thiền đến Tứ
thiền và thực hiện Tam Minh, làm chủ
sanh, già, bịnh,
chết một cách
dễ dàng, không có
khó khăn mệt nhọc. Nhưng
vì ức chế tâm để được tâm tĩnh lặng, nên thanh tưởng
phát ra tiếng nổ
trong đầu Ngài.
Ngài cảm thấy như cả
vũ trụ đều
tan biến (giống
như thiền sư Đông Độ lúc ngộ đạo),
rồi từ đó tưởng giải
phát ra. Ngài đối
đáp vấn đạo giống như
thiền sư Đông Độ không khác.
Cho nên,
kinh sách Nguyên Thủy
hiện giờ bên phái Nam tông
chưa hẳn đã là nguyên thủy. Vì các nhà học
giả mượn lời Phật dạy rồi thêm bớt rất
nhiều theo tưởng
giải của mình, khiến cho người đời sau sưu tầm và nghiên cứu
những lời Phật dạy, không biết đâu là đúng, đâu là sai. Thật khó cho những ai ở
đời sau muốn tu theo đạo Phật, nếu
không rõ sẽ lại rơi
vào pháp ngoại đạo, rồi chấp
nhận giáo pháp của
ngoại đạo là giáo pháp của Phật, thật đau lòng!
Ở đây nói về kinh sách Nam tông, tức là kinh
sách Nguyên Thủy,
mà các sư còn
dám thêm bớt và
còn nghĩ tưởng
theo kiến giải của mình
biên soạn và viết
ra, thì làm sao đúng
ý của Phật được. Bằng chứng chúng ta thấy rất rõ,
thiền sư Mahàsi đã dám
làm thì các vị trước
kia làm sao không dám
thêm bớt. Thế
mà kinh sách này lại
được phổ
biến rộng rãi khắp các nước trên
thế giới.
Còn kinh sách
Bắc tông, với sự phát
triển theo kiến giải
phóng túng của
các nhà học giả,
thì thử hỏi, sự sai biệt với lời Phật dạy có gấp
trăm, ngàn lần không?
Vả lại,
kinh sách Đại thừa bị thế tục mê tín, lạc
hậu hóa rất
nhiều. Ví dụ một sự mê
tín trong dân gian,
ngày hai ba tháng
chạp, tất cả mọi
gia đình đều
làm lễ cúng
đưa “ông Táo” chầu trời,
thì trong chùa cũng học
theo
điều đó mà làm lễ cúng bái, tiễn
“chư Thiên” về trời.
Từ khi Tăng
đoàn Phật giáo được chia làm hai nhóm
(Thượng tọa bộ
và Đại chúng
bộ), thì Đại chúng bộ
không còn bị sự kềm chế của
Thượng tọa bộ, nên
kinh sách tự do phát
triển theo kiến giải
học giả, không cần có
kinh nghiệm tu hành, phần nhiều chịu ảnh
hưởng của các tôn giáo khác và phong tục tập quán của dân gian.
Lợi dụng Phật
giáo không có người tu chứng điều khiển, nên Đại chúng bộ mặc sức phát triển
theo tâm danh lợi của họ. Do
đó, kinh sách phát triển Đại thừa ra đời với một khối lượng
vĩ đại. Những người có khả năng viết lách, ai muốn viết muốn luận
như thế nào cứ mặc
tình viết và lý luận,
miễn sao có lý,
nghe xuôi tai là
được, đời sau tu được
hay không được mặc kệ, chỉ bây giờ
ngòi bút viết phóng túng cho thỏa thích mà thôi.
Muốn truyền
bá loại kinh sách
này, Đại thừa giáo không thể đi về phương Nam được, vì
nơi đó đã có kinh sách
Nguyên Thủy do Thượng
tọa bộ truyền bá,
nên tín đồ ở
đó xem kinh sách
này (kinh sách Đại thừa)
là kinh sách Bà
La Môn giáo, chẳng ai thèm theo
và đọc.
Vì thế,
kinh sách này truyền
về phương Bắc, những người dân ở
phương Bắc chưa hiểu gì về Phật
giáo, nên kinh sách
Đại thừa truyền
đến đâu đều được họ chấp
nhận ngay, là
vì các nhà Đại
thừa biết dựa
theo phong tục mê tín
lạc hậu của người dân địa phương triển
khai thành kinh sách, và còn sử dụng thần thông, kỳ lạ, v.v... Do thế, kinh sách
này đã phát
triển về phương Bắc dễ dàng, nên gọi là Phật giáo Bắc
tông.
Trên đường
hoằng hóa độ
sanh về phương Bắc, gặp tôn giáo nào thì Phật giáo Bắc tông
thu thập tinh ba của
tôn giáo ấy, rồi
biến thành giáo
lý của mình. Khi đến Trung Hoa,
nó lấy tinh ba
của Lão giáo
biến thành giáo lý Tối Thượng thừa của mình, mà các nhà khoa học, tâm lý học gọi là “Thiền
tông”, đó là Phật giáo bị thế tục hóa.
Đến Việt
Nam thì không có
tôn giáo nào đặc
biệt, không có tinh ba triết lý nào vĩ đại, nên Đại thừa đã dung hợp ba tôn
giáo lớn là Phật (Đại thừa), Lão (Tiên đạo), Khổng (Nho đạo) lại thành một Phật
giáo Việt Nam,
“Vạn Hạnh dung
tam tế”.
Sinh hoạt của “Phật
giáo mới” này tiếp tục triển
khai kinh sách phát
triển, bằng cách dựa
theo phong tục tập quán dân gian biến dần thành kinh sách của
mình, để đáp ứng nhu cầu mê tín
dân gian. Cho nên, trong chùa thờ đủ loại thần, thánh, tiên, Phật, ma, quỷ, cô,
cậu, các bà chúa, Quan Thánh Đế Quân,
Thập Điện Minh
Vương,
Ngọc Hoàng,
Thượng Đế, Long
Thần Hộ Pháp, Bát Bộ Kim Cang, cô hồn, các đảng, thập loại âm binh,
Nam Tào, Bắc Đẩu, hài cốt và vong linh của những người chết, v.v...
Kinh sách
phát triển dạy đầy ắp những điều mê tín,
nào là
cúng vong, tiễn linh, thí thực cô hồn
các đảng, nào
là cúng sao, giải
hạn, cúng yếm, thần trù, quỷ dữ,
nào là cầu siêu, cầu an, xin xăm,
bói quẻ, xem
ngày tốt xấu,
trừ linh, trừ thần, v.v... Mỗi
chiều ở các chùa cổ xưa
đều cúng thí thực cô hồn, các đảng, quỷ
chùa bằng gạo muối, v.v... Phung phí của đàn na thí chủ vô ích.
Hình thức cúng
bái tạo ra cớ có vẻ thật sự
có thế giới siêu hình đang sống chung đụng với thế giới hữu
hình của con người,
mà mỗi tai ương, hoạn nạn, tật bịnh của loài
người đều do con
người của thế giới siêu hình tạo ra.
Kinh sách
phát triển của Đại thừa đã lừa đảo con
người bằng một
thế giới siêu
hình mang nhiều hình thức mê tín, lại còn gạt người khác bằng cách
hy sinh to lớn với
lòng đại từ, đại bi như Kinh Duy Ma Cật dạy: “Bồ tát bịnh vì chúng sanh bịnh”.
Có bao giờ Bồ
tát “bịnh” để
chia sẻ nỗi khổ đau của chúng
sanh được chăng?
Đạo Phật đã dạy cho
chúng ta biết rất rõ ràng,
nhân nào quả nấy, ai
đã tạo nhân
ác thì phải gặt lấy quả khổ,
không ai chịu thay quả khổ đó cho ai được. Đó là một đạo luật nhân quả công bằng
và công lý của nhân loại. Vậy mà có Bồ tát
chịu khổ,
chịu bịnh thay
cho chúng sanh
(như Chúa chịu đóng
đinh trên Thập Tự Giá chịu tội thay cho Môn đồ). Hành động của Bồ tát
như vậy có phi đạo đức chăng? Con người sanh ra trên thế gian này, như đức Phật
đã xác định, từ nhân quả sanh ra, sống trong
nhân quả, chết
vì nhân quả. Xác định như vậy thì
không có đấng tạo hóa nào sanh ra con người. Vì thế, không có kẻ nào ban phước
giáng họa cho con người, mà cũng không có kẻ nào thay thế sự khổ đau của con
người.
Cho nên
câu: “Bồ Tát bịnh vì
chúng sanh bịnh” là
câu lừa đảo, gạt người
của kinh sánh phát triển, để chứng
tỏ Bồ tát là kẻ vĩ đại, Bồ tát có lòng từ bi rộng lớn, thương xót đối với tất cả
chúng sanh, nhưng
không ngờ lời
nói dối trá thành phi đạo đức. Đối với đạo Phật, câu
nói này là câu nói gian xảo, lừa bịp người đệ nhất.
Vì kinh Pháp
Cú, Phật dạy, ai đã tạo nhân ác thì phải
gánh chịu quả khổ, không
một ai chịu thay
cho ai được, đó là luật nhân
quả công bằng tuyệt đối.
Khi còn tại thế, đức Phật đã từ chối:
“Các con tự thắp đuốc lên mà đi, ta chỉ là một người hướng đạo chỉ đường
mà thôi”. Lời dạy này đức Phật đã khẳng định sự từ chối không cứu độ ai hết, mà mọi người
phải tự cứu
mình. Cho nên, những lời dạy của
Ngài luôn luôn nhắc nhở chúng ta phải tự hành
thiện, chỉ có
hành thiện mới đem lại sự an vui
cho mình, cho người và cho tất cả muôn
loài sanh linh.
Vậy mà Phật
giáo phát triển có một Duy Ma Cật
dám bịnh thay
cho chúng sanh, dám chia sẻ
nỗi khổ đau của chúng sanh, thật là gan dạ, dám phá bỏ luật nhân
quả. Nếu có một Duy
Ma Cật làm được như vậy thì đạo đức
trong thế gian này còn gì?
Chúng sanh do không
hiểu (vô minh)
mà làm điều ác, tạo tội lỗi rồi
phải chịu nhiều thống khổ do hành động đó. Đạo Phật ra đời chỉ có mục đích cứu giúp
con người thoát khổ bằng cách
chỉ dạy cho họ thấu hiểu những điều
họ làm là ác, là bất thiện và sẽ
đem đến quả khổ đau cho họ,
chứ không ai làm cho họ khổ mà chính
họ. Để chứng minh lộ trình nhân
quả cụ thể
cho họ thấy và hiểu
rõ hơn, thì từ
đó họ không
còn hành động làm
ác, làm khổ
mình, khổ người
nữa, thì chừng đó họ sẽ không còn
chịu sự khổ đau nữa, tâm hồn họ sẽ được thanh thản, an lạc và luôn sống tùy thuận
hòa hợp với mọi người.
Đạo Phật cứu
người là giúp con người vén sạch màn “vô minh”, để từ đó họ sáng suốt hiểu rõ
không còn lầm lạc trong hành động ác, để không tự tạo khổ cho
mình, cho người
nữa. Sự hiểu biết
tránh làm điều
ác và luôn
thực hiện làm điều
thiện, nên đạo Phật gọi sự hiểu biết đó là trí tuệ, hay gọi là tri kiến giải thoát. Nhờ
có tri kiến giải
thoát, nên đạo Phật
gọi là đạo giải thoát, tri kiến giải thoát đó không phải của
ai khác, mà phải chính
của mình mới giải thoát cho mình được.
Cho nên câu
nói: “Bồ Tát bịnh vì chúng sanh bịnh” là câu nói nghe rất hay, nhưng ý
nghĩa rất dở, vì phi đạo đức, thiếu công bằng và công lý.
Đối với luật nhân
quả, không ai
có thể đau bịnh
hoặc chịu tai nạn
thế cho ai được,
và cũng không thể chia xẻ nỗi đau
khổ với chúng sanh được.
Câu nói: “Bồ
tát bịnh vì chúng sanh bịnh” là câu
nói láo, lừa đảo thật sự. Nếu quả có một Bồ tát
bịnh thay cho chúng
sanh hoặc chia sẻ nỗi đau khổ
này, thì chúng sanh phải
hết khổ, và ít
nhất cũng phải
giảm thiểu được
sự đau khổ. Nhưng
con người trên hành
tinh này có hết
đau khổ đâu, vậy
thì Bồ tát
nói có đúng
không? Nhưng luật nhân quả đã không chấp nhận điều này, nếu chấp nhận điều
này thì thế gian này còn lấy đâu gọi là đạo đức, công bằng và công lý.
Một kẻ làm
ác mà có người chịu thay tội khổ, thì
nhà giàu
có, người làm
quan, kẻ làm vua
chắc không bao giờ có khổ đau, bịnh tật và tai nạn, v.v...
Nhưng thật sự,
nhìn cuộc sống con người
trên thế gian này từ vua, chúa,
quan, dân, người giàu có và đến những kẻ nghèo cùng, khốn khổ,
mỗi giới, mỗi giai cấp đều có sự khổ đau, bịnh tật như nhau mà không có ai
thoát khỏi, nhất là bốn sự khổ: sanh, già, bịnh, chết, và cũng
chẳng ai thay thế cho ai được bốn sự khổ này chút nào.
Câu nói phi
đạo đức nhân quả của Bồ tát Duy Ma Cật đã làm cho kinh sách phát triển mất giá
trị, nhất là đạo đức của con người.
Nếu bảo rằng kinh sách
phát triển chỉ
là để dùng cho bậc Thánh, Hiền, Bồ
tát, chư Phật, tâm không còn sống
trong các pháp đối đãi
(bất nhị), nên lời nói của Bồ tát
Duy Ma Cật vượt thoát các pháp đối đãi. Nếu luận
như vậy thì còn
sai hơn nữa.
Thánh, Hiền,
Bồ tát và chư Phật không còn biết đạo đức làm
người nữa hay
sao? Tức là không có pháp thiện và cũng không có pháp ác nữa (bất nhị).
Hàn Sơn,
Thập Đắc, Tế
Công Hòa thượng, Phật sống Cựu Kim Sơn... ăn uống dơ bẩn, lại còn ăn thịt uống
rượu, phạm giới tận cùng, đó là các Ngài sống tự tại vô ngại trong pháp môn bất
nhị của Đại thừa. Vì thế, các Ngài không còn là con người, mà là loài ác quỷ từ pháp môn bất nhị đã sanh
ra, và
hiện giờ trong
pháp môn bất nhị ấy còn
sanh biết bao nhiêu
loài ác quỷ nữa. Nếu chúng
ta không chặn đứng được
pháp môn bất nhị,
thì một nguy cơ khiến cho con người
không tiến bộ mà
còn sống thụt
lùi về thời lạc hậu,
dã man hung ác.
Nếu bảo rằng:
“Chấp giới” thì phạm hạnh, tức là đạo đức của người tu sĩ Phật giáo ở chỗ nào?
Không lẽ
đạo Phật không
có đạo đức
sao? Hay toàn là những thầy tu phạm
giới phá giới, v.v...
Hai trăm
năm chục giới tỳ kheo
tăng và ba trăm bốn mươi tám giới tỳ kheo ni, không
phải là đạo đức Phật giáo sao?
Người tu sĩ
nào phạm giới, phá giới là người tu
sĩ không
có đạo đức
và thiếu giáo dục đạo đức.
Đừng dùng
những danh từ “chấp giới”
và “tự tại vô ngại”, hoặc “thỏng
tay vào chợ” để bưng bít hay bịt miệng
thiên hạ, để được sống
chạy theo dục lạc thế gian
mà người ta vẫn tưởng
đó là Phật sống.
Nên các vị
giáo sĩ Bà
La Môn dựng lên những nhân vật phá giới, phạm giới,
như Tế Điên tăng, Phật sống Cựu
Kim Sơn, Hàn
Sơn, Thập Đắc, để
giúp cho quý thầy Đại thừa
và các thiền sư Đông Độ tự do phá
giới, sống phạm giới mà tín đồ không
dám phê phán,
đó là một tấm
bình phong che dậy cho những
người tu danh,
tu
lợi.
Kinh
sách phát triển
đã lầm, hay
nói cách khác là không hiểu đạo đức
của đạo Phật là gì? Nên thường nói giọng kiêu kỳ: “Đại thừa, Tối Thượng thừa”,
tự xưng mình
là giải thoát
trên hết.
Vì Thánh hiền,
chư Phật, chư Bồ Tát, tất cả phàm phu
và chúng
sanh đều từ
nhân quả sanh ra.
Mà đã từ
nhân quả sanh
ra thì không sống trong hành động thiện, ác sao?
Hành động
thiện không phải là đạo đức sao? Và hành động ác không phải là phi đạo đức ư?
Toàn bộ “giới
luật” của Phật đều dạy chúng ta phải sống
và hành động với đạo đức làm Người, làm Thánh nhân, làm Phật.
Cớ sao những người thiếu hành động đạo đức mà chúng ta lại xem họ như Phật. Họ
chỉ có một vài thần thông tưởng lòe
bịp thiên hạ, chứ đức hạnh chẳng ra gì.
Sao mọi người
vô minh điên đảo, hễ thấy ai có chút ít thần thông đều cho họ là Phật, Thánh,
Tiên, rồi cung kính,
lễ bái và
cũng dường, trong khi những hành động đạo đức của họ chẳng
ra gì, còn tệ hơn người phàm phu là khác nữa.
Phật và
Thánh đều từ những
con người phàm phu, tu tập trau dồi thân
tâm xa lìa
ác pháp, không còn xảo quyệt,
gian ngoa, lừa đảo, luôn luôn sống trong hành động đạo đức, thì mới
gọi là Thánh nhân, Phật.
Có đâu dùng
những lời hoa mỹ cao thượng như: “Tự tại vô ngại; chấp
giới; thõng tay vào chợ; đói ăn, khát uống, mệt ngủ liền”, khiến cho những người
chưa hiểu đạo đức nhân quả của Phật dễ bị lầm lạc. Họ tưởng những người này
là bậc Thánh
cao thượng dám hy sinh mình
vì mọi người, chịu
khổ đau vì nhân loại,
vì loài người dẹp bỏ cá
nhân mình thật
là vĩ đại. Nhưng
trong cái vĩ đại đó, là không vĩ đại gì hết. Vì ai đã làm
ác thì người đó phải gánh
chịu quả khổ, không thể ai gánh
vác được cho ai, dù kẻ đó là
Thánh, Thần, chư
Phật, chư Bồ
Tát cũng không thể gánh chịu cho
ai được, thế mới gọi là công bằng, công
lý. Còn có người chịu
thay thế
được quả khổ đau cho kẻ
khác, thì trên thế
gian này con người làm sao có một đạo luật gọi là công bằng và công lý
được?
Nếu có người chịu
khổ cho kẻ khác
thì thế gian này sẽ
ra sao? Như
trên chúng tôi
đã nói, nếu trên
thế gian này
không có một đạo luật công
bằng như đạo luật
nhân, quả, thì con người chỉ còn
là một ác
thú mà thôi.
Vì thế, những lời nói
chịu khổ cho
nhân loại là lời lừa đảo, bịp người,
với những người
còn đang sống trong
giấc mơ “siêu hình”.
Chúng ta là
những người còn phàm phu tục tử, còn sống trong cảnh đối đãi, nên chỉ biết ở
trong cảnh đối đãi mà tu tập trau dồi đạo đức như thế nào để cùng sống chung
nhau, đối xử với nhau mà tâm hồn thanh
thản, an lạc,
không làm khổ mình,
khổ người. Thì
đó là chân hạnh phúc của
loài người, và
đó cũng là sự giải
thoát của đạo Phật, giải thoát chung cho loài người. Chứ
không như kiểu giải
thoát của kinh Duy
Ma Cật, chỉ dành riêng cho những bậc Bồ tát, chư Phật
và Thánh hiền với trí tuệ “Bất nhị”.
Đa số các
tôn giáo hiện có mặt trên thế gian này đều xây dựng cho
loài người một thế giới tuyệt vời “Bất nhị”. Cái thế giới ấy rất
xa vời với loài người, vì con người
không thể với tới,
không thể có trí tuệ
“Nhất nguyên” đó được, chỉ có
những bậc Thánh, Hiền như Bồ tát Duy Ma Cật trong kinh sách
phát triển mà
thôi. Thậm chí như
đức Phật, Ngài
còn thua xa Bồ
tát Duy Ma
Cật,
chính đức Phật Thích
Ca Mâu Ni Ngài cũng không dám sống trong pháp môn “Bất nhị”, vì đó là pháp môn phi đạo đức.
Những bậc
Thánh “Bất nhị”
này lý luận
mơ hồ, trừu tượng, tưởng giải, chỉ là giấc mộng đẹp của Bà La Môn giáo
mà thôi.
Nhìn
chung, giáo lý của các tôn giáo đều
xây dựng
cho loài người
một giấc mơ đẹp,
để an
ủi tinh thần
con người trong
cuộc sống lầm than và nhiều đau
khổ, hơn là giải khổ ngay trên thực
tế cho họ.
Ngoài những
giáo lý ấy,
có một thứ
giáo lý khác được mang một cái
tên nhỏ bé: “Tiểu thừa Phật giáo”.
Tiểu thừa Phật
giáo chỉ mang một cái tên như vậy
cũng đủ khiến
cho người ta xem thường,
coi rẻ, người ta tưởng tượng trong đầu: giáo pháp đó chẳng ra
gì, chẳng bằng
ai, không cao siêu
vi diệu; nhỏ mọn, hạn hẹp, tầm thường, chẳng có gì để cho mọi người đáng
quan tâm.
Chính chúng
tôi trong những
ngày đầu mới xuất
gia tu học
theo Phật, thấy
kinh sách Tiểu thừa là
chúng tôi cũng
có tư tưởng
không muốn đọc, và cũng không muốn
tu theo nó nữa.
Các bậc thầy,
tổ thường ca ngợi kinh sách Đại thừa, khuyên chúng tôi nên học, đọc và tu theo
những bộ kinh Đại thừa như: Pháp Hoa kinh, Thủ Lăng Nghiêm
kinh, Viên Giác kinh, Duy Ma Cật kinh, Đại Bửu Tích kinh, Hoa
Nghiêm kinh, Pháp Bảo Đàn kinh, kinh Bát Nhã, v.v...
Khi học và đọc những
bộ kinh này, chúng
tôi thấy nó quá vĩ
đại, lý
luận tuyệt vời,
chỉ rõ bản thể con người rất cụ thể, nếu không có
kinh sách này dạy thì khó mà ai nhận ra được
“Phật tánh”. Từ đó, chúng
tôi tin kinh sách này
như là của báu.
Các Tổ, các
bậc Tôn túc và các Thầy, từ bao nhiêu thế kỷ nay đã bị kinh sách này lừa đảo,
khiến tu
hành lầm lạc, cứ tu
theo các pháp
môn đó mà tu chẳng đi đến đâu cả, kết quả cũng chẳng có gì, chỉ có cảm giác an lạc của
dục tưởng xúc, và cuối
cùng thì có một vài
thần thông tưởng. Như
vậy mà các
thầy, tổ đã tự mãn nguyện, hoặc thấy sắc tưởng, thanh tưởng,
phát hiện thấy trước
mắt và tiếng
nổ trong tai là
tự cho mình tu chứng đạo.
Con đường
tu như vậy thật
là đau lòng, họ
không biết chứng
đạo là chứng
cái gì? Hay chỉ cần nói: “Vô sở đắc” là đủ mãn nguyện tu
hành.
Phật tánh,
thần thông, các cảnh giới siêu hình như:
xuất hồn, nhập định, hay là
tự tại vô ngại,
ngũ uẩn giai không, phản bổn hoàn nguyên, phủ trùm vạn hữu, v.v... đó chỉ là sống trong
thế giới tưởng của tưởng tri.
Ngộ nhận những
trạng thái tưởng này cho là chứng đạo, nên các Ngài truyền thừa với nhau về
phương Bắc, nhưng
vì danh lợi,
nên mỗi Ngài hùng cứ một phương, chia ra làm năm tông
bảy phái (Thiền tông Trung Quốc).
Đến Việt
Nam, Thiền tông thành lập ra phái Thảo Đường, Trúc Lâm, Liễu Quán, v.v... Tên thì có khác,
nhưng khuôn là
thiền Đông Độ
thì không có gì
khác cả, đều
nhai lại bã
mía của Trung Quốc.
Đến thời đại
chúng ta, Phật giáo Bắc tông vẫn phát
triển đều đều,
người tu thì đông
vô số kể, mà
đạt được thì chẳng
có gì, chỉ là một trò lừa
đảo bịp
người mà thôi.
Truyền thừa với
nhau từ đời này
sang đời khác
lúc thịnh lúc
suy, nhìn chung chẳng có ai tu đến
đâu cả, chỉ là diễn xuất tuồng hát trên
sân khấu, hết màn Tịnh Độ tông, đến
màn Thiền tông; hết màn Thiền tông, đến màn Mật tông; hết màn Mật tông, đến màn
Pháp Hoa tông, v.v... Cứ những
tông này diễn tới diễn lui chẳng có gì mới mẻ cả.
Người truyền
đạo thì cũng chẳng biết mình truyền đúng hay sai của đạo Phật, người tu thì lại
nhắm mắt tu đùa, chẳng cần suy nghĩ xem xét kỹ lưỡng, chỉ
nghe Đại thừa,
Tối Thượng thừa
là ngon lành, là siêu việt, còn những loại kinh sách Tiểu thừa
Nguyên Thủy thì xem chẳng
ra gì, liệt kê những loại kinh sách này là ngoại đạo.
Lúc chúng
tôi mới bước
vào chùa tu
hành, thích học được
kinh sách Đại thừa
và thích tu thiền
Tối Thượng thừa,
xem kinh sách Tiểu thừa A
Hàm như đồ bỏ (ngoại
đạo), mà trong
kinh Phạm Võng Bồ Tát giới đã cấm không cho học và tu giáo lý này.
Tu như
ông Xá Lợi Phất và
ông Mục Kiền Liên,
tiên nữ rắc
hoa còn dính mắc
(trong kinh Duy Ma Cật), các Ngài
chỉ là hàng Thinh Văn, không bằng Bồ
tát và Phật,
uổng công tu
hành mà chỉ ở những bậc thấp lè
tè. Đối với Đại
thừa, thì lời dạy của đức Phật cũng chỉ là ngoại đạo,
sao bằng kinh
sách Đại thừa “kiến
tánh thành Phật”,
nhanh chóng như trở bàn tay.
Đó là
quan niệm hết sức sai lầm của
chúng tôi, do bị ảnh hưởng kinh sách Đại thừa và thiền Đông
Độ. Vì thầy, tổ truyền dạy
cho nhau không ngoài kinh sách Đại thừa.
Xướng minh
pháp môn Tịnh Độ, tổ Vĩnh Minh Diên Thọ lại
còn gạt người
hơn nữa bằng những từ
ngữ rất kiêu:
“Người tu Thiền
mà không tu Tịnh Độ, 10 người chưa được một người tu
chứng”. “Người tu Thiền
mà tu thêm Tịnh Độ
như cọp mọc sừng, 10 người đều chứng
cả”.
Tịnh Độ còn
dùng những lời lẽ cám dỗ và hăm dọa hơn
cả những lời lẽ ở trên, để ngăn chặn và lừa đảo
tín đồ một cách
có thủ đoạn.
Tịnh Độ tông cho rằng thời đại
chúng ta là thời đại mạt pháp, loài người
sắp tận thế,
chỉ có pháp
môn Tịnh Độ tu hành dễ chứng và tu chưa chứng đạt cũng được đức Phật
A Di Dà rước về
cõi Cực Lạc rồi tiếp tục tu hành.
Sau những năm
tháng tu hành với hoài
bão làm chủ sanh,
già, binh, chết,
chấm dứt sự khổ
đau của kiếp người,
chúng tôi bị
các pháp môn
của Đại thừa và Thiền tông lừa đảo,
đã phí hết thời gian của tuổi thanh xuân. Hơn nửa đời
người đem hết sức lực tu hành theo các pháp môn Đại thừa và
Thiền tông, chúng
tôi kiến giải
(triệt ngộ) được tất cả các công án và đang sống trong trạng thái
tĩnh lặng. Biết
bao nhiêu trạng thái tĩnh lặng, biết bao nhiêu trạng thái tưởng
xảy ra, như thần thông
biết chuyện quá khứ, vị
lai, dù biết vậy,
nhưng xét kỹ thì
chúng tôi cũng
chưa làm chủ được sanh, già, bịnh, chết.
Chúng tôi đã
trở về với pháp môn Tiểu thừa, may ra, hy vọng còn làm chủ được thân tâm.
Chúng tôi sống độc
cư, sống đời sống
trầm lặng, sống đúng
giới luật không
hề vi phạm một
lỗi nhỏ
nhặt nào, với đời sống
thiểu dục tri túc, chỉ
xin cơm ngày một bữa
mà thôi, chẳng
có mong cầu gì khác.
Chúng tôi
tu pháp Tứ
Chánh Cần, Tứ Niệm
Xứ và Tứ Chánh Định, kết quả chúng tôi hướng tâm đến Tam Minh, chỉ trong vòng
sáu tháng với một nhiệt tâm nồng cháy,
với một nghị lực
dũng mãnh, với một ý chí sắt đá
kiên cường, chúng tôi thành tựu làm chủ sự sống chết,
tâm chẳng hề dao động trước bất cứ một đối tượng nào.
Từ đó
chúng tôi biết rất rõ,
kinh sách Đại thừa và thiền Đông
Độ là của tôn giáo khác hoặc bị thế tục
hóa tôn giáo,
với dụng tâm của các vị
tỳ kheo giáo sĩ Bà La Môn, thâm ý sâu độc
muốn diệt trừ Phật
giáo, vì Phật
giáo tồn tại
và phát triển thì các tôn giáo
khác không phát triển được.
Tại sao vậy?
Tại vì Phật giáo đập phá thế giới
siêu hình, hủy diệt thần quyền
sáng tạo, đem lại cho loài người một nền đạo đức giải thoát, không làm khổ
mình, khổ người, biến cảnh thế gian
thành Thiên Đường, Niết Bàn.
Đạo Phật và
các tôn giáo khác không thể đi chung
nhau một đường, vì các tôn giáo
khác có thế giới siêu hình, có Thần quyền sáng tạo, có cảnh giới mơ hồ, trừu tượng,
ảo huyền, có cuộc sống sau khi chết. Ngược lại, Phật giáo thiết thực và cụ thể
hơn nhiều, không có thế giới siêu hình, không có Thần quyền sáng tạo, không có
thế giới mơ hồ, trừu tượng, ảo huyền và không có cuộc sống sau khi chết. Nếu
chánh pháp và đạo đức nhân bản của Phật giáo được phổ biến sâu rộng, khiến mọi
người am tường và thực thi sửa đổi thói hư tật xấu, thì xã hội loài người mới sống đúng đời sống công bằng,
bác ái, thì các tôn giáo làm sao còn
chỗ đất đứng
trên hành tinh này được.
Thấy rõ điều lợi hại này,
nên bằng mọi
giá, các tôn giáo
khác đều ước muốn biến dần Phật giáo
thành một tôn
giáo chấp ngã,
có bản thể vạn hữu
(Phật tánh, Đại
ngã), còn đạo đức của Phật
giáo thì biến thành
một thứ đạo đức nhân quả mê
tín, để Phật giáo cũng
giống như các tôn giáo khác trên
hành tinh này.
Cho nên câu
nói: “Bồ Tát bịnh vì chúng sanh bịnh” trong kinh Duy Ma Cật cũng là một câu nói
lừa đảo, phi
đạo đức, nhằm để lường gạt những người chưa hiểu đạo đức nhân quả thiện ác của
Phật giáo, chứ
không thể lừa
đảo, lường gạt những
người có giới đức và giới hạnh của Phật giáo được.
Hiện giờ, mọi người
chưa ai thông suốt đạo
đức nhân
quả. Luật nhân
quả, kinh sách nhân quả
của các kinh sách
phát triển thuộc
về loại kinh sách mê tín, dị
đoan, đó toàn là kinh tưởng. Hiện nay, tín đồ Phật giáo Đại thừa đặt trọn lòng
tin vào những vị Bồ tát,
vì những vị Bồ
tát này thường ban phước lành
và cứu khổ cứu nạn, cùng chia sẻ những sự
đau khổ của chúng sanh. Không ngờ, sự cứu khổ, cứu nạn và
chia sẻ sự đau
khổ với chúng sanh là một điều không thể làm được. Không thể
làm được vì luật nhân quả rất công bằng và công lý. Cho nên, hành động cứu
khổ cứu nạn và chia xẻ khổ nạn là phi
đạo đức,
làm mất công bằng
và công lý
trong kiếp sống của loài
người.
(Trích ĐVXP
tập 5 trang 32-60)
Hỏi: Có nhiều sách
viết rằng, khi một người tắt hơi thở rồi, nếu sờ vào mình người đó mà hơi nóng dồn
vào chỗ nào
đó, trong khi tất cả chỗ khác
đều lạnh hết,
thì biết được rõ chỗ tái
sanh của họ. Ví dụ: ở hai bàn chân nóng là sanh địa ngục, ở
trái tim là người, ở mắt là trời... Căn cứ
vào đâu
mà họ nói
như vậy, hay do tưởng
tượng mà thôi? Xin Thầy chỉ dạy!
Đáp: Có thể khi chết
đều có sự hoại diệt của
cơ thể chỗ nào hoại diệt
trước là chỗ
đó lạnh trước, chỗ
nào hoại diệt sau là
chỗ đó lạnh
sau. Sự hoại diệt đều do căn bệnh của cơ thể.
Trong thư con ghi những lời giải thích của các
nhà học
giả đều là
sai, không có
căn cứ lôgic khoa học, đó là tưởng giải của các nhà
Đại thừa. Còn đạo Phật xác định sáu nẻo luân hồi rất rõ ràng:
1- Cõi Trời
bằng một trạng thái tâm Thập thiện, còn tưởng thức dục.
2- Cõi Người
bằng trạng thái
tâm Năm giới còn ý
thức dục.
3- Cõi A Tu
La bằng trạng thái tâm sân.
4- Cõi Ngạ
Quỷ bằng trạng thái thân tâm đói khát.
5- Cõi Súc Sanh
bằng trạng thái thân tâm ích kỷ, nhỏ mọn, hẹp hòi, bẩn thỉu,
ăn uống đồ bất
tịnh, hôi thối, rượu chè say sưa quậy phá, v.v...
6- Cõi Địa
Ngục bằng trạng thái thân tâm đau khổ, ê ẩm nhức nhối, phiền não, bất an, bất toại nguyện, v.v...
Trong trạng
thái tâm này
khi còn đang sống, cũng như lúc sắp
lâm chung đã xác định hướng đi rõ ràng của người này khi tiếp tục tái sanh.
Đó là một điều
xác định sáu nẻo luân hồi rất khoa học, thực tế và cụ thể của đạo Phật, mà
không có một
tôn
giáo nào xác định được
như vậy, chỉ vì các tôn giáo đều có thế giới siêu hình. Bởi vì họ cho có
thế giới siêu hình, nên hơi ấm ở chân là
sanh vào cõi địa ngục, ở tim sanh làm người, ở mắt sanh lên cõi Trời, v.v...
Họ căn cứ vào
kinh sách phát triển,
là một loại kinh sách
tưởng giải của
các nhà học giả
thiền tưởng, tưởng giải ra cho hơi nóng xuất ra ở hai bàn chân là địa ngục, ở
tim là người, ở mắt là Trời, v.v... Vì những điều này họ không căn cứ và biết chắc
được cõi Trời, cõi Địa Ngục
ở đâu? Chỉ nói trong ảo tưởng mà thôi.
Các cư sĩ
đừng tin theo luận
điệu mê tín lừa đảo
người mà hầu hết kinh sách
phát triển nào cũng có. Không lừa gạt thế này thì lừa gạt
thế khác, không dụ dỗ thế này thì dụ dỗ thế khác. Thường kinh sách
này đưa chúng ta vào thế giới
siêu hình, mơ hồ ảo tưởng.
Chúng ta
nên căn cứ
vào việc làm
thiện hay ác của con người mà xác
định được nẻo luân hồi của họ ở kiếp sau, chứ không phải hơi ấm trên thân người.
Hỏi: Một
người học Phật
phải nhìn cuộc đời
như thế nào để không bị đắm chìm, lôi cuốn theo những lạc thú tầm thường của thế
gian, nhưng cũng không bị người đời
lên án là
tiêu cực, vô cảm, lãnh đạm, v.v...
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!