lối cổ tục hủ bại, hễ trong nhà có ngƣời chết là giết heo bò để cúng kiến, rƣớc thầy
chùa tụng
kinh để cầu siêu linh
hồn
trong khi ông thầy
tụng
chƣa độ đƣợc ổng siêu, mà ông đi cầu siêu cho kẻ khác thì việc làm
đó
là một điều ngu si, khi đƣa đám tang thì rải giấy tiền vàng mã; mỗi
khi tuần tự hay giỗ
kỵ thì lại đốt giấy tiền vàng mã nữa và quần áo
kho đụn phƣớng xá. Hằng năm cứ vào ngày rằm tháng ba âm
lịch thì Ban Tế Tự tập họp dân chúng làm lễ kỳ an cúng tế tà Thần, ác
quỷ v.v... Làng xã chấp chặt những hủ tục mê tín lạc hậu nhƣ thế mà còn cho đó là “Văn hóa truyền thống của đân tộc”
không đƣợc bỏ. Những việc làm
đó đều thuộc về kiến
thủ.
9/ Giới cấm
thủ,
Có nghĩa là làm theo, sống theo giới cấm
của ngoại đạo, tà giáo, những giới cấm của tà giáo ngoại
đạo
này phần nhiều vô
lý phi đạo đức, mê muội, dã
man v.v... Những giới cấm này khiến cho con ngƣời bất hiếu và
tự làm khổ mình: Các giáo phái ngoại đạo ở Ấn Độ lấy đá
dằn
bụng, đứng một chân giữa trời nắng, nằm trên chỗ
bẩn
thỉu, leo lên cao
nhảy xuống, gieo mình vào lửa, nhảy
xuống sông trầm mình chịu lạnh lẽo để đƣợc phƣớc, chặt
hoặc
đốt một lóng tay, có ngƣời chặt nguyên một cánh tay
để
cầu pháp.
Những thứ cuồng tín nhƣ thế, không làm cho cuộc đời sáng
sủa, mà còn làm cho
đen tối
và khổ đau thêm.
Giới cấm
thủ này chúng ta thấy trong kinh Pháp Hoa
Phẩm Tựa dạy cúng dƣờng thân mạng hoặc một phần thân
mạng để cầu pháp giải thoát, khiến cho
những ngƣời
cuồng tín chặt hoặc đốt ngón tay, hủy hoại cơ thể của
mình không tật nguyền mà thành tật nguyền, không
khổ mà làm thêm
khổ,
đó là giới cấm thủ hay còn gọi là những giáo điều
của ngoại đạo.
10/ Tà kiến, có nghĩa
là chấp chặt theo lối không chân chánh, trái với sự thật,
trái
với luật nhân quả,
phi
đạo đức nhƣ trong kinh Pháp Hoa Phẩm Phổ Môn, Bồ Tát Quan
Thế Âm cứu khổ cứu nạn chúng
sanh, đó là tà kiến phi đạo
đức, phi nhân quả, mê tín: Tà kiến nghĩa là mê tín, dị
đoan, nhƣ thờ
đầu trâu, đầu cọp, bình vôi, ông táo, xin xâm, bói quẻ, buộc tôm đeo niệt, coi sao, cúng hạn v.v... Nói rộng ra những kiến chấp trên đều thuộc về tà kiến cả. Nghĩa là trên đời này cái gì ý thức không hiểu được mà
dùng
tưởng thức để hiểu, hiểu như vậy là hiểu một cách mơ
hồ,
trừu tượng, không rõ, không
thực
tế, không cụ thể đều
được
gọi là tà kiến.
Khi tu Định Vô Lậu câu hữu với Tập Đế thì chúng ta sống
trong thực tế, cái gì ý thức hiểu biết cụ thể thực tế
hoàn toàn. Còn ngoài ra không tin một cái gì cả, phần nhiều ngƣời ta thƣờng hay sống trong tƣởng thức nên ngƣời ta
phải chịu khổ.
Ví dụ: Ngƣời ta chửi mình đồ chó, đồ trâu mình tƣởng ra
mình là chó trâu, nên mình sanh tức giận chửi mắng lại
họ,
cũng nhƣ ngƣời ta chửi mình: “Tao đào mồ mả cha
mày
lên”, mình tƣởng rằng họ đào mồ mả cha mình chứ
sự thật họ đâu có đào, thế mà mình sống trong tƣởng rồi
sanh
ra tức giận chửi mắng đánh với nhau, khiến cho làm khổ cho nhau, thật
là tà kiến điên đảo và sống không thực tế, tạo cảnh mình khổ ngƣời khác khổ chẳng
có
ích lợi gì cả.
Ví dụ: Ngƣời ta chửi mình là đồ ăn cắp, ăn trộm mình tự ái sợ ngƣời khác không hiểu mình, sanh ra nghi ngờ mình ăn cắp, ăn trộm thì xấu hổ, cái tự ái sợ
hãi
ngƣời ta nghi ngờ mình nên mình tức giận và buồn khổ trong lòng mãi
mãi, đó là mình sống
trong tƣởng, chứ
sự thật mình có ăn trộm ăn cắp đâu mà sợ. Con ngƣời ở đời thƣờng sống
trong tƣởng, tức là sống trong tà kiến nên luôn luôn chịu khổ đau tức giận sanh ra thù hận không nguôi, tạo ra nhiều điều ác đức
tội lỗi, rồi lại còn tiếp tục bằng cách trả thù,
trả oán cho đã
cơn
giận.
Cho nên khi chúng ta
biết áp dụng Định Vô Lậu kết
hợp
với
Tập Đế thì chúng ta không còn sống trong tƣởng, nói
cách khác là chúng ta không còn sống
trong tà kiến. (Trích
Sách ĐVXP Tập 6)
LỜ I P H ẬT DẠ Y
HẠNH VÀ MINH
Với Minh và với Hạnh, thành tựu hai pháp này. Này các Tỳ
Kheo,
Tỳ Kheo đạt đến cứu cánh của cứu cánh:
1/ Cứu cánh an ổn khỏi khổ
ách
2/ Cứu cánh Phạm hạnh
3/ Cứu cánh mục đích
Bậc tối thượng
giữa chư Thiên và loài Người. (Tăng Chi Bộ
Kinh, tập 4,
trang
663).
CH Ö GIẢ I:
Xét duyệt qua
đoạn
kinh này có ba
cứu
cánh:
1/ Cứu cánh an ổn khỏi khổ ách
là do chánh tri kiến.
Chánh tri kiến là sự hiểu biết mọi vật nhƣ thật, do hiểu
biết mọi vật nhƣ thật nên mọi khổ ách đều đƣợc hóa giải.
Vì vậy gọi là cứu cánh an ổn khỏi khổ ách tức
là MINH GIẢI THOÁT.
2/ Cứu cánh Phạm hạnh là do giới luật. Một tu sĩ sống đúng giới luật, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào là có giải thoát ngay liền. Giới ly dục ly ác pháp mà tâm
ly dục ly ác pháp là tâm bất động, Tâm bất động là tâm
không phóng dật. Do giới luật mà tâm
đƣợc giải thoát nên
gọi là HẠNH GIẢI THOÁT tức là Cứu
Cánh Phạm Hạnh.
3/ Cứu cánh mục đích là tri kiến và giới luật. “Giới luật ở đâu là
tri kiến ở đó, tri kiến ở đâu là giới luật ở đó. Tri
kiến làm thanh tịnh giới luật, giới luật làm thanh tịnh tri kiến”.
Đó là cứu cánh giữa MINH và HẠNH nên gọi là cứu cánh mục đích.
Trên đây là nói về
giai đoạn mới bắt đầu vào tu tập giới
luật
bằng tri kiến, còn ở giai đoạn hai và ba thì đoạn kinh này Đức Phật dạy “Minh và Hạnh”. Minh và Hạnh đạt đƣợc là
cứu cánh của cứu cánh.
Vậy Minh và Hạnh là gì?
Minh là trí tuệ
Tam Minh; Hạnh là đức
hạnh
không làm
khổ
mình khổ ngƣời và khổ tất cả chúng sanh, hay nói
cách
khác Hạnh
là
Giới luật. (Xem
thêm nghĩa Minh
Hạnh
Túc).
Cho nên ngƣời tu theo Phật Giáo đầu tiên cần phải đạt đƣợc Đức Hạnh của Giới luật. Đức hạnh của giới luật đó
là hạnh ly
dục
ly ác pháp. Hạnh ly
dục
ly ác pháp là hạnh
bất động tâm. Hạnh bất động tâm là tâm định tĩnh, nhu
nhuyến, dễ sử dụng. Từ tâm
này
chúng ta mới có đủ năng
lực nhập Bốn Thánh Định và
thực hiện Tam Minh.
Nhƣ trên đã nói Hạnh tức
là Giới luật
rất
quan trọng cho
con
đƣờng tu tập theo Phật Giáo. Phải
không các bạn?
Không có Giới luật thì thiền định và Tam Minh không bao giờ có. Vì vậy các bạn nên hiểu Hạnh là nền tảng đạo đức
của
Phật Giáo, còn Minh là kết quả
cuối cùng của con
đƣờng tu tập giải thoát của Phật Giáo, nên Đức Phật
bảo: “Này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo đạt đến cứu cánh của cứu
cánh”. Xin các bạn
tu theo Phật Giáo nên lƣu ý điều này: Hạnh mà không sống đúng thì không làm sao có Minh.
Ngƣời có Giới hạnh không thể nào tu tập lạc vào tà pháp
ngoại đạo. Thấy ai sống
không đúng giới hạnh là biết ngay là ngƣời ấy
tu tập rơi vào tà pháp ngoại đạo.
Cho nên Minh và Hạnh
là thƣớc đo sự tu tập của Tăng Ni
và Cƣ sĩ, là tiêu chuẩn duyệt xét sự chứng
quả của họ. Do
đó
những ngƣời tu giả, tu thật chúng ta đều biết rất rõ. Biết
rõ để làm gì các bạn? Nếu ngƣời thật tu, thật chứng
thì chúng ta xin đƣợc thân cận; nếu ngƣời tu giả thì từ giã xa lánh.
BIẾT RÕ SỰ TÁI SANH TRONG TƢƠNG LAI
LỜ I P H ẬT DẠ Y
“Bị vô minh ngăn che, bị tham ái trói buộc, các loài hữu tình thích thú chỗ này, chỗ kia như vậy, tái sanh trong tương
lai sẽ xảy ra .”
“Vô minh được xả ly, minh khởi tham ái được đoạn diệt (ly dục ly ác pháp). Như vậy tái sanh trong tương
lai
sẽ không xảy ra .” (Tăng Nhất A Hàm tập 3).
CH Ö GIẢ I:
Muốn hiểu rõ
đoạn
kinh này thì chúng ta phải hiểu rõ
những danh từ cần thiết nhƣ: Vô minh, Tham ái, Hữu
tình, Tái sanh.
1- Vô minh nghĩa là gì? Các bạn đừng hiểu vô minh nghĩa
là không biết, không hiểu, không thông minh, ngu dốt, v.v...
Vô minh ở đây có nghĩa là hiểu biết rất rõ ràng,
thông minh, có trí tuệ, không ngu dốt, v.v... Nhƣng nó
thƣờng đối mặt với minh, nên nó có một nghĩa khác hơn
minh. Phần đông trong xã hội loài ngƣời, đều là những
ngƣời vô minh. Các bạn có nhận xét điều này chƣa? Khi nói mọi ngƣời đều vô minh thì các bạn rất ngạc nhiên vì không thể ngờ đƣợc. Phải vậy không các bạn?
Các bạn có
biết
không? Những ngƣời vô minh không riêng
giới bình dân ít học, tay
lấm chân bùn, cùng đinh khốn khổ, sống không đủ cơm ăn áo mặc, mà cho đến những giới trí thức có đầy đủ
học
thức, nhƣ những nhà Bác học, những ông Giáo sƣ, các Bác sĩ, Thạc sĩ, Tiến sĩ và những
nhà
khoa học danh tiếng, v.v...
Tuy họ có trình độ học thức
về đời cao nhƣ vậy, nhƣng đối với Phật Giáo họ vẫn
là những ngƣời vô minh. Các bạn có tin lời nói của chúng
tôi không? Xin các bạn bình tỉnh đọc tiếp những dòng dƣới đây thì các
bạn
sẽ rõ vô minh của giới có học thức
là một sự thật, chứ không phải chúng tôi có ý chỉ trích hay nói
không đúng,
mà từ lâu chƣa có ai nghĩ đến.
Vô minh Đức Phật xác định nghĩa ở đây là sự hiểu biết
thông minh theo tâm
ái dục, tƣởng ái dục, nên sự hiểu biết ấy bị hạn cuộc trong
không gian và thời gian. Đức Phật
dạy:
“Bị vô minh ngăn che” tức là bị sự hiểu biết ái dục, tƣởng dục ngăn che làm cho mọi ngƣời không thấy,
không hiểu rõ mọi sự việc nhƣ thật. Do không thấy, không hiểu biết mọi sự vật nhƣ thật nên sinh ra tham
ái dính mắc,
chấp chặt không dám
buông bỏ. Vô minh là sự hiểu biết
trong góc độ ái dục, tƣởng dục. Khi vƣợt ra ngoài ái dục, tƣởng dục thì sự thấy và hiểu biết đó là “Minh”. Khi nói
đến vô minh thì phải nói đến minh.
Vậy minh nghĩa là
gì?
Nhƣ trên đã nói; “Vượt ra ngoài ái dục, thì sự thấy và hiểu biết
là minh”. Minh là
trí
tuệ hiểu biết không bị ái dục,
tƣởng dục chi phối, nên thấy và hiểu biết mọi sự vật nhƣ thật, không bị dục ngăn che. Cho nên khi nào tâm hết dục thì ta mới có “Minh ”.
Tóm
lại vô minh gọi là sự hiểu biết của Dục tri, Tƣởng tri;
còn
minh gọi là sự hiểu
biết của Liễu tri, Thắng tri, Trực
tri, Chánh tri.
Bát Chánh Đạo là con đƣờng tu tập của Phật Giáo dạy
cho chúng ta có cái nhìn thấy đúng đắn, cái suy tƣ đúng
đắn
không mang theo
dục tri, tƣởng tri. Vì thế Bát Chánh
Đạo dạy cho chúng ta “Minh”.
Ngày xƣa cho đến ngày nay Tổ tiên, Ông bà, Cha mẹ,
Thầy
Tổ (các thầy Đại Thừa) và tất cả mọi ngƣời chung quanh ta đều dạy
cho
chúng ta sự hiểu biết thƣờng tục, gọi là
kiến thức; nhƣng kiến thức ấy luôn luôn mang đầy ắp
những ái dục tri, ái dục
tƣởng tri. Từ khi Đạo Phật ra đời
dạy cho chúng ta cái
hiểu biết khác, cái
hiểu biết ly dục tri,
ly dục tƣởng tri và ly ác pháp. Do đó chúng ta mới nhận
thấy mình thoát khổ, tâm không còn tham, sân, si phiền
não,
khổ đau nhƣ trƣớc nữa. Cho nên kinh Pháp Cú dạy:
“Vui thay Phật ra đời!”. Phật ra đời luôn luôn đem lại
hạnh phúc, an vui cho mọi ngƣời và mọi loài trên hành tinh sống này. Nhƣng có mấy ai đã hiểu biết đúng nhƣ vậy, tất cả mọi ngƣời đang sống trong mộng mơ, ảo tƣởng, mơ hồ
của
thế tục, của các tôn giáo,
của các triết học,
v.v...
Ở đâu có vô minh, thì ở đó không có minh;
ở đâu có minh thì ở
đó
không có vô minh. Minh là bờ
bên kia và vô minh
là bờ bên này, bờ bên này là đau khổ và bờ bên kia là giải thoát.
Nhƣ vậy, luận về minh và vô minh thì chúng ta đã nhận ra pháp tu hành của Phật
Giáo
rất rõ ràng, chỉ có điều chúng ta
muốn ở bờ bên này hay ở bờ bên kia mà thôi. Muốn khổ đau thì ở bờ
bên này; ở bờ bên này thì đừng than trời trách đất. Muốn hết khổ đau thì ở bờ bên kia; bờ bên kia
là giải thoát, tâm luôn luôn thanh thản,
an lạc và vô sự.
2- Tham ái nghĩa là gì? Tham là lòng
ham
muốn; ái là lòng
yêu
thích. Đã là con ngƣời thì ai cũng có lòng ham muốn và ƣa thích hoặc nhiều hoặc ít. Lòng ham muốn và ƣa thích là một sợi dây vô hình thƣờng trói buộc rất chặt
chúng ta vào vạn vật.
Khi chúng ta khởi tâm
ƣa thích hay
ham
muốn một vật gì thì chúng
ta bị trói chặt vào vật ấy,
khó
cho chúng ta buông bỏ đƣợc nó. Ví dụ: khi chúng ta khởi ý ham thích ƣa muốn có một ngôi nhà khang trang, đầy đủ tiện nghi, thì lúc bây giờ muốn bỏ ý niệm ấy rất khó. Nó thôi thúc chúng ta phải cố gắng làm lụng hoặc phải bán đến cả đất đai của cha mẹ cho để xây cất cho
bằng đƣợc ngôi nhà. Đó là bị tham ái trói buộc. Cho nên Đức Phật
đã
xác định cho chúng ta
thấy tham ái rất là
nguy hiểm, nó nhƣ sợi dây trói buộc rất chặt “bị tham ái
trói buộc”. Đó là lời cảnh báo
để
chúng ta thoát ra sợi dây
vô hình này. Nếu mọi ngƣời không biết Phật
pháp thì chắc
chắn không ngƣời nào tự ý thức để thoát
khỏi sợi dây tham
ái này. Có đúng không
các
bạn?
Đời ngƣời thƣờng bị khổ đau đều do sợi dây tham ái này.
Bát Chánh Đạo giúp chúng ta cắt
đứt những sợi dây tham ái đó.
Thƣa các bạn! Chúng tôi đã nhờ pháp môn Bát Chánh Đạo mà đoạn lìa đƣợc sợi dây tham ái này môt cách dễ
dàng không mấy khó khăn và mệt nhọc, chỉ có bền chí
ngày ngày siêng năng
mài dũa tâm mình đúng pháp. “Có
công
mài sắt có ngày nên kim” các bạn ạ!
3- Hữu tình là gì? Hữu là có; tình là tình cảm, cảm mến.
Các loài hữu tình là chỉ chung cho loài ngƣời và loài vật (loài có tình cảm).
4- Tái sanh là gì? Tái sanh có nghĩa là sanh
trở
lại làm ngƣời làm loài vật. Đọc hết đoạn kinh này ta biết rõ: “Các loài hữu tình thích thú chỗ này, chỗ kia như vậy, tái sanh
trong tương lai sẽ xảy ra”. Lời dạy này rất đúng. Mọi
ngƣời đang sống trên hành tinh này luôn luôn ƣa thích cái này cái kia, lúc nào cũng ƣa thích.
Do tâm ƣa thích mà
loài ngƣời cũng
nhƣ loài vật đều phải chịu tiếp
tục tái sanh luân hồi.
Chúng tôi xin các bạn vui lòng đọc lại trọn vẹn đoạn kinh trên đây để chúng ta rút ra đƣợc một bài pháp tu tập thực tế và cụ thể có pháp hành hẳn hoi “Bị vô
minh ngăn che,
bị tham ái trói buộc, các
loài
hữu tình thích thú chỗ này, chỗ
kia như vậy, tái sanh trong tương lai sẽ xảy ra”. Nhƣ vậy muốn chấm dứt tái sanh luân hồi thì phải diệt trừ vô
minh. Do Vô minh mà có tham ái; do tham ái mà thích cái
này
cái kia; do ƣa thích cái này cái kia mà phải chịu tái
sanh
luân hồi, khổ đau muôn kiếp. Nhƣ vậy vô minh là
vấn
đ ề q u an
trọn g h àn g đ ầu tron g sự tu tập
th i ền
đ ịn h
củ a
Ph ật
Giáo, là đ ề
tài
tối
h ậu cần
p h ải
tiêu d iệt, cần
p h ải
từ
b ỏ, cần
p h ải xa l ìa , v.v... Với đề tài
vô minh này
ngƣời tu sĩ hay cƣ sĩ
Phật Giáo phải lƣu ý
bằng mọi cách để thiện xảo
vén
sạch màn vô minh.
Muốn vén sạch màn vô minh thì chúng ta phải có minh,
tức
là trí tuệ Tam Minh. Nhƣng làm sao có Tam Minh
đƣợc? Muốn có trí tuệ Tam Minh thì chúng ta
phải
tu tập bằng những con đƣờng
Bát Chánh Đạo: Chánh kiến,
Chánh tƣ duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn,
Chánh niệm, Chánh định.
Chánh niệm tức là Tứ Niệm Xứ thuộc Định Vô Lậu. Vậy
muốn tu tập Định Vô Lậu thì phải dùng pháp
gì? Muốn tu
tập Định Vô Lậu thì phải dùng
ý thức, pháp tác ý và pháp
như
lý tác ý. Xin các bạn lƣu ý: Con đƣờng tu tập theo Phật Giáo “Ý thức” là vũ khí hàng đầu trong việc đánh giặc sanh tử “Ý dẫn đầu, ý
làm chủ, ý
tạo tác”. Dùng ý thức tu
tập đúng cách chúng ta mới ly dục ly ác
pháp;
nhờ ly dục ly ác pháp mà tâm
mới
nhập định; nhờ định mà ta có
Tam Minh; nhờ
Tam
Minh mà vô minh mới diệt
trừ tận gốc
hay nói cách khác nhờ Tam Minh mà tham ái đƣợc
diệt trừ tận gốc. Nhƣ vậy đến đây các bạn đều đã biết
phƣơng pháp và cách thức tu
tập rất rõ ràng. Phải không hỡi các
bạn?
Còn Chánh Định tức
là bốn thiền: Sơ Thiền, Nhị Thiền,
Tam Thiền, Tứ Thiền, ngoài bốn thiền này không có thiền
nào
đƣợc gọi là Chánh Định. Vì thế nói về thiền định các
bạn
cần nên lƣu ý
để tránh khỏi những tà thiền của ngoại đạo.
Cho nên kết luận đoạn kinh,
Đức Phật dạy nhƣ dƣới đây: “Vô minh được xả ly, minh khởi tham ái được đoạn diệt (diệt dục diệt ác pháp). Như vậy tái sanh trong
tương lai sẽ không xảy ra”. Nếu chúng ta xét cho kỹ đoạn kinh
này
thì chúng ta thấy Đức Phật đã trao cho chúng ta một
bí
quyết cốt tủy giải thoát của đạo. Chỉ cần siêng năng
tu tập là đạt đƣợc kết
quả ngay
liền.
Nhƣ lời dạy trên trong cuộc đời tu hành theo Phật Giáo, chúng ta thấy rất rõ, kẻ nào vô minh thƣờng bị tham ái trói buộc thích thú vui chơi chỗ này, chỗ kia thì sự đau khổ và tái sanh luân hồi không thể tránh khỏi; còn kẻ nào
ly dục, ly ác pháp thì đƣợc giải thoát, an vui, tâm hồn lúc
nào
cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Do tâm hồn đƣợc
nhƣ vậy
thì
sẽ chấm dứt tái
sanh
luân hồi chắc chắn.
LỜ I P H ẬT DẠ Y
KỆ LÖC THÀNH ĐẠO
“Thiên thượng,
thiên hạ
Duy ngã độc tôn
Nhất thiết thế gian Sanh, lão, bệnh, tử.”
CH Ö GIẢ I:
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!