TẠI SAO NGƯỜI
CHẾT PHẢI ĐẬY MẶT?
Hỏi:
Kính thưa Thầy, trong lúc nhà có người
chết, tại sao lại phải phủ mặt? Theo con nghĩ, khi người chết,
có người mặt trắng, có người mặt xám,
có người mặt
vàng khè, như
thế, tướng trạng của gương mặt
thay đổi theo nhân quả của từng người, phải
không thưa Thầy?
Cho nên, phải đậy mặt lại, để cho người
sống đỡ sợ
hãi, phải không thưa Thầy?
Đáp: Theo phong
tục của dân tộc Việt
Nam, khi có người chết,
đều có tục lệ đậy mặt. Nhưng sách
Phong Tục Tập
Quán Việt Nam,
do Toan Ánh biên
soạn, cũng không
nói đến tục lệ đậy mặt người chết.
Trong kinh sách Phật giáo cũng không có dạy điều này, nhưng
có dạy về cận tử nghiệp
(nghiệp lực trước khi chết). Khi một người vừa tắt thở, các duyên trong thân
ngũ uẩn chưa phân tán (tức là chưa hoại diệt), lúc bấy giờ họ đang trải qua một
giấc mộng. Giấc mộng đó báo cho biết đây là nghiệp cuối
cùng của họ
trong kiếp này
chuyển sang kiếp mới. Giấc mộng đó cũng thể hiện một nghiệp lực,
do huân tập nhân quả trải
dài thời gian của một kiếp
con người. Chính nghiệp
lực nầy đưa người ấy tiếp tục
tái sanh kiếp mới của
con người, khi giấc mộng này vừa tan biến.
Giấc mộng
này vừa tan thì thân tứ đại cũng vừa dừng hẳn, nghĩa là thân tứ đại này không
còn phục hồi lại được nữa.
Trong thời
gian nằm mộng,
thì gương mặt người chết biểu lộ qua màu sắc, hoặc những
nếp nhăn, cau có, hung dữ
hoặc hân hoan, vui
mừng, hiền lành, v.v... Đúng như con đã nghĩ, người chết có khi mặt
trắng bạch, có khi
vàng khè
hoặc có khi xám xịt,
v.v... rồi trở lại bình
thường giống như người đang ngủ.
Không phải
chỉ có sự thay đổi màu sắc và nếp nhăn, mà còn nhiều tướng trạng hiện trên
gương mặt, ghê sợ
như trợn trừng
mắt, há hốc miệng,
mím chặt
môi, cắn răng,
như giận dữ, hoặc le lưỡi, hoặc nói lập bập trong miệng, có khi
cười, có khi khóc, có khi gương mặt
biểu lộ ra sự
sợ hãi, cũng có khi gương mặt biểu
lộ ra sự hân hoan, vui mừng, và cuối cùng giấc mộng cận tử nghiệp tan biến, thì gương mặt
kia trở lại bình
thường như người đang ngủ. Nên tục
lệ đậy mặt người chết có lẽ để cho người sống đỡ sợ.
Vậy, xin những bậc
trí giả, các bậc
Trưởng Lão cao niên, hiểu và biết rõ phong tục tập quán này xin mách dùm,
chớ trong giáo
lý của đạo Phật không có dạy điều này. Chúng tôi
xin thành thật cảm ơn trước.
TẠI SAO PHẢI
TRÓI BUỘC TAY CHÂN NGƯỜI CHẾT
Hỏi: Kính
thưa Thầy, tại sao người
chết phải buộc tay chân vào hai bả
vai?
Đáp: Theo
phong tục tậïp
quán của dân tộc
Việt Nam, có rất nhiều truyền thống mê tín, dị đoan, kỳ lạ theo từng vùng địa
phương. Đây cũng là một phong tục tậïp quán ở miền Bắc, cũng như ở miền
Nam, khi nhà có người chết
thì người ta nhốt mèo lại hết.
Những ông bà
xưa dạy: khi trong
nhà có người
chết, không cột
tay chân vào bả vai thì sẽ bị quỉ “nhập tràng”. Quỉ nhập
tràng tức là những linh hồn người chết oan ức (chết bất đắc dĩ),
chết tức tối,
chết không kịp trối
trăn gì cả, những
linh hồn người này
không đi đầu
thai được, sống vất vưởng theo
đình, theo miếu,
theo cây cao, bóng mát, thấy người nào hạp với họ, thì bắt bịnh đau; thấy
người nào chết, mà hơ hỏng không chịu cột tay chân, thì nhập vào, khiến cho thây ma bật dậy
chạy điên khùng,
đụng vào người nào
thì người đó cũng
chết theo, khi đụng như
vậy, dù vào
người hay cây cối thì thây
ma cũng bật té chết trở lại. Do đó, người ta sợ trường hợp này xảy ra,
nên mới cột tay chân vào bả vai để
tránh trước tai họa
cho gia đình
và những người khác.
Trong miền
Nam, khi nhà có người chết, người ta không cột tay chân người chết lại, mà lại
nhốt mèo, vì trong những con mèo sẽ có con mèo gọi là “linh miêu”. Nếu
con mèo này nhảy
ngang qua thây người chết, thì
thây ma đứng dậy chạy và đụng ai thì người ấy chết, cho nên
có người chết trong
nhà đều nhốt
mèo lại hết.
Bây giờ không còn tục lệ đó nữa.
Trong kinh
sách Nguyên Thủy của Phật giáo không có dạy những điều này, thường dạy làm những
điều thiện, tránh xa những điều ác, và đập phá
những điều mê
tín, dị đoan, nhất là
xóa bỏ thế giới tưởng siêu hình,
hoàn toàn không chấp nhận. Cho nên, những
gì mê tín, dị đoan do các phong tục truyền thống của dân
gian có tính cách mơ hồ, trừu
tượng, không thực tế thì đức
Phật nhẹ nhàng uốn nắn.
Chúng ta là
đệ tử của đức Phật, ta phải nương theo
trí tuệ Phật, quán
chiếu cái gì đúng,
cái gì sai để lần lượt dẹp bỏ,
cho cuộc sống bớt rườm rà và phiền toái,
vì những tục lệ không lợi ích thiết thực.
Nếu chúng ta chấp nhận
thì chúng ta càng vô minh hơn và càng lạc hậu hơn.
Nếu cuộc đời còn chấp nhận
những điều mê tín,
lạc hậu, còn
mang đầy ắp
những truyền thống của tổ tiên
mơ hồ, trừu tượng, có tính cách vô
lý, mà không
chịu dứt bỏ, vẫn cứ
mang cõng trên vai,
trên cổ mãi,
không chịu bỏ xuống, thì quả
là người đó
quá u mê, vô
minh và lạc hậu,
không tiến bộ theo kịp
thời đại
khoa học đang hiện đại hóa cuộc sống loài người.
THẦY TỤNG
Hỏi: Kính
thưa Thầy, các cư sĩ
tại gia ngày nay học hỏi kinh sách Đại thừa dạy về
táng tụng, cúng bái làm Bồ Tát hạnh. Các vị ấy tự xem mình
tài giỏi hơn ai hết, hơn cả các Thầy ở trong chùa nữa. Thưa Thầy, như vậy
có đúng không?
Đáp: Đại thừa
chế ra Bồ Tát giới để cho hàng cư sĩ thọ giới
Bồ Tát làm việc từ thiện, giúp mọi người cúng bái, tế lễ. Đó là một
hình thức của Bà La Môn giáo. Bà La Môn
giáo chia người Bà La Môn làm ba giai đoạn:
1- Bà La
Môn giáo còn nhỏ thì phải
học tập thông suốt
kinh điển cúng bái, tế lễ,
đây là giai đoạn học tập.
2- Bà
La Môn giáo
trung niên chuyên
cúng bái, tế lễ, sống ăn mặc như
người thế tục giống
như cư sĩ bây giờ, gọi
là Phạm Chí.
Đây là giai đoạn làm từ thiện (Bồ tát hạnh).
3- Bà La
Môn giáo tuổi
già, bỏ nhà cửa, gia đình
thân quyến, xuất gia đi tu nhưng
đầu không có cạo. Đây là giai đoạn tu hành của Bà La Môn giáo.
Người cư sĩ
tụng niệm, cúng tế, làm Bồ Tát hạnh
là Bà La
Môn tụng niệm.
Cho nên hình thức tổ chức của Đại thừa là của Bà La
Môn giáo. Người cư sĩ hành nghề cúng tế tụng niệm là một Bà
La Môn. Họ
không phải là một người
tu, mà là một người bình thường
như thế tục, chỉ hơn người khác là có đọc kinh sách Vệ Đà và các nghi thức cúng tế. Thọ giới Bồ
Tát rồi tự
xưng mình là Bồ Tát
(giới Bồ Tát
cũng tự họ đặt
ra), nên bản chất
ngã mạn tự
kiêu của họ rất lớn. Những người này ta không nên
trách, vì họ là cư sĩ
Bà La Môn chứ
không phải cư sĩ
đạo Phật. Đáng trách
là trách quý vị Tỳ
kheo đầu cạo, mặc pháp y mà đi
làm chuyện mê tín gạt người khác, chớ
còn các vị cư sĩ
Bà La Môn này họ hành nghề của họ, ta không nên trách họ
làm gì.
SỐNG CHẲNG
CHO ĂN, CHẾT LÀM VĂN TẾ RUỒI
Hỏi:
Kính thưa Thầy, lúc cha mẹ còn sống
không phụng dưỡng, đến khi cha mẹ chết làm ma chay thật to để
lấy tiếng ở đời thì có
nghĩa lý gì phải không, thưa Thầy?
Đáp: Lúc
cha mẹ còn sống phải
lo phụng dưỡng để đền đáp ơn sinh
thành, dưỡng dục. Lúc cha mẹ chết chỉ làm ma chay đơn giản, giữ gìn sự im lặng
trong những ngày mất mẹ mất cha, nhớ đến
công lao mẹ cha lo làm
lụng vất vả nuôi con lớn khôn, nên người hữu dụng cho xã
hội, công ơn ấy rất lớn không thể lấy gì sánh được.
Cha mẹ chết
mà làm ma chay linh đình là báo hiếu
hình thức, làm
như thế là để che mắt
thế gian. đạo Phật dạy chúng ta làm những điều chân thật, sống thích trầm
lặng đơn giản (thiểu dục tri túc), chết thì
an táng đơn
giản rồi đem đốt,
không cần quan
quách sang trọng,
không cần nhạc lễ, cúng bái, tụng
niệïm, chỉ cần giữ vệ sinh chung, đừng để ô nhiễm môi trường sống. Vì thân tứ đại
do đất, nước, gió, lửa hợp thành, chết thì đất, nước, gió, lửa trở về đất, nước,
gió, lửa.
Đức Phật
nhìn thân tứ đại là một pháp vô thường, bất tịnh, không có gì đáng quý và lưu
giữ, nên khi chết đem đốt
bỏ. Nên Phật
và các đệ tử
của Ngài khi chết đem thiêu đốt bỏ. Trong khi ấy, các nhà Phật giáo Đại thừa
Tây Tạng, Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, khi chết tìm
mọi cách để lại nhục thân.
Có lần về
thăm miền Bắc, chúng tôi có đến thăm nhục thân của Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường,
đó là hai bộ xác khô. Phật giáo Tây Tạng muốn giữ xác thân phải bỏ ruột gan rồi
ướp xác chết bằng thuốc. Trung Quốc
và Việt Nam thì lại
ướp xác bằng chất
thuốc đặc biệt bởi không
có nước.
Gần đây,
Trung Quốc và Việt Nam
khai quật một nhà mồ và
đã nhận được rất nhiều
nhục thân toàn là
cung nữ, quan chức, vua chúa,
như trong báo Nguyệt
san Giác Ngộ số 35,
“Di ấn Phật giáo trong nền văn
hóa mộ táng cổ ở Nhật”.
Năm 1963 -
1965, vô tình các nhà khảo cổ đã khai quật được
xác ướp của
vua Lê Dụ Tông từ
thời Lê
Trịnh, xác còn nguyên
như vua còn đang an tịnh giấc nồng.
Huyện Đông
Anh ngoại thành Hà Nội ở nhà máy thuốc lá vô tình đào được hai cái xác của hai
vũ nữ đời nhà Lê.
Xác ướp của
bà Phan Thị Nguyên Châu, vợ Thượng Thư trụ quốc Đặng Đình Tướng thời Lê Trịnh ở
Phủ Lý, Hà Nam vào năm 1968.
Tại Xóm Củi quận 8
thành phố Hồ
Chí Minh đã khai quật lăng mộ Bà
Nguyễn Thị: “...thi thể còn nguyên vẹn, thậm chí còn rất đẹp, cơ bắp còn co duỗi được.
Nhiều lít nước được
các nhà y học truyền vào cơ thể bà vẫn dẫn hết dưới
da thịt, tưởng như bà đang ở bịnh viện”.
Gần đây, như
xác ướp Bác Hồ vẫn giữ nguyên vẹn như nằm
ngủ. Chúng tôi
đi đến đám
tang vị bí thư tỉnh Tây
Ninh, xác được tẩm liệm trong một
quan tài bằng kính từ khi chết đến giờ phút đi an táng, xác vẫn như người ngủ không
thấy hôi thối sình trương,
chảy nước vàng
như các đám tang của dân sự.
Qua những nhục
thân của quan,
vua và các thiền
sư để lại, thì chúng
tôi có một
xác định rõ ràng.
Nếu một vị thiền
sư muốn giữ xác
thân của mình mà
không cần phải ướp thuốc,
thì thiền sư ấy phải nhập Diệt Thọ
Tưởng Định. Từ trường của Diệt Thọ Tưởng Định bảo vệ thân xác không có một vật gì
xâm thực
phá hoại cơ thể
được, nên xương
cốt và da thịt luôn luôn
tươi như người
còn đang sống
(chứ không phải bộ xương khô).
Báo chí có
đăng tin bên Đài Loan người ta đã khai
quật mộ của một vị sư
được an
táng trong một cái lọ và cơ thể còn nguyên vẹn, không phải là bộ
xương khô như nhục thân của Vũ Khắc
Minh và Vũ Khắc Trường.
Qua báo chí,
tin tức, đài, chúng
tôi có nhận được nhiều tin tức về nhục thân. Đến khi
xem các bộ nhục thân này chúng tôi chẳng thấy có từ trường thiền
định nào xung quanh nhục thân ấy. Do đó, chúng tôi xác định những nhục thân
này được để lại
có nhiều cách ướp xác,
hoặc để khô giữ
không nước, gió
xâm thực thì cơ thể
vẫn còn nguyên vẹn.
Tóm lại, đạo Phật
nhìn cơ thể con người
là một hợp duyên
không có thật,
bất tịnh và uế
trược, nên chết
là thiêu đốt
không có giữ lại,
không coi nó là một vật quý. Vì thế, khi đức Phật và các đệ tử của Ngài tịch đều
thiêu đốt, không có vị nào để lại nhục
thân. Huyền thoại
ngài Ca
Diếp ôm y
bát vào núi Kê Túc nhập Diệt Thọ Tưởng Định để chờ đức Phật Di Lặc ra đời trao
y bát cho. Đó là một câu chuyện bịa đặt của các Tổ sau này. Đức Phật nhìn
các pháp trong
thế gian này là vô thường, nên
Ngài đâu có cần gì mà trao y bát, chỉ có di chúc: “Nên lấy giới luật và giáo
pháp làm Thầy mà tu hành”.
Đời người khổ
là vì luôn chấp mọi thứ: chấp thân, chấp tâm, chấp pháp để mà chịu khổ với sự lầm chấp
đó. “Sống chẳng
cho ăn, chết làm
văn tế ruồi”.
Từ những sự
việc đó, Phật giáo Đại thừa triển khai
phần lấy vải
thưa che mắt,
cho nên có những
bài táng tụng
ma chay như
ngày nay chúng ta đã thấy. Sự lừa
đảo này chỉ gạt những người vô minh, chớ những người đã am hiểu Phật giáo chân
chánh thì không gạt được. Hầu hết lối tụng
niệm ma chay của Đại thừa đều
là lối lừa đảo, che mắt thế gian, chớ chẳng có ích lợi
gì, mà còn làm cho người
sống hao tổn tiền của và vất
vả trong những ma chay cúng tế.
Cầu mà chẳng
có thì lấy cái gì mà siêu? Thấu rõ được
như vậy, mới thấy Phật giáo Đại thừa là một
giáo pháp vay mượn của mọi tôn
giáo và phong tục
con người, để thỏa
mãn sự ngu si
của con người đang sống trong
thế giới tưởng
siêu hình.
CHẾT LÀ SỰ NỐI
TIẾP CỦA LUẬT NHÂN QUẢ
Hỏi: Kính
thưa Thầy, bên
kia cõi chết,
tử thần đã cướp đi người bạn đời
của con, hiện nay đời sống bỗng
trở thành vô vị, cuộc đời đầy tẻ
nhạt, chán chường,
hạnh phúc đã mất đi không bao giờ trở lại. Người ấy đã đi xa
đi mất, số phận duyên nợ chỉ
có thế thôi.
Nhưng có lúc
con cầu mong cho họ được bình an,
nhưng con lại thấy có cái gì không ổn đối
với họ.
Thân tứ đại
này có phải là đất, nước, gió, lửa hợp lại rồi tan đi, đó là số phận phải không
thưa Thầy? Xin Thầy chỉ cho con biết!
Đáp: Không
có sự sống
sau khi chết, mà chỉ có sự nối tiếp của luật nhân quả. Với trí hữu hạn của con người
không thể hiểu
thấu được sự tiếp
nối của định luật nhân quả luân hồi, nên thấy có sanh và có tử. Sự thực sanh tử
là một diễn
biến của luật nhân quả, xác định sự vô thường của các pháp trong thế
gian này.
Các pháp
trong thế gian này đều chịu luật vô thường, sanh diệt của nhân quả. Vì thế
không có pháp nào trong thế gian này ra khỏi sự chi phối của luật
nhân quả, nên
các pháp thường
sanh diệt theo chu kỳ
tuần tự của định luật
và mỗi pháp phải chịu sự biến dịch.
Người bạn đời
của con gặp nhau trong duyên nhân quả để trả vay, vay trả. Khi vay
trả xong thì phải theo định luật
nhân quả tiếp tục
trả vay sự việc khác. Con không thấu hiểu điều đó, nên tạo thêm
nhân quả thương
nhớ rằng rịt và trói buộc, không phải trói buộc với
nhân quả của người đã mất, mà
trói buộc với
nhân quả tương ưng.
Lòng thương
nhớ của con sẽ gặp
nhân quả tương ứng với lòng
thương nhớ đó để mà trả vay, vay trả. Còn
nhân quả kia (người
bạn đời của con), đã trả vay xong thì không còn tương
ưng với con nữa.
Cho nên, con
quá vô minh và điên đảo, đã thương nhớ một nhân
quả để rồi phải gặt lấy một nhân quả khác đang trói buộc (kiết sử), để kiếp sống đời đời chẳng bao giờ
thoát ra khỏi biển
khổ sanh tử
luân hồi. Con muốn tu hành
giải thoát thì hãy
đoạn dứt sợi dây kiết sử này.
Sợi dây kiết sử này
là con đường tiếp tục
sanh tử luân hồi đầy đau khổ mãi mãi.
Tình cảm của con người là một sợi dây rất khó bứt,
nếu không thấu suốt được luật nhân quả thì không bao giờ đoạn sạch được “ái kiết
sử”. Người tu theo đạo Phật thấy
ái kiết sử như
là một
con rắn độc, nó từng đem đến
nọc độc khổ
đau cho loài người. Con là một con người
đang bị nọc độc của ái kiết sử.
Một người
vợ khóc chồng,
một người chồng
một người
con thương mẹ là ái kiết sử. Nói chung, tất cả các tình cảm thương yêu nhau là
ái kiết sử. Người nào đã
bi lụy vì
tình cảm yêu thương
ấy, trong đạo Phật gọi là đã bị nọc độc rắn nhân quả cắn. Kẻ nào đoạn dứt
được nọc độc này là kẻ đó làm chủ rắn độc nhân quả. Nếu không làm chủ được nhân
quả thì đời đời kiếp kiếp
ta sẽ bị nọc
độc rắn nhân quả làm cho ta sống trong cảnh khổ đau triền miên, bất tận.
Con cần phải thấu
suốt luật nhân
quả để không còn buồn khổ vô ích.
Trong luật nhân quả, khi một người
mất đi thì chỉ
còn nghiệp lực của
nhân quả tiếp tục tái sanh luân hồi, và người bạn đời của
con đâu còn cái gì
gọi là
người bạn của con. Thế
nên, sự thương
nhớ của con chỉ
là nhớ lại một hình bóng ảo tưởng của con mà thôi.
Cũng như hiện
giờ, trong kiếp sống này con có bao giờ nghĩ đến thương người bạn đời trong kiếp
quá khứ của mình chăng? Chắc điều đó
không bao giờ có phải
không con, cũng như
người bạn đời của
con đã chết, thì trong
kiếp khác họ
đâu có còn nhân quả để
mà nhớ đến
con nữa. Trong họ chỉ
biết kiếp hiện tại của họ mà
thôi. Cũng như con bây
giờ cũng vậy, chỉ có vô minh
điên dại đi khóc nhân quả.
Nhân quả
có nghĩa lý
gì đâu, nó
là những hành động của con rắn độc ái kiết sử, nó
đã làm khổ loài người
trên hành tinh này,
khiến cho nước mắt của con người
còn nhiều hơn nước biển.
Trên hành
tinh này, duy nhất chỉ có đạo Phật mới dạy con người về lý nhân quả, không có một
giáo phái nào mà dạy chúng ta làm chủ như vậy được. Con đủ phước duyên tu tập,
hãy dứt sạch ái kiết sử đó đi, đừng thương vay khóc mướn nhân quả, chẳng
có ích gì mà
tự con đã làm khổ lấy mình.
TRIỆU LINH,
TIẾP LINH
Hỏi:
Kính thưa Thầy, lúc lâm chung, theo
chúng con nghĩ vong linh vẫn còn trong nhà, khi mời Thầy cúng đến làm lễ phải
triệu vong, tiếp vong rồi mới tụng kinh. Như vậy có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Theo đạo
Phật, khi một người
chết, tức là thân tứ đại tan rã,
mà thân tứ đại tan rã thì thân ngũ uẩn không còn sót một thứ gì, nghĩa là tất cả đều hoại
diệt sạch, không
có vong linh và thần thức
nào còn, chỉ
còn lại “nghiệp
lực” của các hành động thiện,
ác, và nghiệp
lực tiếp tục tái sanh luân hồi.
Cho nên, đối
với đạo Phật, không có triệu linh và tiếp linh, vì có
linh đâu mà triệu
và tiếp. Cái không
có người ta tưởng ra cho
có, thì đó là mù
quáng, vô minh.
Người phật tử
không nên nghe theo lời dạy vô minh này.
Tất cả thế giới hữu hình
có con người và vạn
vật cỏ cây, đất đá, núi sông, dưới đôi mắt của đức Phật chỉ
là những hình ảnh huyễn
giả, những cảnh tưởng
tri không có thật,
thì cái thế giới
vô hình làm sao có
thật được mà cầu, mà
cúng, mà triệu linh, tiếp linh.
Nếu thế
gian này có thật thì phải
có một vật hằng còn. Nhưng dòng lịch sử của loài người chưa chứng minh
có một vật gì
hằng còn, tất cả đều hoại diệt theo thời gian.
LINH HỒN BÁO
MỘNG
Hỏi: Kính
thưa Thầy, trong thời gian từ lúc mới
chết đến bốn
mươi chín ngày,
người trong nhà thường
hay nằm mộng
thấy người chết về.
Vậy có phải linh hồn người chết về báo mộng hay không?
Đáp: Trong
nhà có người mới chết, không những 49 ngày mà còn nói rằng có thể đến khi mãn
tang 2 năm, vẫn còn nằm mộng thấy người chết.
Đó không phải
linh hồn về báo mộng, mà chính
tưởng ấm của người thân trong gia đình,
vì tình cảm thương nhớ người
mất, nên tưởng ấm xuất hiện giấc mộng để gặp người
thân, chớ không có linh hồn nào cả.
Giấc mộng do
tưởng thức hoạt động mà thành, nó thể hiện
tình cảm tâm lý
và sự ước ao
của người sống đối với người chết. Người thân thương nhớ người quá cố thì nằm
mơ thấy người chết về.
Ước muốn thì
sẽ nằm mộng, thấy thành tựu điều ao ước như trúng
vé số, hoặc
giao cảm nằm mộng thấy sự việc
hay tai nạn xảy đến, đều có đúng như thật, đó là tưởng giao cảm biến thành mộng
báo trước (trực giác qua mộng). Còn các loại trực giác
khác như trực giác
qua thân (máy mắt, hồi hộp, tim đập), trực giác qua tâm
(tâm lo lắng, nghĩ ngợi).
Nói về mộng thì quý
phật tử đừng
nghĩ rằng có linh hồn
người chết, mà
hãy biết đó
là tưởng thức tự tạo ra bối cảnh
theo tâm lý tình cảm của con người rồi nó tự hiện, chủ khách đều là nó cả.
Trong thân
ngũ uẩn nó
là tưởng uẩn,
còn gọi về thức
thì nó gọi là tưởng thức,
còn gọi về dục
thì nó gọi là tưởng dục, còn gọi về vô minh thì nó được gọi là vô minh tưởng,
và gọi về trí tuệ thì nó gọi là tưởng tuệ, còn gọi về tri kiến thì nó gọi là tưởng
kiến, còn gọi về tri thì nó gọi là tưởng tri.
TẠO ĐIỀU THIỆN
GIÚP NGƯỜI CHẾT
Hỏi: Kính
thưa Thầy, khi trong nhà
có người chết, mọi người đều làm
điều thiện cố hồi hướng cho người chết để được siêu
thoát. Thưa Thầy, như vậy người chết có được siêu thoát
không?
Đáp: Theo
luật nhân quả
ai làm thiện
sẽ hưởng được phước, chớ không thể người khác làm thiện mà
mình được hưởng
phước. Được phước như
vậy là không
công bằng, vì
công bằng thì phải tự người nào làm điều thiện thì người
đó hưởng, nên đức Phật dạy:
“Các con tự thắp
đuốc lên mà đi, ta không đi thay cho các con được”.
Lời dạy như
vậy tức là đứng trên đạo lý công bằng, mọi người muốn thoát khổ thì phải tự
mình làm điều thiện, chớ không ai làm điều thiện giúp mình được.
Như các phật tử đã biết, vì làm
điều ác mà tâm
mình phải khổ,
còn người khác
làm điều thiện mà tâm mình hết khổ
sao được. Chỉ có tự mình làm điều thiện
thì tâm mình mới hết
khổ.
Cho nên, có
làm điều thiện để hồi hướng cho người chết thì người
chết vẫn thọ khổ mà người
sống làm điều thiện thì người sống hưởng, còn người chết thì không hưởng gì cả.
Đức Phật dạy, trên
con đường giải thoát ấy
phải độc
lộ, độc trình, không
ai đi thế cho ai được.
Cũng như cha mẹ
đau, đứa con có thương cha mẹ cách gì cũng không đau thế cho
cha mẹ được. Ngược lại, cha mẹ cũng vậy, dù thương con cách mấy
cũng không thay
thế sự đau khổ
của con được. Đó là định luật
công bằng của
nhân quả, mà không
ai có thể
chuyển hóa nghiệp
của kẻ khác được.
CHIẾC ÁO
KHÔNG CHE ĐƯỢC MẮT THÁNH
Hỏi: Kính
thưa Thầy, lúc sống
không tu tập trau dồi thiện
pháp, không sửa
tâm tánh những thói
hư tật xấu. Sống không
nhìn đời bằng
đôi mắt nhân quả,
luôn luôn tạo khổ cho mình
và cho người khác. Đến khi chết, mặc “áo lục thù, áo hải hội” có tác dụng
gì không?
Đáp: Kinh sách
Đại thừa thường soạn viết ra những điều phi đạo đức, sống làm điều ác,
gian tham, tật đố, háo danh, tham của cải, tài sản, đủ mọi mánh
khóe, thủ đoạn,
giết người, cướp của,
hại mạng chúng
sanh, chẳng chút
lòng lành, chẳng biết
thương xót ai hết, chỉ biết có mình
là trên hết. Đến
khi chết chỉ cần mặc áo lục thù
hoặc áo hải hội,
đi xuống Diêm
Đình không ai bắt
tội, vì Quỷ Sứ, Ngưu Đầu, Mã Diện, Ngục Tốt...
đều biết đó
là đệ tử của đức Phật, nên vị
tình tha thứ.
Đó là một hình
thức trong muôn
ngàn hình thức lừa đảo, lường
gạt tín đồ của
kinh sách Đại thừa, đối với những
người còn nhẹ dạ, non lòng, trình độ hiểu
biết còn thấp kém, chịu ảnh hưởng sâu nặng những phong tục tập
quán lâu đời. Nó đãõ biến thành thói quen, nên có hữu sự chuyện gì thì cứ theo
lời dạy trong kinh sách đó mà làm, chẳng dám ném bỏ. Nhưng dù có biết sai chăng
nữa, nếu không làm thì chịu không được, hoặc sợ mọi người lên án hay chê cười bất
hiếu, không thông kinh sách Thánh Hiền.
Đạo đức nhân
quả là một đạo luật rất công bằng và
công lý. Giả thuyết nếu đức Phật có làm những tội
ác, mà đã
đi xuống Địa Ngục,
dù có mặc một trăm
chiếc y hai mươi lăm điều thì luật
nhân quả
cũng sẽ không
tha tội ông, vẫn hành tội đúng như những người khác làm tội
ác, mà không có chút nào thiên vị. Cho nên, các cư sĩ đừng nghe theo kinh sách
Đại thừa, rồi chừng đó sẽ hối hận,
ăn năn
không kịp, đừng lấy vải thưa che mắt
Thánh, đừng lấy
chiếc áo Đạo mà
che dấu luật nhân quả!
Hãy sống
đúng luật nhân quả, đừng làm khổ mình,
khổ người, thì dù
có sống trong
cảnh giới nào thì cũng
được an vui, hạnh
phúc, có chết
đi về cõi nào thì
cũng là
cõi Cực Lạc,
Thiên Đàng.
Chẳng bao giờ
biết sợ đọa Địa
Ngục, và
chẳng bao giờ có Diêm
Vương bắt nạt, có Ngục Tốt la
hét mắng chửi, nạt nộ, hành hạ, v.v...
Thời đại
khoa học hiện đại, sự hiểu biết
quá rõ ràng, đâu còn mê
tín lạc hậu như những ngày xưa. Chết mà còn mặc những chiếc áo như
vậy chẳng có tác dụng gì cả,
chỉ làm một
trò cười lố bịch
cho thiên hạ. Bị
kinh sách mê tín, lừa
đảo mà không biết, thật là ngu si hết chỗ nói.
Nói thế,
chứ tin hay không tin là
tùy quý vị, chúng
tôi chẳng có
quyền và chẳng
có trách nhiệm gì cả trong
vấn đề mê tín
dị đoan.
Mất tiền, mất của là mất của quý vị, chớ chúng tôi chẳng có hao tốn gì cả.
Ở đây nói là để cùng nhau suy ngẫm cuộc sống con người
đâu đúng, đâu sai, đâu tà, đâu chánh, đâu thật, đâu giả,
v.v... để cho mọi người sống
an vui, hạnh
phúc, không làm khổ
mình, khổ người.
Đó là tâm
nguyện của chúng tôi.
KINH KỲ CẦU
VÀ ĐIỆP PHÁI
Hỏi: Kính bạch Thầy,
người tín đồ Phật
giáo nào hay đi chùa được cho một quyển kinh Kỳ Cầu nhỏ bằng bao thuốc
lá, để khi chết bỏ vào túi áo
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!