- Bằng phƣơng pháp Thân Hành Niệm
giúp
cho thân tâm sanh bảy Giác
Chi.
Nếu trong cuộc sống tu hành theo Phật Giáo để tìm
cầu
sự giải thoát làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm
dứt
luân hồi thì phải luôn luôn hộ trì thân hành, không thể nào
thiếu sự hộ trì này mà chứng đạo
đƣợc.
Tinh cần hộ trì mắt, tai, mũi, miệng,
thân nhƣ vậy chƣa
đủ
mà còn phải tiếp tục hộ
trì căn khác nữa là ý
căn.
Muốn hộ trì
ý căn phải nhƣ thế nào?
- Hộ trì
ý căn có ba phần: Sử
dụng tri
kiến
Sử dụng pháp hƣớng tâm nhƣ lý tác ý. Sử dụng giới luật.
- Sử dụng tri kiến, khi nào có một niệm khởi trong tâm hay một pháp bên ngoài tác động vào tâm thì phải tƣ duy suy nghĩ cho tƣờng tận
niệm ấy, để đẩy lui khiến cho tâm trở nên thanh thản, an lạc và vô sự. Sử
dụng tri kiến tức là tu tập Định Vô Lậu.
Càng tu tập Định Vô
Lậu
thì tri kiến càng sắc bén. Tri kiến sắc bén giống nhƣ một
thanh gƣơm
thƣ hùng kiếm của một dũng
sĩ lâm trận.
- Thƣờng xuyên tác ý để tâm ly dục ly ác pháp; thƣờng
xuyên tác ý để tâm có một nội lực mạnh mẽ giúp cho ý thức
đẩy lùi các chƣớng ngại pháp trên thân một cách dễ
dàng. Đó là cách thức tu tập tạo thành ý
thức
lực, nhờ ý thức lực mà chúng ta làm chủ sanh,
già, bệnh, chết...
- Sử dụng giới luật, vì giới
luật là thiện pháp, là đạo đức làm
ngƣời, làm Thánh. Cho nên lấy giới luật làm tiêu chuẩn để ý thức nhắm vào
tƣ duy quan sát các pháp đang trùng trùng duyên khởi. Do đó chúng ta không bị lầm lạc,
lẫn lộn pháp thiện ra pháp ác, pháp ác ra pháp thiện. Biết
sử dụng giới luật đúng pháp thì chúng ta tu tập Tứ Chánh
Cần mới có hiệu quả:
“Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện
tăng trƣởng thiện pháp”.
Tóm lại, trên đƣờng tu tập theo giáo pháp của Phật Giáo thì chúng ta phải theo lời
khuyên này. Hằng ngày phải
siêng năng tu tập bốn loại tinh cần,
đừng
cố chấp tuần tự
theo pháp mà phải
biết
khéo léo thiện xảo và
linh động tùy theo
mỗi trạng thái tâm
của chúng ta
mà
tu tập. Có tu tập nhƣ vậy
thì
mới
có ích lợi thật sự.
Ví dụ: Trong lúc chúng ta đang tinh cần tu
tập Chánh Niệm Tỉnh Giác thì bỗng có tiếng kêu la cầu cứu. Tức thì chúng ta tinh cần tu tập hộ trì
nhĩ căn.
Ví
dụ
trên đây để chúng
ta nhận xét sự linh động thiện xảo từng giây, từng phút
trong sự tu tập. Đừng có cố chấp khƣ khƣ theo giáo điều
thì sai
lệch mất.
Cho nên bốn tinh cần này là gồm đủ các pháp tu tập trong Phật Giáo. Cuối cùng chúng tôi không biết nói gì hơn để
trao
lại những kinh nghiệm
và tâm
sự cùng các
bạn
thiết tha tu hành thân mến. Ƣớc mong sao quý bạn sẽ thành tựu viên mãn con đƣờng giải thoát của Phật Giáo để đền
đáp
ơn Phật trong muôn một.
NGƢỜI HỌC PHẬT PHẢI
CÓ CHÁNH KIẾN & LUÔN
NHÌN ĐỜI
BẰNG ĐÔI MẮT NHÂN QUẢ - DUYÊN SINH
Hỏi : Một người học Phật phải nhìn cuộc đời
như
thế
nào để không
bị
đắm
chìm,
lôi cuốn theo những lạc thú
tầm
thường
của thế gian, nhưng cũng không bị người đời lên
án là tiêu cực, vô cảm, lãnh đạm,
v.v...
Đáp : Một ngƣời học
Phật
phải
nhìn đời
bằng
đôi mắt
nhân
quả - duyên sinh nên không tiêu cực, vô cảm, lãnh
đạm.
Ngƣời học Phật phải có tri kiến nhân quả, tri kiến Thập
Nhị Nhân Duyên, tri kiến kiết sử,
tri kiến ngũ uẩn, tri kiến ngũ triền cái, tri kiến
về các pháp bất tịnh, tri kiến các pháp vô thƣờng khổ không vô ngã, tri kiến về lòng từ bi hỷ
xả, v.v...
Nếu có những tri kiến nhƣ vậy thì ngƣời này sẽ không bị
đắm
chìm, lôi cuốn theo những lạc thú tầm thƣờng của thế
gian. Muốn có những tri kiến này thì ngƣời học Phật nên nghiên cứu kinh sách Nguyên
Thủy, vì trong đó dạy rất
đầy
đủ và dễ hiểu. Không nên nghiên cứu kinh sách Đại
Thừa
vì kinh sách này
sẽ gieo vào đầu óc của các bạn một thế giới ảo tƣởng, mơ hồ, trừu tƣợng. Một khi các bạn đã
chịu
ảnh hƣởng của nó
thì
các bạn
giống nhƣ ngƣời
nghiện
thuốc phiện. Muốn bỏ mà
rất
khó bỏ.
Ngƣời cƣ sĩ hiểu sao về Phật giáo có tiêu cực, vô cảm, lãnh đạm?
Về Phật giáo là phải có một tinh thần tích cực, tự lực
trong sự tu tập các
pháp
môn; phải tích cực, tự lực chiến
đấu
với nội tâm của mình khi có ác pháp xâm chiếm để
đem lại sự thanh bình cho tâm hồn; phải tích cực chiến
đấu
với ngoại pháp để đem lại cho mọi ngƣời một sự an
ổn, một xã hội
có trật tự. Về Phật giáo có hai giới tu tập:
1/ Cƣ sĩ
2/ Tu sĩ
Cƣ sĩ thì phải tu theo pháp của ngƣời cƣ sĩ. Pháp của
ngƣời cƣ sĩ
tu tập là một nền đạo
đức
nhân bản - nhân quả
không làm khổ mình khổ ngƣời thì làm sao có sự tiêu cực,
vô cảm, lãnh đạm... đƣợc. Nếu tiêu cực, vô cảm, lãnh đạm
là làm khổ mình khổ ngƣời thì đâu có đúng chánh pháp.
Có lẽ
Cƣ sĩ đã hiểu sai pháp Phật, không hiểu về pháp tu
tập của ngƣời Tu sĩ.
Ngƣời Cƣ sĩ chỉ có sống những ngày Thọ Bát Quan Trai là
nhƣ ngƣời Tu sĩ mà thôi. Một tháng chỉ sống có mấy ngày thì đâu thể nào gọi là
tiêu cực, vô cảm,
lãnh
đạm đƣợc.
Phật dạy chúng ta biết
ác pháp và thiện pháp, ác pháp thì nên tránh và diệt để đem lại cho mình cho ngƣời hạnh
phúc an vui chứ đâu phải lãnh đạm, vô cảm. Ví dụ: Trong bữa tiệc mọi ngƣời ép chúng ta uống rƣợu, chúng ta từ
chối không tùy thuận theo các
ác pháp này thì bảo rằng
chúng ta lãnh đạm thì không đúng. Chúng ta cƣơng quyết
làm đƣợc điều này là làm gƣơng tốt đẹp cho ngƣời khác, để mọi ngƣời tránh thứ độc dƣợc hại này. Cho nên Đạo
Phật không phải là đạo yếm thế, tiêu cực, lãnh đạm, vô
cảm, v.v...
Ngƣời hiểu đạo Phật yếm thế, lãnh đạm, vô cảm...
là ngƣời hiểu
sai đạo Phật.
Ví dụ:
Tình nghĩa vợ chồng là phải chia xẻ nhau những nỗi buồn vui, thế mà xa lánh nhau, lạc lẽo, lãnh đạm
thì Đức Phật đâu có dạy bao giờ, mà Đức Phật
dạy không nên
tà dâm, vì tà dâm là làm hại gia đình mất hạnh phúc, tà dâm, dâm
dục
không tiết độ sẽ đem đến thân bệnh tật, mà thân
mang đau bệnh thì sự
an vui
hạnh phúc gia đình mất.
Đạo Phật nói đời khổ là để vƣợt qua mọi sự đau khổ đó, chứ không có nghĩa là trốn tránh khổ, nói cách khác là để làm cho đời hết khổ.
Làm cho đời hết khổ là phải tích cực
hết mình. Vì thế mà đạo đức của đạo Phật là đạo đức
không
làm khổ mình khổ ngƣời. (Trích ở
Giáo án tu tập).
ĐỨC PHẬT XÁC
ĐỊNH
THẾ GIỚI CỦA
CON
NGƢỜI
LỜI PHẬT DẠY
“Thế giới con người đang thấy và biết là thế giới chấp thủ của điên đảo tâm, điên đảo tưởng,
điên đảo tình và điên đảo kiến phát
sanh do vô minh”.
CH Ö GIẢ I:
Lời dạy trên đây của Đức Phật là chỉ thẳng để chúng ta đừng lầm chấp cái
thế giới chúng ta đang sống.
Thế giới chúng ta đang sống là thế giới
duyên hợp, nó chẳng có cái gì thật cả, nhƣng chúng ta không
hiểu
biết rõ ràng nên chấp chặt
cho nó là có thật ngã, vật nào cũng có thật.
Do thấy biết vật nào cũng thật, vì thế mỗi khi chúng ta mất mát một
vật gì thì lòng
chúng
ta buồn khổ
da diết.
Ví dụ: Nhƣ mất của cải tài sản, cha mẹ chết, con cái mất,
v.v... thì khổ
sở vô cùng, gần
nhƣ muốn chết.
Do thấy biết vật nào cũng nhƣ thật, nên cố gắng làm và
tạo ra cho nhiều vật chất, v.v... Vì thế suốt
cuộc
đời đành
phải chịu nhọc nhằn và
đành phải
làm
những điều gian ác, trộm cắp, cờ bạc gian lận, hối lộ ăn đút lót, giết ngƣời
cƣớp của. Những hành động đó, vốn cũng chỉ để mong sao tạo ra
vật chất càng
nhiều càng
tốt .
Sự hiểu biết sai lệch nhƣ vậy, nên mới đem hết sức lực của
mình ra để làm cho nhiều của cải và tài sản,
tuy
bằng công
sức của mình, không phải cƣớp giật của ai, nhƣng có cái tội
là đày ải thân tâm
chúng ta quá nhiều
khổ nhọc v.v...Với tâm tham đắm vật chất nhƣ vậy mà ngƣời đời gọi là lòng tham không đáy. Do sự hiểu biết lầm lạc mà đã
biến
thành lòng tham không đáy ấy, nên Đức Phật chỉ thẳng cho loài ngƣời biết: “Thế
giới con người đang thấy,
biết là thế giới của chấp thủ, của điên đảo tâm, điên đảo
tưởng, điên đảo tình, điên
đảo kiến phát sanh do vô
minh”.
Lời dạy này rất
đúng. Từ tham muốn cái này, đến tham
muốn cái khác, cái tham muốn này không bao giờ dừng. Nên vì thế
khổ đau cũng không bao giờ dừng.
Đức
Phật
muốn cho đệ tử của
Ngƣời dừng
lòng tham muốn ấy, nên Ngài mới dạy giới luật đức hạnh làm ngƣời làm Thánh. Giới không cất giữ tiền bạc, ngọc ngà, châu báu v.v... cũng là một đức hạnh ly tham. Vì còn cất giữ tiền bạc là còn chấp thủ, cho nên các nhà sƣ Đại Thừa
hiện
giờ còn cất giữ tiền bạc là còn chấp thủ, còn chấp thủ thì
tâm điên đảo, tâm điên đảo là tâm không sáng suốt,
tâm không sáng suốt nên không thấy thế giới của loài
ngƣời là
thế giới tƣởng tri, do các
duyên hợp lại tạo thành,
chứ thật ra không có vật
gì là thật có. Các nhà Đại Thừa
tuy luận nói nhƣ vậy mà lối sống không đúng vậy. Cho
nên tâm điên đảo thấy biết các pháp là thật có. Vì vậy mới
xây dựng chùa to Phật lớn,
làm
đẹp cảnh quang.
Qua lời dạy của Đức Phật trên đây chúng ta thấy
rõ các nhà Đại Thừa điên đảo tâm, chấp thủ dính mắc vật chất
thế gian quá si mê. Các Ngài cho rằng xây cất chùa to Phật lớn, đúc
chuông, tạc tƣợng v.v... là có
phƣớc vô lƣợng, là
xây dựng Phật Giáo, là làm
cho Phật Giáo hƣng thịnh. Cái nghĩ tƣởng có phƣớc vô lƣợng,
làm cho Phật
Giáo
hƣng thịnh, thì đó là chấp thủ thế giới hữu hình. Còn chấp thủ thế giới hữu hình là còn lo tạo dựng, còn tạo dựng thì đó không đúng nhƣ lời Phật dạy: “Thế giới con
người đang thấy và biết là thế giới của chấp thủ của điên đảo
tâm, điên đảo tưởng, điên đảo tình và điên đảo kiến…”. Nhƣ vậy những ngƣời lo xây dựng chùa to Phật lớn, đúc
chuông, tạc tƣợng v.v... là những
ngƣời chấp thủ của điên đảo
tâm,
điên đảo tƣởng, điên
đảo tình và
điên
đảo kiến.
Cái
thế giới tƣởng tri do các duyên hợp lại mà thành,
đâu có vật gì là thật, thế mà vì tâm chấp thủ nên ngu si vô minh mới lo xây dựng làm
hao
tốn biết bao nhiêu của cải công lao của đàn na thí chủ.
Ngƣời tu sĩ chân chánh
của Phật Giáo thấy thế giới này là thế giới không thật, mọi vật đều vô thƣờng, vô ngã, nên họ
quyết từ bỏ và xa lìa, không để tâm dính mắc một vật gì của thế giới này. Vì thế họ chấp nhận một đời sống ba y một bát, đi
xin ăn, lấy gốc cây làm giƣờng nằm.
Cho nên những ngƣời chấp nhận đời sống ba y một bát, đi xin ăn
là những ngƣời thấy biết
thế giới này thật sự là các duyên hợp nhƣ mộng, nhƣ huyễn
nên họ
không chấp thủ, không chấp thủ nên tâm hồn họ trắng bạch nhƣ vỏ
ốc, phóng khoáng nhƣ hƣ không. Họ không có chùa to Phật lớn, không có vật chất thế gian nhiều. Vì thế
họ không có điên đảo tâm, điên đảo tƣởng, điên đảo tình và điên đảo kiến.
Ngƣợc lại là những ngƣời đang sống
trong
điên đảo, thật đáng thƣơng vậy.
ĐỨC
PHẬT DẠY TU TẬP
BA
PHÁP
MÔN ĐOẠN TẬN LẬU HOẶC
LỜI PHẬT DẠY
“1- Hộ trì
các căn
2- Tiết độ ăn uống
3- Chú tâm tỉnh giác”.
CH Ö GIẢ I:
Muốn đoạn tận các
lậu
hoặc thì Đức Phật đã dạy cho chúng ta có
ba điều quan trọng cần thiết phải tu tập hằng ngày
để
đoạn trừ cho
đƣợc lậu hoặc, đó là:
Hộ trì các
căn Tiết độ ăn uống Chú tâm
tỉnh giác.
-
Điều
thứ
n h ất
: Hộ trì các căn tức là pháp môn độc cƣ mà trong bài tinh cần hộ trì chúng tôi đã giảng ở trên. Bởi vì hộ trì các căn là một sự tối cần thiết cho việc tu tập đoạn trừ lậu hoặc. Nếu quý vị không giữ gìn trọn vẹn hạnh độc cƣ thì chẳng
bao giờ hết lậu hoặc. Hạnh độc cƣ quan trọng
đến mức độ nào trong sự tu tập vô lậu mà Đức Phật ví dụ:
Ngƣời giữ gìn hạnh độc cƣ nhƣ con tê ngƣu một sừng thì quý bạn nên lƣu ý,
nó quan trọng đến mức độ nào trong con đƣờng tu tập giải thoát của các bạn.
Hộ trì các căn
thuộc về pháp môn tinh cần hộ trì, nó là một trong bốn pháp tinh cần của Đạo Phật mà Đức
Phật
đã khéo nhắc
nhở
chúng ta phải siêng năng hộ trì các căn. Một lần nữa khi Đức Phật dạy đến cách thức đoạn tận lậu hoặc thì pháp môn hộ trì các căn lại đứng hàng đầu, làm tƣớng tiên phong xung trận đoạn tận lậu hoặc. Nhƣ vậy, hộ trì các căn các bạn phải biết nó là một pháp môn có tầm cỡ rất quan trọng trong vấn đề tu tập theo Đạo Phật. Vì vậy,
chúng tôi đã nhắc đi
nhắc lại với các bạn rất nhiều lần,
nhƣng các bạn không
tin lời chúng tôi,
do đó
chúng tôi xác định rằng các bạn
tu
hành sẽ không đi đến đâu cả chỉ
loanh quanh trong các trạng
thái tƣởng của
tƣởng ấm.
-
Điều
thứ
h ai : Tiết độ ăn uống là pháp đoạn tận lậu hoặc của Phật Giáo.
Nhƣ các bạn đã biết trong giới bổn Thập Giới Sa Di Đức Phật cấm không cho Thầy Sa Di ăn uống phi thời, ngày chỉ một bữa,
đó cũng là phƣơng cách sống tiết
độ ăn uống để đạt đƣợc mục đích đoạn tận lậu hoặc. Vả lại trong
Mƣời Giới Thánh Đức Sa Di thì tiết độ ăn uống là một
Thánh Đức Ly Dục mà ngƣời Tu sĩ Đệ tử của Phật muốn
trở thành một
vị Thánh Tăng, Thánh Ni thì không thể nào
sống
phi Thánh Đức này đƣợc. Nó là pháp môn ly dục, ly
ác pháp tuyệt
vời.
Vì thế nó là một phƣơng pháp đoạn tận lậu hoặc
trong ba phƣơng pháp mà Đức Phật đã dạy cho chúng ta ở trên. Bởi vậy chúng ta phải hiểu trong vấn đề ăn uống. Ăn uống
không
đúng
cách (phi thời) rất ảnh hƣởng đến sự tu tập ly dục ly ác
pháp của Đạo Phật, nói một cách khác cho dễ hiểu, ăn uống phi thời không bao giờ nhập đƣợc chánh định (Tứ Thánh Định) chỉ nhập vào các loại định tƣởng, tà định của tà đạo.
Cho nên một ngƣời ăn uống phi thời thì không bao giờ
đoạn
tận lậu hoặc đƣợc. Đó là một điều hiển nhiên không ai chối
cãi đƣợc. Phải
không
các
bạn?
Chúng tôi nhờ không ăn uống phi thời, nên tâm mới ly
dục
ly ác pháp, nhờ đó chúng tôi mới hoàn tất đƣợc con đƣờng tu
tập của mình. Ngày nay chúng tôi mới thở đƣợc một hơi thở nhẹ nhàng, khi đứng trƣớc giặc
sanh tử luân
hồi.
-
Điều
thứ
b a : Chú tâm
tỉnh giác là
pháp đoạn tận lậu hoặc của Phật Giáo.
Các
bạn
có lƣu ý điều này không? Từ khi bắt đầu theo tu học
với
Phật Giáo, lúc tập đi kinh hành cũng nhƣ khi tập luyện 18 đề mục
hơi thở, nói chung là các pháp của Đức
Phật, lúc nào Đức Phật dạy chúng ta tu tập, cũng đều dạy
chú tâm vào thân hành để đạt đƣợc sức tỉnh giác. Không
ngờ
sự chú tâm tỉnh
giác ấy lại là một pháp môn đoạn tận lậu hoặc rất tuyệt vời. Càng tu tập tỉnh thức thì
càng xả tâm dễ dàng, càng tu tập tỉnh thức thì tâm càng định tỉnh
trên thân hành và nhờ
đó
mà bảy Giác Chi xuất hiện. bảy
Giác
Chi là bảy năng lực, chứ không phải là bảy Giác Chi
suông, khi chúng xuất hiện giúp cho chúng ta nhập định dễ
dàng, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có tốn công sức nhiều.
Tóm lại, bài dạy thứ nhất của Đức Phật trên đây, chúng
tôi trích dẫn và chú giải với mục đích làm sáng tỏ và cũng để chấn chỉnh lại Phật Giáo, để mọi ngƣời biết rõ giáo lý của Đạo Phật
và giáo lý của ngoại đạo đều không giống
nhau. Giáo pháp của Phật có ba pháp môn vô lậu, đó là
Giới, Định, Tuệ còn gọi là “Tam Vô Lậu Học” mà ngoại
đạo
thì không bao giờ
có.
Nếu ai sống và tu tập đúng pháp
môn
này thì nhận ra
sự vô lậu ngay liền ở tâm mình.
TAM VÔ LẬU HỌC: GIỚI, ĐỊNH,
TUỆ,
pháp môn mà Đức Phật
tu tập đã thành chánh quả. Do đó Ngài muốn khuyến
khích chúng ta ở đời sau nên dạy: “Với pháp này
Ta đã chân chánh giác ngộ, Ta hãy
cung kính, đảnh lễ
và
sống y chỉ pháp ấy”. Để chúng ta
có
thêm một lòng tin sâu sắc, không bị tà giáo lừa đảo hay còn mang một ý nghĩa lừng chừng
bán
tin bán nghi Phật pháp. Đó là bài dạy thứ nhất.
Còn bài dạy thứ hai tóm
lại,
Ngài xác định cho chúng ta
biết
cái thế giới của chúng ta đang
sống là cái thế giới chấp thủ của tâm điên đảo, của tƣởng điên đảo, của tình điên
đảo
và của kiến điên đảo, để chúng ta biết nhƣ thật, đừng có đắm đuối, ham mê, ƣa thích cái thế giới không thật đó.
Vì tất cả mọi vật
trong thế giới
này là do duyên hợp mà thành, chứ không có thật. Vậy, chúng ta hãy đi tìm cái
chân thật, cái chân thật chỉ cần tu tập đúng lời dạy của
Đức Phật,
kh i
tâm
bất
độn g trư ớ
c các ph áp
và các
cảm th ọ
th ì
n ó đan g
ở
trư ớ c m ắt
ch ú n g
ta
, đó là cái vĩnh cửu muôn
đời, cái đó hoàn toàn không do duyên hợp mà thành, mà phải do công phu tu tập mới có. Thật sự nó không phải có
sẵn.
Xin các bạn đừng hiểu lầm cái “Phật tánh” có sẵn
nhƣ Thiền Tông và kinh sách Đại Thừa dạy. Đó là cái
“Phật Tánh Tƣởng”.
Thân ngũ uẩn là do năm
duyên hợp lại mà thành thân con
ngƣời, nên trong đó không có một
vật gì thƣờng hằng vĩnh
viễn. Kh i thân n gũ
u ẩn
tan
rã thì n ăm
d u yên cũ n g
tan
rã
k h ôn g còn
một d u yên
n ào cả
. Đức Phật dạy:
“Nếu thân ngũ uẩn này còn có một vật gì thường hằng
thì Đạo Ta không ra đời”. Đó là
bài dạy thứ hai.
Và bài dạy thứ ba tóm lại, có bốn tinh cần ngƣời tu hành
cần
phải siêng năng tu tập.
-
Trƣớc tiên, ngƣời tu
theo Đạo Phật
hằng ngày phải siêng năng chế ngự tâm mình (Tinh cần chế ngự).
Xin các
b ạn
n ên h iểu ch ế n gự
k h ác n gh ĩa
với ức ch ế , nếu các bạn
không hiểu nghĩa này là các bạn sẽ tu sai pháp,
ch ế
n gự
thân tâm sẽ tr ở thàn
h ức ch ế thân tâm . Do không hiểu nghĩa này nên các nhà sƣ của nhiều hệ phái đã biến Đại Thừa, các thiền sƣ Đông Độ và các sƣ Nam
Tông theo
pháp
tu chế ngự tâm trở thành pháp tu ức chế tâm khiến
sự tu hành chẳng
đi
đến đâu mà
còn
thành “bệnh tưởng”.
- Pháp thứ hai là phải siêng năng bất cứ lúc nào gặp ác pháp là phải đoạn tận.
Xin
các bạn đừng hiểu lầm ác pháp là vọng niệm của mình.
Ác pháp có
hai phần:
Ác pháp thuộc về thân
Ác pháp thuộc về tâm
+ Ác pháp thuộc
về thân là thân bị bệnh đau nhức
chỗ này chỗ khác.
+ Ác pháp về tâm, khi có một tầm khởi lên, tầm ấy thuộc
về tham, sân, si có nghĩa là tham ăn, tham ngủ và phiền
não, giận hờn, buồn rầu,
lo sợ, đó là hại tầm.
Khi có thân bệnh hoặc có những hại tầm nhƣ trên thì phải
tinh cần siêng năng đoạn tận nó không đƣợc để trong thân
tâm
chúng ta, phải bằng mọi cách đoạn tận nó không
đƣợc để từ giờ này sang giờ khác.
- Pháp thứ
ba là pháp phải siêng năng
tinh
cần tu tập 37 pháp môn trợ đạo. Tu tập phải kỹ lƣỡng,
phải từng giây,
từng
phút, từng giờ, từng ngày,
không
lúc
nào quên tu tập. Tu tập các pháp môn này chỉ có nƣơng vào hành động nội
và ngoại của thân chúng
ta.
- Pháp thứ tƣ là phải siêng năng tinh cần hộ trì các căn
từng phút từng giây không đƣợc biếng trễ. Đó là pháp độc
cƣ một bí quyết tu tập để thành tựu thiền định hay nói
cách khác là
nhập
các định và thực hiện Tam Minh.
Trên đây
là bốn điều cần phải siêng năng tu tập hằng
ngày thì con đƣờng sanh tử
luân hồi của
bạn sẽ chấm dứt.
Bài pháp cuối cùng trong tập sách này là đoạn tận lậu
hoặc. Đoạn tận lậu hoặc nhƣ các bạn đã từng tu tập qua
sự hƣớng dẫn của
Thầy.
Đoạn
tận lậu hoặc gồm có ba
phần:
- Phần thứ nhất, Hộ trì các căn các bạn đều biết pháp tu
này, mà không
ai còn xa lạ nó. Phải không các bạn?
- Phần thứ hai, Tiết độ trong ăn uống phần này các
bạn cũng thông suốt. Chính vì
ăn uống phi thời mà các bạn
chẳng bao
giờ đoạn tận lậu hoặc đƣợc. Có
đúng vậy không thƣa các bạn?
- Phần thứ ba, Chú
tâm
tỉnh thức phần
này
các bạn đã tu
tập quá nhiều, nhuần nhuyễn không thể nào không biết.
Phải
không
hỡi
các bạn?
Tất
cả
những pháp Đức Phật đã dạy trên đây các bạn đều thông suốt
chỉ còn tu tập thì sự giải thoát sẽ đến với các
bạn, không còn sợ lạc vào đƣờng lối tu tập sai pháp của
các
Tổ và kinh sách phát triển Đại Thừa và Thiền Tông nữa.
BẢY CÁCH
DIỆT LẬU HOẶC BẰNG PHÁP NHƢ LÝ TÁC Ý
LỜI PHẬT DẠY
“Này các Tỳ Kheo,
do như lý tác ý, các lậu hoặc chưa
sanh không sanh khởi,
và các lậu hoặc đã sanh được trừ
diệt.
Này các Tỳ Kheo:
1/ Có những
lậu hoặc phải do tri
kiến được đoạn trừ.
2/ Có những
lậu hoặc phải do phòng hộ được đoạn trừ.
3/ Có những
lậu hoặc phải do thọ
dụng
được
đoạn trừ.
4/ Có những lậu hoặc do
kham nhẫn được đoạn trừ.
5/ Có những
lậu hoặc phải do tránh né được đoạn trừ.
6/ Có những
lậu hoặc phải do trừ
diệt
được đoạn trừ.
7/ Có những
lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ.
CH Ö GIẢ I:
Trên đây là lời dạy của Đức Phật về pháp môn nhƣ lý tác
ý. Pháp môn nhƣ lý
tác ý dùng để tu tập tâm vô lậu.
Trong Đạo Phật, quả chứng cao nhất là tâm vô lậu. Tâm vô
lậu tức là chứng quả A La Hán. Ở đây pháp này dạy
chúng ta tu tập tâm
vô lậu, tức là tu tập để hết khổ đau. Pháp môn của Phật rất thực tế
và cụ thể nhƣ vậy. Thế mà,
trong Phật Giáo lại có pháp môn khác không
dạy
tâm vô lậu mà
dạy “Kiến Tánh
Thành
Phật”, khi
kiến tánh thành Phật xong, nhƣng tâm
vẫn chƣa hết lậu hoặc. Vậy, thành
Phật mà còn lậu hoặc sao? Và nhƣ vậy, Phật nghĩa nhƣ thế nào? Là Giác ngộ ƣ! Giác ngộ Phật Tánh,
giác ngộ thế giới này là huyễn giả ƣ! Hiểu biết là một lẽ khác, còn
muốn sống đƣợc tâm bất động là một việc tu tập hết sức
mình. Xin các
bạn
trả lời đi!? Đấy là một sự hiểu sai lệch
của tà đạo bằng sự tƣởng tƣợng của họ. Phải không các bạn?
Đứng
trƣớc tình trạng Phật Giáo
hiện nay Kinh
sách Phật Giáo Nguyên Thủy đúng hay kinh sách Đại Thừa đúng?
Muốn
trả lời những
điều
này chính
xác chỉ
có những
ngƣời tu
tập tâm vô lậu. Vậy, Phật Giáo hiện giờ tu sĩ bên nào tâm vô lậu, làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi?
Giá trị của tu sĩ là chỗ tâm vô lậu. Ngƣời nào tâm vô lậu mới xác định Phật Giáo đúng, sai thì chúng ta mới đủ lòng
tin. Phải không các bạn?
Phật Giáo
tu tập vốn để đạt đƣợc tâm vô lậu,
chứ đâu phải niệm Phật để cầu vãng sanh Cực Lạc Tây Phƣơng. Thế
mà,
lại có pháp môn Tịnh Độ chuyên niệm Phật A Di Đà để
đạt đƣợc nhất tâm
(Thất nhật
nhất tâm
bất loạn chuyên trì danh hiệu A Di Đà). Nhƣng khi đạt đƣợc nhất tâm thì một
thế
giới
tƣởng hiện
ra. Ngƣời niệm
Phật
tƣởng đó là thế giới Cực Lạc có thật. Họ đâu biết rằng đó
là một ảo giác do tƣởng uẩn hiện ra. Ngƣời ta tƣởng rằng: Khi niệm Phật đƣợc nhất tâm thì lậu hoặc sẽ hết.
Điều
n ày
rất sai
, k h ó
tin vì n iệm Ph ật đ ƣợc n h ất tâ m là
n én lậu h oặc
ch ứ
k h ôn g p h ải d iệt
lậu
h oặc . Vì thế tu nhƣ vậy làm sao hết lậu hoặc đƣợc. Phải không các bạn?
Xét lại kinh
sách Nguyên
Thủy,
những bài
pháp
dạy chúng ta
tu tập trực tiếp diệt lậu hoặc
một cách cụ thể
và rõ ràng. “Đó là pháp
môn Như Lý Tác Ý” Xin các bạn lƣu ý! Và p h áp
môn n h ƣ lý
tác
ý
mới
ch ín h là p háp môn
củ a
Ph ật Giáo
. Các bạn phải sáng suốt, nhận định cho rõ ràng
đừng để ngoại đạo lừa đảo các bạn bằng những tà kiến, tà
thiền, tà định, tà niệm Phật,
v.v...
Muốn đạt đƣợc tâm vô lậu thì chúng ta có bảy cách tu tập bằng pháp môn nhƣ lý
tác ý sau đây:
- Phƣơng cách thứ nhất,
Đức Phật đã
dạy:
“Có những lậu hoặc phải do tri
kiến được đoạn trừ”.
Nhƣ vậy pháp thứ nhất là phải dùng “tri kiến” để diệt trừ lậu
hoặc. Vậy tri kiến
là
gì?
Tri kiến là sự hiểu biết
bằng ý thức. Nhờ có ý thức, chúng
ta mới dùng pháp Nhƣ Lý Tác Ý, nhờ pháp môn nhƣ lý
tác ý mà lậu hoặc mới đƣợc đoạn diệt. Nhƣng tri kiến có
hai mặt:
1/
Tà tri
kiến, tức là tri kiến ác
2/
Chánh tri
kiến, tức là tri kiến
thiện
Tri kiến thiện còn gọi là chánh tri kiến,
nhờ
tri kiến tác ý một thiện pháp để phá vỡ đi một ác pháp, phá vỡ một ác pháp tức là đoạn trừ
một
lậu hoặc.
Muốn có tri kiến thiện thì chúng ta phải thấy,
nghe và gặp
các bậc Thánh, các
bậc
Chơn nhân; phải thuần thục pháp
của các bậc Thánh, của các bậc Chơn nhân; phải tu tập
pháp
của các bậc Thánh, của các bậc Chơn
nhân mà trong kinh thƣờng dạy: “Này
các
Tỳ Kheo, ở đây có kẻ phàm phu
ít nghe, không
được
thấy các bậc Thánh, không thuần thục
pháp
các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc
Thánh, không được thấy các bậc Chơn
nhân, không thuần thục pháp các bậc Chơn nhân…”. Cho nên, phải tuệ tri các
pháp
cần phải tác ý và tuệ tri các pháp không
cần
phải tác ý. Vậy, các pháp cần phải tác ý là pháp gì? Các pháp không cần tác ý là pháp gì? Xin các bạn lƣu ý kỹ ở điểm
này mới biết áp dụng
đúng
pháp nhƣ lý tác ý.
Các
pháp
cần tác ý là: ly tham, ly sân, ly si; từ bỏ tâm tham, từ bỏ tâm sân, từ bỏ tâm si; đoạn diệt tâm tham, đoạn diệt tâm sân,
đoạn
diệt tâm si, v.v...
Các
pháp
không cần tác ý là ngũ triền cái: tham, sân, si,
mạn,
nghi;
ngũ
dục lạc: danh, lợi, sắc, thực,
thùy,
v.v...
Ví dụ: Khi tâm tôi có sân tôi biết tâm tôi có sân. Và tôi biết rằng: sân là một ác pháp làm cho tâm tôi đau khổ.
Cái biết đƣợc tâm sân và sự khổ đau là tri kiến tác ý.
Nhƣng muốn đoạn dứt đƣợc sự đau khổ ấy (lậu hoặc) thì
tôi phải “như lý” giải
thoát mà “tác ý” có nghĩa là tâm sân là
khổ đau, tâm không sân là tâm
không khổ đau. Vậy tôi phải
tác ý nhƣ thế nào?
“Tâm như cục đất phải lìa xa tham, sân, si”. Đó là câu trạch pháp dùng tri kiến nhƣ lý tác ý để đoạn diệt lậu hoặc. “Tâm sân là tâm đau khổ hãy lìa ra khỏi
thân
tâm ta” hay “Sân là lậu hoặc
ta không chấp nhận ngươi, ngươi hãy lìa khỏi nơi đây”. Đây
là những câu chọn lựa đúng đặc tƣớng mỗi hành giả mà pháp Thất Giác Chi gọi là Trạch Pháp Giác Chi dùng tri kiến nhƣ lý tác ý để diệt trừ các lậu hoặc.
Chúng ta đọc lại đoạn
kinh
dƣới đây sẽ thấy Đức Phật đã dạy
rất
rõ ràng và cụ thể về cách thức dùng
tri kiến
tác ý:
“Này các Tỳ Kheo, thế nào là lậu hoặc do tri kiến được đoạn trừ?
“Này
các
Tỳ Kheo, ở đây có kẻ phàm phu ít nghe, không được
thấy các bậc Thánh, không được
thuần thục
pháp
các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc
Thánh, không được thấy các bậc Chân nhơn, không
tu tập pháp các bậc Chân
nhơn, không được
thuần thục
pháp
các bậc Chân nhơn,
không tuệ tri các pháp cần phải tác ý, không tuệ tri các
pháp
không cần phải tác ý; vị này không tuệ tri các pháp
cần phải tác ý, vì không tuệ tri các pháp không cần phải tác ý nên tác ý các pháp không cần phải tác ý và không tác ý các pháp
cần
phải tác ý”.
“Này
các Tỳ Kheo, và thế nào là các pháp không cần phải
tác ý mà vị ấy tác ý?”
“Này
các Tỳ Kheo, nghĩa là các
pháp
do vị ấy tác ý mà dục lậu chưa sanh được
sanh
khởi, hay dục lậu đã sanh được tăng trưởng; hay hữu lậu chưa sanh được sanh khởi, hay
hữu
lậu đã sanh được tăng trưởng, hay vô
minh lậu chưa sanh được
sanh
khởi, hay vô minh lậu đã sanh
được tăng trưởng. Những
pháp ấy là những pháp
không
cần phải
tác
ý mà vị ấy tác ý”.
“Này các Tỳ Kheo, và thế nào là các pháp cần phải tác ý
mà vị
ấy không tác ý?”
“Này
các Tỳ Kheo, nghĩa là các pháp do vị ấy
tác ý mà dục
lậu chưa sanh không sanh khởi, hay
dục lậu đã sanh được trừ diệt; hay
hữu
lậu chưa sanh không sanh khởi, hay
hữu lậu đã sanh được trừ diệt,
hay vô minh lậu chưa sanh
không sanh khởi, hay vô minh lậu đã
sanh
được trừ diệt. Những pháp ấy là những pháp cần phải tác ý mà vị ấy không tác ý...
Này các Tỳ Kheo, các pháp ấy được gọi là các
lậu hoặc phải do tri
kiến được đoạn trừ”.
Đọc đoạn kinh trên đây,
ch ắc cá c b ạn
sẽ
rú t
ra đ ƣợc
một
p h áp môn
tu
tập
d iệt lậu h oặc
b ằn g
tr i k iến
tác ý rất
thực
tế và cụ
th ể.
Phải không các bạn?
Chúng tôi xin trích ra đoạn kinh này để các
bạn
tự nhận biết
thiền đ ịnh củ a Phật là một
loại
thiền xả tâ m ch ứ
k h ôn g
p h ải
loại thiền ức
ch ế
tâ m nhƣ các Tổ đã hiểu lầm, rồi kiến giải sai lệch ý Phật, khiến cho con đƣờng
Phật
Giáo
mất dấu. Và hiện nay các Tổ đã để lại một rừng kinh
sách Đại Thừa và Thiền Tông dẫn dắt tín đồ Phật Giáo
vào mê hồn trận của
thiền định tƣởng. Hèn chi, càng tu thì
danh lợi càng nhiều. Danh lợi
càng
nhiều thì chùa to Phật lớn càng phát triển và bản ngã càng to. Bản
ngã
càng to nên thƣờng tranh luận hơn thua, chống
trái nhau, v.v...
Thật là buồn cƣời, họ chỉ biết lý luận để dìm Phật Giáo chân chánh, nhƣng không ngờ lại vạch lƣng cho ngƣời khác xem vết
sẹo
của mình mà
không
biết
xấu hổ.
Chúng ta cũng nên cảm thông với họ, vì Phật Giáo truyền thừa
qua nhiều vị Tổ và đi qua nhiều
nƣớc trên hành tinh
này
thì chắc chắn phải có sự sai lệch. Có sự sai lệch thì chúng ta
ph ải cùn g nh au
ch u n g
lƣn g
đ âu cật
để ch ỉn h
đ ốn
sửa
lại
làm ch o n h ữn g
g ì củ a Ph ật Giáo
đ ã b ị
né m
b ỏ đ ƣợc
d ựn g lại ch o đ ú n g
đ ắn và tốt đ ẹp h ơn . Những gì sai làm
ảnh
hƣởng xấu đến tinh thần của tín đồ, thì những ngƣời chịu trách nhiệm chính là quý Tăng Ni và quý Cƣ sĩ. Các bạn hãy
dẹp bỏ cái gánh nặng
của tƣ tƣởng cho rằng cái gì
của
các
Tổ cũng đều đúng
hết.
Nguy hại nhất là các vị Tổ có chút ít tu tập, có khả năng viết và biên soạn những kinh sách để truyền thừa, nhƣng vì sự tu tập chƣa đến nơi đến chốn, chỉ sống bằng tƣởng
giải thì sự truyền thừa này dễ làm lệch con đƣờng Phật
Giáo. Các bạn thấy có đúng không? Chún g
ta
rất k ín h
trọn g
thƣơn g mến
cá c
T
ổ, n h ƣn g
k h ôn g ph ải vì
vậy
mà
n h ữn g đ iều
các T ổ làm sai lệnh Ph ật Giáo
mà ch ú n g ta
p h ải
n gh e th eo
.
Do hiểu đƣợc tâm lý ngƣời sau, nên trƣớc khi Đức Phật
nhập
Niết Bàn, Ngài di chúc lại cho các đệ tử sau này: “Hãy lấy giới luật và giáo
pháp Ta làm
Thầy, làm chỗ nương tựa vững chắc... Giới luật còn là Phật pháp còn, Giới
luật
mất là Phật pháp mất”.
Bởi thế, khi thấy Tăng Ni và Cƣ sĩ sống phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới thì dù họ tu
pháp tối thƣợng nào, chúng ta cũng biết ngay là họ đang
tu pháp môn của tà đạo. Phải không
các
bạn?
Thƣa các bạn! Phật Giáo sai lệch, Phật Giáo đen tối là tín đồ Phật Giáo phải chịu thiệt thòi, phải chịu nhiều cay đắng, phí công sức, phí của cải vô ích. Có đúng nhƣ vậy
không các bạn? Vậy, chúng ta là những Tu sĩ và Cƣ sĩ Phật Giáo biết rất rõ những sự sai trái này mà nỡ nhẫn
tâm
nhìn tín đồ Phật Giáo
tu hành lạc vào pháp mê tín,
lạc hậu và sống trong những ảo tƣởng, tƣởng giải, trừu tƣợng mơ hồ của thế giới siêu hình, của Phật tánh ảo tƣởng mà
chúng
ta đành lòng làm ngơ sao các bạn?
- Phƣơng cách thứ hai, để tu tập tâm vô lậu bằng pháp Nhƣ Lý
Tác ý, Đức Phật đã dạy: “Có
những lậu hoặc phải
do phòng hộ được đoạn
trừ”. Nhƣ vậy pháp thứ hai là phải dùng tác ý “phòng hộ” để diệt trừ lậu hoặc. Vậy phòng hộ
nghĩa
là gì?
Phòng hộ nghĩa
là giữ gìn bảo hộ sáu căn: mắt, tai, mũi,
miệng, thân, ý. Vậy bảo hộ sáu căn nhƣ thế nào?
Khi bƣớc ra khỏi thất thì nên nhƣ lý tác ý “Mắt phải nhìn xuống bước đi, không được nhìn qua nhìn lại, liếc
dọc liếc ngang” hoặc
“Tai phải lắng nghe bước đi,
không được nghe âm thanh bên ngoài”. Đó
là dùng pháp nhƣ lý tác ý để phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Chúng ta hãy
lắng nghe lời Phật dạy:
“Này các Tỳ Kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do phòng
hộ được đoạn trừ?
Ở đây, có Tỳ Kheo như
lý giác sát, sống phòng hộ với sự
phòng
hộ con mắt.
Này các Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo ấy sống không phòng
hộ với sự phòng hộ con mắt, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não có
thể khởi lên. Nếu sống
phòng hộ với sự phòng hộ con mắt,
các
lậu hoặc tàn hại
và nhiệt
não ấy không
còn
nữa.
Tai, mũi, miệng, thân, ý đều phải phòng hộ như vậy. Này
các
Tỳ Kheo, các pháp
ấy được gọi là các lậu hoặc phải do phòng hộ
được
đoạn trừ”.
Chúng tôi xin nhắc lại các bạn: Pháp phòng
hộ sáu căn
nhƣ ở
trên đây là pháp phòng hộ nhƣ lý tác ý. Nhƣng muốn phòng hộ sáu căn mà không giữ hạnh độc
cƣ thì
chúng tôi tin rằng các bạn khó mà phòng hộ sáu căn đƣợc,
dù bạn rất chuyên
cần tu tập pháp nhƣ lý tác ý, mà cứ
buông lung phóng dật nói chuyện, thì chất lƣợng tu tập sẽ
không đạt đƣợc hay chỉ là
dậm
chân tại chỗ
mà thôi.
- Phƣơng cách thứ ba, tu tập tâm vô lậu bằng pháp Nhƣ Lý
Tác ý Đức Phật đã dạy: “Có
những lậu hoặc phải do
thọ
dụng được đoạn trừ.” Nhƣ
vậy pháp thứ ba là phải
dùng
tác ý “thọ dụng”
để diệt trừ lậu hoặc. Vậy thọ dụng nghĩa là
gì?
Thọ dụng là chấp nhận những vật dụng cần thiết vừa đủ
để giữ gìn cơ thể không đói khổ, rét lạnh,
muỗi mòng, nắng, gió, mƣa, bão, che đậy kín đáo không đƣợc trần
truồng, v.v...
Ví dụ 1: Một ngƣời ngồi thiền bị muỗi mòng cắn đốt mà cứ cố gắng ngồi chịu đau, ngứa rất
là khổ sở, nhƣng lại tác ý theo kiểu tà tƣ duy: “Ta đang ngồi thiền bị muỗi mòng cắn là để trả nhân quả
đời trước, cố gắng giữ tâm bất động mặc cho muỗi mòng cắn”. Còn nếu ngƣời ấy tác ý theo kiểu chánh tƣ duy: “Ta ngồi thiền bị muỗi mòng cắn, ta
nên thọ
dụng
màn che,
để diệt trừ lậu hoặc do
muỗi mòng tạo ra”.
Ví
dụ
2: Khi ta bị bệnh,
sức tu tập làm chủ bệnh chƣa trọn vẹn, có nghĩa là câu hƣớng tâm nhƣ lý tác ý: “An tịnh thân
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!