khỏi ác pháp là ngƣời giải thoát mọi khổ đau. Ngƣời giải thoát mọi khổ đau là ngƣời làm chủ nhân quả hay nói cách
khác
là ngƣời không làm khổ mình, khổ ngƣời
và tất cả chúng
sanh.
Cho
nên pháp môn tu tập xấu hổ
trong mọi
hành động thân ác hạnh là để ngăn và diệt ác pháp một cách tuyệt vời. Khi chúng ta biết xấu hổ với thân ác hạnh của mình thì chúng ta cũng biết
xấu hổ với khẩu ác
hạnh của mình.
Vậy
khẩu ác hạnh là
gì?
Khẩu ác hạnh là lời nói ác, lời nói hung dữ;
khẩu
ác hạnh còn có nghĩa là ăn, uống, hút, chích vào thân những thực
phẩm
độc ác nhƣ tiết canh, óc khỉ, rƣợu, thuốc lá, thuốc
lào, thuốc phiện, xì ke, ma túy, v.v... Cho nên khẩu ác hạnh có
hai phần:
-
Ph ần I : “Khẩu ác hạnh về lời nói”.
-
Ph ần II : “Khẩu ác hạnh về ăn,
uống, hút,
chích.
I- Khẩu ác hạnh về lời nói
có tám: Lời nói dối
Lời nói hung dữ
Lời nói xấu ngƣời
Lời nói vu khống ngƣời
Lời nói thêm bớt, lời nói thêu dệt
Lời nói lật lọng Lời
nói mỉa mai,
Lời nói móc họng.
II- Khẩu ác hạnh về ăn uống
có bốn:
Ăn
thịt chúng sanh,
Ăn
những
chất độc vào thân,
Uống
rƣợu bia, uống máu tƣơi,(nƣớc có mạng
chúngsanh)
Hút thuốc lá,
thuốc lào, thuốc phiện.
Ví dụ 2: Hằng ngày các bạn đều ăn thịt chúng sanh thì các bạn phải khởi tâm tự xấu hổ và tƣ duy rằng: Mình là con ngƣời; con ngƣời là một
con
vật thông minh nhất trong các loài
vật. Vậy cớ sao ta lại hung ác nỡ tâm ăn thịt chúng sanh khi mọi loài vật đều muốn sống, sợ chết, sợ đau khổ
nhƣ nhau. Thế
sao ta lại ỷ mạnh, thông minh lại bắt
giết
chúng ăn thịt. Thật
là vô đạo đức. Trên đời này một ngƣời vô đạo đức là một con thú vật, chứ không phải là con ngƣời
nữa.
Ngƣời biết xấu hổ là ngƣời biết dừng những hành động ác. Phải không hỡi các bạn? Ngƣời không
biết
xấu hổ với khẩu ác hạnh của mình là ngƣời càng làm ác hơn. Càng làm ác
thì tội khổ càng nhiều hơn. Cho nên xấu hổ là pháp môn ngăn ác và
diệt
ác pháp tuyệt vời. Vậy các bạn hãy nên tu
tập tính biết xấu hổ từng hành động, việc làm
của các bạn thì các bạn sẽ tìm
thấy đƣợc chân hạnh phúc.
Ăn những chất độc vào thân, uống rƣợu, hút thuốc lá,
thuốc lào, thuốc phiện, v.v...
Những hành động ăn, uống,
hút
này tự làm khổ thân mình mà không biết. Nhƣng khi đã biết đó là khẩu ác hạnh thì phải tự biết
xấu hổ, nếu
không biết
xấu hổ là không phải con ngƣời. Ngƣời biết
xấu hổ mới chính là con ngƣời nhƣ trên đã nói. Có phải vậy không các bạn?
Pháp môn thứ ba
là phải tu tập tính sợ hãi
tội lỗi do thân ác hạnh, khẩu ác hạnh và
ý ác
hạnh của mình. Chính ba hành động ác
này
mang đến cho chúng ta một đời sống khổ đau
và đầy phiền não. Vì có sợ hãi những lỗi nhỏ nhặt do thân
ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh thì chúng ta mới ngăn
chặn và diệt chúng. Vì thế chúng ta sẽ không phạm vào những lỗi lầm
lớn. Xét thấy tính sợ hãi các lỗi lầm nhỏ nhặt
là một điều lợi ích
rất
lớn cho cuộc sống của mỗi ngƣời. Nó
có
tầm quan trọng nhƣ vậy nên Đức Phật dạy pháp thứ ba
cần phải tu tập đức sợ hãi những tính xấu của mình: “Vị
này
có lòng quý, tự sợ hãi vì thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh,
tự sợ hãi vì thành tựu ác, bất thiện pháp”.
Thƣa các bạn! Tính sợ hãi các lỗi lầm của mình không phải là tính nhút nhát sợ ma, sợ bóng tối, sợ rắn, sợ chuột, sợ sâu,
bọ, đỉa, sợ cô đơn,
sợ sống nơi thanh vắng một mình, sống nơi nhà mồ, nghĩa địa, v.v...
Tính nhút nhát là một
tính xấu cần phải đƣợc khắc phục bằng tính gan dạ, can
đảm, dũng cảm, không hề sợ hãi trƣớc cảnh vắng vẻ
cô
đơn nơi rừng sâu
núi thẳm, trƣớc mọi loài vật, mọi ngƣời hung ác, trƣớc mọi gian nan thử thách. Nhƣng tính
sợ hãi các lỗi lầm của mình là một đức
hạnh tốt. Một
đức hạnh cần phải đƣợc rèn luyện và tu tập để
ngày
ngày đƣợc phát triển đức
sợ hãi những lỗi lầm của mình càng to lớn hơn. Nhờ học
tập và tu dƣỡng đức sợ hãi những lỗi lầm của mình mà mình sẽ trở thành những ngƣời thật là con ngƣời. Những con ngƣời sau này sẽ trở thành những
bậc
Thánh nhân,
bởi
vì ngoài
con
ngƣời mà đi tìm Thánh nhân thì
không
bao
giờ có. Con ngƣời có đạo đức không làm khổ mình khổ ngƣời và khổ
tất cả chúng sanh là Thánh nhân các bạn ạ! Các bạn
có nhận ra
điều này không?
Từ khi đặt trọn lòng tin nơi Thánh Đức Minh Hạnh của Đức Phật, chúng ta tận lực rèn luyện mình trong hai đức
hạnh đầu tiên nhƣ trên Phật đã nói: “Đức biết xấu hổ và
Đức biết sợ hãi những lỗi lầm của
mình”. Nhƣng trong cuộc sống, phần nhiều chúng
ta còn đang sống trong vô minh, trí
tuệ của chúng ta còn u tối, mê mờ, vì thế làm
sao
thấy đƣợc những lỗi lầm
của mình từ trong thân ác hạnh, khẩu ác
hạnh và ý ác hạnh. Cho nên bài pháp thứ tƣ Đức
Phật dạy: Chúng ta phải học nhiều, nghe
nhiều, phải tích tụ những
điều thiện đã học và đã
nghe đƣợc nhƣ đoạn kinh dƣới đây:
“Vị này là vị đa văn, nhớ nghĩ những điều đã nghe, tích tụ
những điều đã nghe. Những pháp nào sơ thiện, trung thiện,
hậu thiện, có văn nói lên Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, những pháp nhƣ vậy, vị ấy nghe nhiều, thọ trì đọc tụng bằng lời đƣợc trí suy tƣ, đƣợc chánh kiến thể nhập”.
Đọc
đoạn
kinh trên đây chúng ta
thấy rõ ràng những gì cần
phải
học là chúng ta phải học cho thấu suốt. Vậy muốn cho thấu suốt thì
chúng
ta phải hiểu nghĩa của
đoạn kinh này
một cách tƣờng tận. Ngay nhƣ câu đầu Đức Phật dạy: “Vị này là vị đa văn”. Thƣa các bạn, đa
văn nghĩa là gì?
Đa văn có nghĩa
là trình độ hiểu biết (kiến thức). Trình độ hiểu biết ở đây không phải là trình độ học thức thế gian, học thức kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông, mà là trí thông minh, nghe, hiểu
và tiếp nhận nghĩa lý
thiện pháp cụ
thể rõ ràng. Ngƣời có trí tuệ hiểu biết thiện pháp nhƣ vậy
mới đƣợc gọi
là Đa Văn.
Khi đã có trí tuệ nhƣ vậy thì luôn luôn phải nhớ nghĩ
những điều thiện
đã đƣợc nghe; thƣờng lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong đầu những điều nghe, thấy, hiểu về thiện pháp. Nhờ
đó
chúng ta mới tích tụ đƣợc những điều đã học mà không bao giờ quên. Vì thế Đức Phật dạy chúng ta:
“nhớ nghĩ những điều đã nghe,
tích tụ những điều đã
nghe”. Có học hỏi có tích tụ đƣợc nhƣ vậy thì chúng
ta mới thông suốt
“Những pháp nào sơ thiện, trung thiện, hậu thiện”.
Pháp sơ thiện,
trung thiện, hậu thiện là nhƣ thế nào? Xin các bạn hãy đọc bộ sách Đạo Đức Làm Ngƣời, Mƣời Giới
Đức Thánh Sa Di, Một Trăm Giới Đức Làm Ngƣời và bộ
Giới
Đức Thánh Tăng, Ni do tu viện Chơn Nhƣ biên soạn thì
lúc bấy giờ các bạn sẽ rõ Sơ thiện, Trung
thiện và Hậu thiện. Có hiểu biết những thiện pháp nhƣ vậy thì chúng ta sẽ biết rõ thân ác hạnh, khẩu ác hạnh và ý ác hạnh. Nhờ biết rõ ba
hành động
ác của thân, khẩu, ý thì chúng
ta ngăn và diệt chúng
mới dễ dàng nên Phạm hạnh hoàn toàn thanh
tịnh. Phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh thì đó là hạnh phúc
nhất
trần gian, cho nên câu kinh dạy: “Có văn nói lên Phạm
hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh”.
Có sự hiểu biết, thấu suốt tất cả thiện pháp nhƣ vậy và biết xấu
hổ, sợ hãi trƣớc những lỗi lầm do những ác hạnh của mình thì bảo đảm chúng ta
sẽ sống một đời sống an vui và hạnh phúc tuyệt vời.
Cho
nên
ở
đây Đức Phật khuyên
chúng ta nên: “Những pháp nhƣ vậy, vị ấy nghe nhiều, thọ trì đọc tụng bằng lời đƣợc trí suy tƣ, đƣợc chánh kiến thể nhập”.
Các bạn nên lƣu ý cụm từ này: “Những pháp nhƣ vậy”. Những pháp nhƣ vậy
là những pháp gì? Đó là pháp Sơ
thiện, Trung thiện, Hậu thiện. Khi rõ những pháp Sơ thiện,
Trung thiện, Hậu
thiện rồi thì phải làm gì nữa? Ở đây
Đức Phật dạy: “vị ấy
nghe nhiều, thọ trì đọc
tụng
bằng lời, đƣợc
trí suy tƣ, đƣợc chánh kiến thể nhập”. Lời dạy bảo của Đức Phật: “Phải
nghe cho thật nhiều những pháp thiện này”.
Khi nghe rồi thì “phải
thọ
trì đọc tụng” có nghĩa là
hằng
ngày
phải luôn luôn đọc
đi
đọc lại nhiều lần những pháp thiện
này nhƣ các thầy Đại Thừa tụng kinh, niệm Phật vậy.
Mỗi
câu mỗi lời dạy đều phải đƣợc “Trí
suy tƣ” nhiều lần
cho thâm nhập đƣợc đầy đủ ý nghĩa thiện pháp này, cho
đến khi nào gặp các ác pháp đều đƣợc “chánh kiến thể
nhập”, thì lúc bấy giờ tâm
chúng ta mới bất động trƣớc các
ác pháp, bất thiện
pháp.
Khi đã chánh tri kiến thể nhập vào thiện pháp
thì chúng ta
phải
siêng năng tinh cần hằng ngày trừ bỏ các
pháp
bất thiện, thành tựu các thiện pháp. Khi thành
tựu
các thiện pháp cũng
giống
nhƣ chúng ta đuổi giặc
ra khỏi biên
cƣơng. Nhƣng muốn giữ gìn đất nƣớc thì phải
xây dựng và
phát
triển nền kinh tế cho giàu mạnh thì đất nƣớc mới
thịnh vƣợng và
nhân dân mới an cƣ lạc nghiệp. Cũng vậy,
ngƣời tu theo pháp
thiện của Phật
thì phải siêng năng tinh
cần
loại trừ các pháp bất
thiện. Khi loại trừ các pháp bất thiện
thì phải giữ gìn thiện pháp. Muốn giữ
gìn
thiện pháp thì phải nỗ lực kiên trì không từ bỏ gánh nặng đối với các
thiện pháp. Vì thế câu này Đức Phật dạy rất hay: “Không từ bỏ gánh
nặng
đối với
các
thiện pháp”. Chúng tôi xin nêu
ra
một vài ví dụ để các bạn dễ hiểu nghĩa không từ bỏ gánh nặng đối
với các thiện pháp.
Ví dụ 1: Ăn uống ngày một bữa mà từ năm này đến năm
khác
không bao giờ ăn uống phi thời. Đó là không từ bỏ gánh nặng đối
với thiện pháp.
Ví dụ 2: Không ăn thịt chúng sanh tức là ăn trƣờng chay,
dù có bệnh đau đến chết, dù có sự bắt
buộc nào, dù có hoàn cảnh nhƣ thế nào nhất định không bao giờ
ăn thịt chúng sanh,
thì đó
là không từ bỏ
gánh
nặng đối với thiện
pháp.
Ví dụ 3: Ngƣời không ngủ nghỉ phi thời dù cho hoàn cảnh nào cũng nhất định không ngủ nghỉ phi thời; bằng mọi
cách cố gắng nỗ
lực kiên trì phá vỡ hôn trầm, thùy miên vô
ký. Đó là ngƣời không từ bỏ
gánh
nặng đối với thiện pháp.
Ví dụ 4:
Một ngƣời nghiện ngập thuốc
lá, rƣợu, thuốc
lào, thuốc phiện, v.v..., họ cố gắng
kiên
trì nỗ lực để cai nghiện
những loại độc dƣợc này và suốt
đời không còn uống rƣợu,
hút thuốc lá, thuốc lào, thuốc phiện
nữa.
Đó là những ngƣời
không
từ bỏ gánh nặng đối với thiện pháp.
Cho nên lời dạy này có một giá trị rất lớn đối với những
ngƣời tu
theo Phật Giáo, chúng ta phải nhớ lời dạy này mãi
mãi: “Vị ấy sống tinh cần, tinh tấn, trừ bỏ các pháp bất
thiện, thành tựu các
thiện pháp, nỗ lực, kiên trì, không từ bỏ
gánh
nặng đối với các thiện pháp”. Chúng ta khẳng định
câu
này có một giá trị rất lớn đối với những ai đi tìm
con đƣờng thoát khổ. Xét qua lời dạy này chúng ta nhìn lại
chúng trong tu viện Chơn Nhƣ thì thấy rất rõ ràng. Trong
những ngày
đầu, mới tới ở trong tu viện Chơn Nhƣ thì còn
giữ đƣợc thiện pháp nhƣng dần dần về sau họ đã từ bỏ gánh nặng thiện pháp
ăn ngủ phi thời, lại thêm
phá
hạnh độc cƣ, làm những việc thầm
lén tội lỗi mà không thấy. Bởi vậy tu nhƣ họ làm sao đạt
đƣợc cứu cánh rốt ráo. Tu để mà
có tu, chứ gánh nặng
thiện pháp họ đã
từ bỏ rồi.
Thƣa các bạn! Gánh nặng thiện pháp mà Đức Phật dùng ở
đây có ý nghĩa
rất là tuyệt vời. Phải
không
hỡi các bạn? Chỉ
có bốn từ “Gánh Nặng Thiện Pháp”, vậy
mà
không có ai gánh nổi thật là đau lòng cho thời đại mạt pháp này, tâm
đời thì không muốn bỏ mà lại muốn thêm
tâm đạo, thật là
tham lam vô độ. Nhƣ vậy muốn chấn chỉnh lại Phật Pháp
chúng
tôi còn biết trông cậy
vào ai!!!
Trong thời đại của chúng ta, ai là ngƣời không bỏ gánh
nặng thiện pháp? Thật khó mà tìm những bậc này. Nói
thiện pháp thì dễ, bỏ gánh thiện pháp thì dễ, nhƣng làm
đƣợc, gánh đƣợc thiện pháp thì không phải là chuyện dễ. Cho nên ai làm đƣợc, gánh đƣợc thiện
pháp đều là những
bậc
Thánh nhân, dù bất cứ ở thời gian nào quá khứ, vị lai và hiện
tại.
Thƣa các bạn! Pháp của Phật chỉ là thiện pháp, không có pháp gì huyền bí cao
siêu cả, không có thần thông phép thuật gì cả, chỉ có đạo đức không làm
khổ
mình, khổ ngƣời và khổ chúng sanh mà thôi. Không làm
khổ
mình, khổ ngƣời và khổ chúng sanh là giải thoát các bạn ạ! Chứng
đạo
là ngay ở chỗ đó, chứ đâu cần tìm ở đâu xa.
Cực Lạc,
Thiên Đàng, Niết Bàn, Phạm thể cũng từ nơi đó. Đây các
bạn
hãy nghe lời nói này của Đức Phật dạy: “Vị ấy không
tự hành khổ mình, không hành khổ ngƣời, ngay trong hiện
tại không tham dục, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm thấy lạc thọ,
tự ngã trú vào Phạm thể”.
Khi chúng ta không bỏ gánh nặng thiện pháp thì lúc bây giờ tâm chúng ta có niệm không phóng
dật, bởi vì niệm
không phóng dật là niệm
toàn thiện. Vì thế Đức Phật dạy:
“Vị ấy có niệm”. Chữ niệm
ở đây cô đọng quá, nếu không phải là hành giả tu xong thì không bao giờ hiểu đƣợc chữ
niệm
này. Ni ệ m
tức l à
n iệm k h ôn g
p h ón g d ật n h ƣ trên
ch ú n g tôi đ ã
n ói . Khi tâm có niệm không phóng
dật, thì
n gay lú c
b ấy giờ
ch ú n g
ta
thàn h tựu
niệm tuệ tối thắn
g tức
là trí
n h ớ
vô
cù n g tận , không có một điều gì ở quá khứ mà không nhớ, nên Đức Phật dạy: “Thành tựu niệm
tuệ tối
thắng, nhớ lại, nhớ lại nhiều lần những gì đã làm từ lâu, đã nói
từ lâu”.
Khi tu tập đến đây niệm tuệ tối
thắng xuất hiện thì mới bắt
đầu
có trí tuệ. Ở đây xin các bạn lƣu ý:
Niệm tuệ tối thắng
chƣa phải là trí tuệ, khi chúng ta tu tập nó sẽ tiếp tục nhớ
lại nhiều lần những gì đã làm từ lâu, đã nói từ lâu.
Từ sự tu tập đó
ta mới có trí tuệ, nên Đức Phật dạy: “Vị ấy có trí tuệ”. Khi có trí tuệ ta tiếp tục tu tập rèn luyện để
thành tựu trí tuệ về sanh diệt, trí tuệ thành tựu nhập Thánh thể tức là Niết Bàn, đƣa đến đoạn tận khổ đau. Ở đ oạn
k inh n ày
k h iến
ch o
c
ác n h à
h ọc giả k h ôn g
thể
hiểu
đƣợc và
cũ n g
k h ôn g thế n ào
k iến giải
và
tƣởn g giải đ ƣợc . Khi giảng đến đoạn kinh này họ chỉ lý luận loanh quanh. Xin các bạn vui lòng đọc lại đoạn kinh này, rồi chúng tôi sẽ hƣớng dẫn các bạn tu tập thì các bạn sẽ hiểu rõ hơn: “Thành tựu trí tuệ về
sanh
diệt, thành tựu Thánh thể nhập đƣa đến đoạn tận khổ đau”.
Thành tựu trí tuệ về sanh diệt, câu này nghĩa là gì? Câu này chỉ là một lời nói nhắc nhở chúng ta tu tập
có
trí tuệ thì phải thành tựu trí tuệ về sống chết tức
là trí tuệ Lậu Tận Minh, chứ không phải có trí tuệ nhớ lại nhiều đời nhiều
kiếp
mà thôi. Mu ốn thàn h tựu
trí tuệ về sự sốn g ch ết thì
p h ải
d ù n g n ăn g lực T rạch Ph áp Giác
Chi
mà d ẫn
trí tuệ về
san h
tử, về B át T h án h
Đạo,
về
n h ân
q u ả.
Kh i
thàn h tựu
trí
tuệ về san h
tử
xon g thì tiếp
tục
d ù n g T rạch Ph áp Giác
Chi
d ẫn trí
tuệ
n h ập
vào
T
h án
h thể (Niết Bàn) để hoàn toàn đoạn tận khổ đau.
Trên đây là phƣơng pháp tu tập để thực hiện trí tuệ Tam
Minh. Và đây là phƣơng pháp cuối cùng trong bảy pháp tu
tập trong Đạo Phật. Cho nên Đức Phật
kết
luận bài pháp này bằng câu: “Này
Mahanama, nhƣ vậy, vị Thánh đệ
tử thành tựu bảy diệu
pháp”.
Tóm
lại bảy pháp trên đây, nếu chúng ta biết cách tu tập cho đúng, thì con đƣờng giải thoát của Phật Giáo không còn bí ẩn không
còn
khó khăn nữa. Phải
không các bạn?
LỜ I P H ẬT DẠ Y
THÂN HÀNH NIỆM
“Thật vi diệu thay, chƣ Hiền Giả! Thật hi hữu thay, chƣ Hiền Giả! Thân Hành Niệm, khi đƣợc tu tập và làm cho
sung
mãn, có đƣợc quả lớn, có đƣợc công đức lớn, nhƣ đã đƣợc Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố”.
“Và này các Tỳ Kheo, Thân Hành Niệm tu tập
nhƣ thế nào,
có
quả lớn, có công đức lớn?”. (Trung Bộ kinh trang 265,
266).
CH Ú GIẢ I:
Muốn hiểu rõ pháp môn Thân Hành Niệm trong đoạn kinh
này
thì chúng ta cần nên xem xét những cụm
từ cho rõ nghĩa:
Thực hành
Tu tập
Làm cho sung mãn
Làm thành cổ
xe
Làm thành căn cứ
địa
Làm cho kiên
trì
Làm cho tích tập
Khéo tinh cần thực hành.
- Cụm từ thứ nhất: Thực hành có nghĩa là
làm theo phƣơng pháp đã dạy, phƣơng pháp dạy nhƣ thế nào thì làm đúng
nhƣ thế nấy. Nghĩa của thực hành là biến ra hành động
theo đúng lời dạy không làm
sai.
- Cụm từ thứ hai: Tu tập có nghĩa là sửa đổi tâm tánh, thiện xảo trong các pháp thực
hành, biết linh động khi thực
hành cho phù hợp trong mọi tình huống, mọi tâm trạng, mọi
hoàn
cảnh…
Chữ tu tập không có nghĩa là ngồi thiền, gõ
mõ
tụng kinh,
niệm
chú, niệm Phật…
Chữ tu tập của Phật giáo có nghĩa là tu sửa đổi những
lỗi lầm, để không còn lỗi lầm nữa, để
từ bỏ thói hƣ tật xấu, để
từ ngƣời xấu trở thành ngƣời tốt, để từ phàm phu trở
thành Thánh nhân.
Cho nên tu tập cũng có nghĩa là thực hành nhƣng thực
hành rất linh động
nhằm thực hiện đạo đức làm
ngƣời làm
Thánh, chứ không có nghĩa thực hành theo môn thể thao Võ công, Khinh công, Nội công, Khí công, Nhân điện,
Yoga…
Từ xƣa đến nay, ngƣời ta hiểu hai chữ tu tập là phải theo một tôn giáo nào và tu
tập để thành Tiên, thành Phật, để
đƣợc sinh về cõi Trời, cõi Phật, cõi Cực Lạc Tây Phƣơng,
chứ ngƣời ta không mấy ai lƣu ý tu là sửa sai những lỗi lầm, là ngăn ngừa các ác pháp và diệt trừ các ác pháp để
cho
tâm
đƣợc thanh thản nhẹ nhàng
an lạc v.v…
- Cụm
từ thứ ba: Làm cho sung mãn có nghĩa là cho nhuần nhuyễn, làm cho nhịp nhàng, làm cho thành một thói quen
từ hành động này
chuyển sang
những
hành động khác một cách tự nhiên không còn thiếu sót một hành động nào, rất là đầy
đủ
trong pháp Thân Hành Niệm.
Làm cho sung mãn, còn có nghĩa là làm cho khỏe mạnh,
làm cho dồi dào
năng lƣợng tăng cƣờng năng
lực.
- Cụm từ
thứ
tƣ: Làm thành cổ
xe có nghĩa là kết
hợp
tất cả mọi thân hành nội hay ngoại làm thành một cổ xe. Ở đây có nghĩa là tất cả thân hành ngoại nội nhƣ: Đi, đứng, ngồi, nằm, co tay duỗi chân và hít thở đều kết hợp lại nhƣ một vòng tròn bánh xe
và khi thực hành giống nhƣ bánh xe
lăn chung quanh một
cái
trụ. Khi tất cả những thân hành đều đƣợc kết hợp một cách chặt chẽ nên kinh dạy: “Làm thành
cỗ
xe kiên cố.” Khi cổ xe đã đƣợc thành lập kiên cố thì chúng ta mới đủ điều
kiện để cán
nát
giặc sanh tử luân hồi,
mới thắng đƣợc nghiệp lực
muôn đời
ngàn
kiếp.
- Cụm
từ thứ năm: Làm thành căn cứ địa có nghĩa là ngƣời
tu hành khi ôm pháp Thân Hành Niệm phải kết hợp chặt chẽ từ hành động này kế hành động khác liên tục không có
một
kẽ
hở, những hành động ấy phải miên mật
kín
nhƣ tƣờng đồng vách sắt
nên hôn trầm, thùy miên, loạn tƣởng,
hôn
tịch, ngoan không và vô ký không xen vào đƣợc và cũng không để các cảm thọ nhƣ: Thọ
lạc, thọ khổ, thọ bất
lạc bất thọ khổ tác động vào thân tâm đƣợc.
Có tu tập đƣợc nhƣ vậy mới thấy pháp môn Thân Hành Niệm
là căn cứ địa tốt nhất cho cuộc chiến đấu giành thắng
lợi làm chủ sanh tử
luân
hồi.
Nếu tu tập pháp Thân
Hành
Niệm mà tạo đƣợc một căn cứ địa thì giặc sanh tử luân hồi
không
tấn công vào đƣợc thân tâm thì sự tu tập của chúng
ta mới
hoàn
thành viên mãn.
Ví dụ: khi bạn tu tập pháp Thân Hành Niệm, lúc bấy giờ
pháp
ấy đã biến thân tâm của bạn là một căn cứ địa thì
không bao giờ có giặc loạn tƣởng, giặc hôn trầm thùy miên
giặc vô ký, trạo cử, giặc cảm thọ trong khi bạn ôm pháp tu tập thì nó không bao giờ đánh vào đƣợc, đó là bạn đã biến
pháp
môn Thân Hành Niệm
thành căn cứ địa nơi thân tâm
bạn, còn ngƣợc lại bạn còn bị những chƣớng ngại kể trên tác
động vào thân tâm đƣợc thì pháp môn
ấy chƣa trở
thành căn cứ địa. Chƣa trở thành căn cứ địa thì bạn hãy tập luyện nhiều hơn nhƣng cũng tuỳ ở giới luật của bạn có
nghiêm chỉnh hay chƣa?.
Trong lúc pháp môn Thân Hành Niệm của bạn chƣa thành căn cứ địa nhƣng nó vẫn thành tựu nhƣ một cổ xe kiên cố.
Tuy
rằng, nó còn có mọi chƣớng ngại pháp xâm chiếm vào, nhƣng bạn cứ ôm pháp tiến lên vƣợt qua các chƣớng ngại ấy mà chiếc xe Thân Hành Niệm
của bạn không dừng lại là bạn đã kết hợp các Thân Hành Niệm thành đƣợc cổ xe kiên cố. Nếu cổ xe bạn bị đứng lại khi bị những chƣớng ngại pháp thì bạn là ngƣời chƣa kết hợp các Thân Hành Niệm
trở
thành cổ xe mà chỉ mới tu tập pháp Thân Hành Niệm mà thôi.
Khi nào bạn thấy pháp Thân Hành Niệm của bạn không có
một chƣớng ngại pháp nào tác động vào thân tâm đƣợc. Là
nó đã
trở
thành căn cứ địa
của bạn.
Cụm từ thứ sáu:
Làm cho kiên trì có nghĩa
là.
Khi cổ xe Thân Hành Niệm đã trở thành căn
cứ
địa thì lúc bấy giờ chúng ta tăng
dần
thời gian lên từ 1 đến 5 giờ, từ 5 giờ đến 10 giờ, sự tăng
thời gian lên nhƣ vậy gọi là kiên trì trên pháp Thân Hành Niệm.
Cụm
từ thứ bảy: Làm cho tích tập có nghĩa là tích lũy sự tu tập càng lúc càng kiên cố và chặt chẽ hơn khiến không cho
một chƣớng ngại pháp nào tác động vào thân tâm đƣợc.
Nếu các bạn chỉ cần thiện
xảo một chút thì pháp Thân Hành Niệm
sẽ linh động tạo thành một nội lực mãnh liệt vô cùng.
Cụm từ thứ tám: Khéo tinh cần thực hành có nghĩa là từ
lúc
bắt đầu tu tập pháp Thân Hành Niệm là: Ph ải
k h éo
siêng n ăn g cần
mẫn tu tập k h ôn g
đ ƣợc gián đ oạn
b ỏ q ua
mộ t
giờ,
mộ t
p h ú t, một
giây
n ào cả,
ph ải
cố gắn g tinh cần
tập lu yện thì mới thấy đ ƣợc n h ữn g k ết q u ả của pháp môn
nầy.
HIỆU QUẢ CỦA PHÁP MÔN THÂN HÀNH NIỆM
Những hiệu quả của pháp môn Thân Hành Niệm nhƣ thế
nào?
Xin các bạn hãy lắng nghe lời Đức Phật dạy: “Cũng
vậy
này các Tỳ kheo, đối với vị nào tu tập Thân
Hành
Niệm, làm cho sung mãn, vị ấy
hƣớng tâm đã đƣợc chứng ngộ, nhờ
thắng
trí đến pháp
nào cần phải chứng ngộ nhờ thắng trí, vị ấy đối
mặt đƣợc sự tinh xảo của pháp ấy, dầu đến xứ nào. Ví
dụ,
này các Tỳ kheo trên đất
bằng tại chỗ ngã tƣ có một
chiếc
xe đậu, thắng với những con ngựa thuần thục, có roi ngựa
đặt ngang sẵn sàng, có ngƣời Mã Thuật Sƣ thiện xảo, ngƣời đánh xe điều ngự các con ngựa đáng đƣợc điều ngự, leo lên
xe ấy, tay trái cầm dây cƣơng, tay mặt cầm lấy roi ngựa, có
thể đánh xe ngựa ấy
đi tới đi lui tại chỗ nào và nhƣ thế
nào theo ý mình muốn. Cũng vậy
này
các Tỳ kheo, đối với vị nào
tu tập Thân Hành Niệm, làm cho sung
mãn, vị ấy hƣớng tâm đã đƣợc chứng ngộ nhờ thắng tri đến pháp nào cần phải chứng ngộ
nhờ
thắng trí, vị ấy đối mặt đƣợc sự tinh xảo (của pháp
ấy) dầu với giới xứ nào ?”
Khi tu tập Thân Hành Niệm
đã tạo thành căn cứ
địa
thì chúng ta muốn một điều gì thì chỉ cần hƣớng tâm
với
thắng trí của ta thì sẽ thấy kết quả ngay liền, có nghĩa là ta điều
khiển thân tâm một
cách dễ dàng với ý muốn của ta (thắng
trí) .
Trong bài kinh này có
nêu ra một ví dụ để ta thấy sự hiệu quả của pháp Thân Hành Niệm, nó giống nhƣ một cổ xe
ngựa, có những con
tuấn mã, dây
cƣơng và roi, đều sẵn sàng, ngƣời đánh xe
cũng đầy đủ. Khi ấy chỉ cần ra lệnh là điều khiển chiếc xe ngựa đi tới
đi lui, đi
chỗ nào cũng
đƣợc dễ dàng.
Hiệu quả của pháp môn Thân Hành Niệm cũng nhƣ vậy.
Khi ta tu tập pháp môn Thân Hành Niệm đã trở thành căn
cứ
địa thì bắt đầu các bạn điều khiển thân tâm của các bạn
nhƣ cổ xe ngựa.
Biết pháp môn Thân Hành Niệm là một pháp môn có đầy đủ thần lực
để điều khiển sự sống
chết và còn hơn thế nữa.
Mong các bạn hãy tinh cần tu tập
đừng
có
biếng trể để sớm làm chủ thân tâm
của mình và mang lại hạnh phúc an
vui cho mình cho ngƣời không sao kể hết.
TU
PHÁP MÔN THÂN
HÀNH NIỆM XUẤT HIỆN 10 CÔNG ĐỨC LỚN
Khi chúng ta tu tập pháp Thân Hành Niệm trở thành căn cứ địa thì xuất hiện mƣời công đức lớn.
Mƣời công đức lớn ấy
không thể nghĩ lƣờng. Vậy, chúng ta hãy lắng nghe
Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, Thân Hành Niệm đƣợc thực
hành, đƣợc tu tập, đƣợc làm cho sung mãn, đƣợc làm thành nhƣ cổ xe, đƣợc làm thành nhƣ căn cứ địa, đƣợc làm cho kiên trì. Đƣợc làm cho tích tập, đƣợc khéo tinh cần thực hành thì mƣời công đức ấy có thể mong đợi”.
Thế nào là mƣời ?
1/ Lạc, bất lạc đƣợc nhiếp phục và lạc, bất lạc không nhiếp phục vị ấy và
vị ấy làm nhiếp phục lạc, bất lạc đƣợc khởi lên.
2/ Khiếp đảm sợ hãi đƣợc
nhiếp phục và khiếp đảm sợ hãi
không nhiếp phục vị ấy và vị ấy luôn luôn nhiếp phục khiếp
đảm sợ
hãi đƣợc khởi lên.
3/ Vị ấy kham nhẫn đƣợc lạnh nóng, đói khát sự xúc chạm
của ruồi
muỗi, gió
mặt
trời, các loài rắn rết, các cách nói khó
chịu, khó
chấp
nhận.
4/ Vị ấy có khả năng chịu đựng đƣợc những cảm thọ về thân khởi lên khổ đau nhức
nhối, thô bạo chói đau, bất khả ý, bất
khả ái, đƣa đến chết điếng.
5/ Tuỳ theo ý
muốn không có khó khăn, không có mệt nhọc,
không có phí sức, vị ấy
chứng đƣợc Bốn Thiền thuần
tuý tâm tƣ hiện tại lạc
trú.
6/ Vị ấy chứng đƣợc các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân
hiện
ra một thân; hiện hình biến đi
ngang
qua vách,
qua tƣờng, qua núi
nhƣ đi ngang
hƣ không,
độn thổ trồi lên ngang qua đất liền nhƣ ở trong
nƣớc; đi trên nƣớc không chìm nhƣ đi trên đất liền, ngồi kiết già đi trên
hƣ không nhƣ con chim, với bàn tay chạm và rờ mặt trời mặt
trăng, những vật có đại oai lực đại thần lực nhƣ vậy, có thể thân có thần thông bay
đến
Phạm thiên với thiên nhĩ thanh
tịnh
siêu nhân có thể nghe hai loại tiếng chƣ Thiên và loài
Ngƣời ở
xa hay ở gần.
7/ Với tâm của vị ấy, vị ấy biết tâm của các chúng sanh,
các loài ngƣời, tâm có tham, biết tâm có tham; tâm có sân biết
tâm có sân; tâm không sân, biết tâm không sân; tâm có si,
biết tâm có si; tâm không si, biết tâm không si;
tâm chuyên
chú, biết tâm chuyên chú; tâm tán loạn, biết tâm tán loạn;
tâm đại hành, biết tâm đại hành; tâm không đại hành, biết
tâm không đại hành; tâm chƣa vô thƣợng, biết tâm chƣa vô thƣợng; tâm vô thƣợng, biết tâm vô thƣợng; tâm Thiền định,
biết tâm Thiền định; tâm không Thiền định, biết tâm không
Thiền định; tâm giải thoát, biết tâm giải thoát; tâm không giải thoát, biết tâm không giải
thoát .
8/ Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ nhƣ một đời hay
nhiều đời..vị ấy nhớ đến các
đời sống quá khứ với các
nét đại cƣơng và các chi
tiết.
9/ Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh ngƣời hạ liệt, kẻ cao sang,
ngƣời đẹp đẽ, kẻ thô xấu, ngƣời may mắn, kẻ bất hạnh đều
do hạnh nghiệp
của
họ.
10/ Với sự diệt trừ các lậu hoặc sau khi tự mình chứng trí với thƣợng trí, vị ấy chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại, tâm giải thoát tuệ giải thoát không
có lậu hoặc”.
Trên đây là một bài kinh nói về các công năng ứng dụng
vào đời sống của một vị tu hành theo Phật Giáo, khi họ
đã thực hiện pháp môn Thân Hành Niệm đúng pháp.
Do những công năng của pháp Thân Hành Niệm các bạn mới thấy Phật pháp thật là vĩ đại. Với chiếc thân ngũ uẩn vô thƣờng, vô ngã, bất tịnh, uế trƣợc, hôi thối chẳng ra gì
mà
khi tu tập lại có
những công năng thật kinh khủng,
ghê gớm thật sự. Công
n ă n g ấy giú p
con n gƣời thoát ra k h ỏi
k h ôn g gian
và
thời gian , làm ch ủ cả
vũ
trụ ,
kh ôn g có
một
vật gì
tác đ ộn g đ ƣợc sự b ất đ ộn g củ a tâm.
Kính thƣa các bạn! Sự tu tập theo Phật Giáo không phí
công,
phí của của các bạn chút nào cả,
nó rất xứng đáng với công lao tu tập của các bạn.
Năng lực thứ
nhất
xuất hiện trong khi
tu tập pháp môn Thân Hành Niệm, nó giúp các bạn nhiếp phục đƣợc các
cảm
thọ về lạc về khổ. Về các thọ lạc các bạn nhiếp phục
đƣợc thọ lạc về ăn, ngủ phi thời, thọ lạc về vui chơi trò
chuyện hội họp. Do đó, các bạn cũng nhiếp phục đƣợc nó,
cho nên không thích hội họp, không thích nói chuyện, bàn tào lao, chuyện trên trời, dƣới biển, chuyện về các
dục nhƣ:
Sắc
dục, dục danh,
dục lợi, dục chùa
to, Phật lớn, vv…
Về thọ khổ các bạn cũng nhiếp phục đƣợc khiếp đảm sợ
hãi,
kham nhẫn đƣợc trời nóng trời lạnh, đói khát kham
nhẫn
đƣợc ruồi, muổi, nắng, gió, mƣa, bão, rắn, rết, v.v… kham nhẫn đƣợc lời nói ác, lời nói vu khống, lời nói khó
chịu, lời nói khó
chấp nhận.
Về
thọ khổ trên thân nhƣ bệnh
tật đau ốm, v.v…vị ấy chịu đựng đƣợc những cảm thọ khởi lên nhƣ bệnh tật khổ đau nhói đau, thô bạo, bất khả ý, bất khả ái đau điếng, chết điếng. Đó là những sự kham nhẫn khó có ngƣời
bình
thƣờng mà kham nhẫn đƣợc, thế mà ngƣời tu pháp môn
Thân
Hành Niệm lại kham nhẫn đƣợc, thật là
tài tình.
Tu tập pháp Thân Hành Niệm
các bạn đều phải chấp nhận có những năng lực phi thƣờng, nhƣ trên các bạn đã thấy sức nhiếp phục, sức kham
nhẫn, sức chịu đựng mà không
thể một ngƣời bình thƣờng làm đƣợc.
Năng lực thứ sáu xuất hiện khi các bạn tu tập pháp Thân
Hành
Niệm năng lực này sẽ giúp cho các bạn, tuỳ theo ý muốn mà các bạn muốn nhập Bốn Thánh Định không có
khó
khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, chứng và nhập đƣợc Bốn Thiền hiện tại
lạc trú một cách dễ dàng.
Đọc đến năng lực thứ
sáu của pháp Thân Hành Niệm các
bạn
biết tu thiền của Phật Giáo không phải ngay trên Bốn
Thiền mà ta tu tập đƣợc. Cho nên các nhà Đại Thừa
ngay trên Bốn Thiền giải
thích loanh quanh giống nhƣ Tổ Khƣơng Tăng Hội trong sách An Ban Thủ Ý. Cho nên
đ ụ n g đ ến B ốn T h iền
các n h à h ọc
giả
xƣa và nay
đ ều
tránh
xa k h ôn g
d ám giải thích cứ
d ựa theo tron g k in h mà giải
thích ch ữ n gh ĩa
một cách k h ôn g rõ
ràn g,
k h ông
cụ thể nh ất
là k h ôn g
b iết p h áp h àn h , n ên càn g giải thích
thì càn g tối
n gh ĩa,
k h iến
ch o
n gƣời mu ốn tu tập T ứ Th án h
Địn h k h ông
b iết lối n ào tu .
Muốn tu tập
thiền định thì bắt đầu các bạn phải học và tu
tập sống đúng giới luật theo
phƣơng pháp Tứ Chánh Cần. Tứ Niệm Xứ và cuối cùng
phải
thực hiện pháp môn Thân
Hành
Niệm. Từ tu tập pháp môn Thân Hành
Niệm, nó mới
xuất hiện những năng lực siêu
phàm, từ những năng lực
đó đã giúp các bạn nhập các Thiền Định và thực hiện Tam
Minh. Năng lực thứ sáu
nói trên đã giúp các bạn nhập định một cách dễ dàng, không phải ở trên pháp Tứ Thánh Định
mà
tu tập. Cho n ên mu ốn n h ập
T
ứ Th án h Định thì ph ải có
n h ữn g n ăn g lực siêu việt
củ a
p h áp
T
h ân
Hàn h Niệm thì
mới mon g n h ập đ ƣợc .Nếu không có những năng lực này thì khó
mà nhập đƣợc.
Qua kinh nghiệm
tu tập theo giáo pháp của Đức Phật.
Chúng tôi nhận xét
Thiền Đông Độ, Thiền Đại Thừa và các
loại Thiền khác đều là những loại thiền tƣởng, thiền điên,
tu hành chẳng làm
chủ sự sống chết mà còn trở thành điên khùng, rối loạn thần kinh, nhập định ngay trên pháp ức
chế tâm
làm cho hết vọng tƣởng, khi hết vọng tƣởng gọi
là nhập định thì chỉ có ngƣời chƣa bao giờ nhập định mới tin,
còn n gƣời có nh ập đ ịnh
thì
h ọ tội n ghiệp ch o n h ữn g
n gƣời
mù n ói
về
con voi . Hầu hết hiện giờ chƣa có ngƣời nào biết
về thiền định nên mới tu theo Thiền Đại Thừa và Thiền
Đông Độ, Thiền Minh Sát, v.v…Chứ một khi họ đã
nhập
đƣợc định, nhất là nhập Tứ Thánh Định thì họ sẽ n h ận xét
sự tu tập Th iền Đại T hừa,
T
h iền Đông Độ, Thiền
xu ất h ồn ,
T
h iền vô vi, và Th iền Min h S át
Tu ệ
là
n h ững loại thiền
tƣởn g,
tu
h àn h
ch ẳn g đ i
đ ến
đ âu , có nghĩa những loại thiền này tu chơi cho có hình thức tu, chứ không có ích lợi gì cho
đời sống của họ. Họ tu tập chỉ là biểu dƣơng những hình thức
lừa đảo nhƣ ngồi thiền 5, 6 tiếng đồng hồ hoặc khi chết để lại nhục thân hoặc xá lợi.
Có nhiều vị tu hành còn
cầu
danh, cầu lợi nên sử dụng một vài thần thông tƣởng, tiết lộ chuyện quá khứ vị lai của ngƣời khác để dễ lừa đảo
làm tiền ngƣời khác, nhất là
tín đồ mê tín.
Những loại thiền tu tập
không
có
ích lợi thực tế chỉ là một trò ảo thuật lừa đảo ngƣời để đƣa ngƣời vào thế giới ảo
tƣởng gây mê tín lạc hậu, lợi dụng những điều này để cất
chùa to Phật lớn, để sống một đời sống dục lạc
đầy
đủ theo kiểu thế gian bằng
chiếc áo tôn giáo !
Thƣa các bạn, những năng lực của pháp môn Thân Hành Niệm
từ thứ tám trở lên là những năng lực siêu việt mà
ngƣời ta gọi là thần thông. Ở đây các bạn phải hiểu, nó
không
phải
do luyện tập pháp môn thần thông mà có thần
thông. Nó có năng lực làm đƣợc nhƣ vậy là do tâm thanh tịnh không còn tham sân si và các ác pháp. Tâm thanh tịnh không còn tham, sân, si
và các ác pháp là do sống đúng, từ giới luật nghiêm
chỉnh. Muốn giới luật nghiêm chỉnh thì phải tu tập pháp môn Thân Hành Niệm.
Từ pháp môn
Thân
Hành Niệm mới có những
năng
lực xuất hiện
để
trợ giúp cho các bạn làm
chủ sự sống
chết. Năng lực ấy rất phi phàm, nó có đƣợc không ngoài Giới Luật và pháp môn Thân
Hành Niệm. Ngoài
hai pháp
môn trên đây thì không
có
pháp nào có đủ năng lực làm
những việc phi thƣờng nhƣ
vậy.
Đây, các
bạn
hãy lƣu ý năng lực siêu việt
thứ sáu của pháp môn Thân Hành Niệm. Một
năng lực kỳ lạ vô cùng mà không ai ngờ đƣợc, một ngƣời chỉ có một thân hình, thế mà khi ngƣời ấy muốn có 1000 thân hình nhƣ nhau thì tức khắc lại hiện ra 1000 thân hình ngƣời giống nhƣ nhau đúc, nó không phải là những hình bóng mà là con ngƣời thật bằng xƣơng bằng
thịt nếu chúng ta sờ mó vào những
ngƣời
này thì không khác gì
ngƣời thật.
Ông Châu Lợi Bàn Đặc khi tâm thanh tịnh, Ông biết mình
đã
chứng đạo vô lậu nên ra lệnh một thân của Ông phải
biến
ra 1000 thân Châu Lợi Bàn Đặc, hiện ra ngồi đầy
rừng.
Thƣa các bạn, ông Châu Lợi Bàn Đặc đâu có luyện tập thần
thông, Ông chỉ đƣợc Đức Phật dạy quét tâm. Tức là tu
Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ, lúc nào ông cũng cố gắng
khắc
phục những tham ƣu trên bốn chỗ thân, thọ, tâm,
pháp của ông, thế mà Ông đã thành tựu viên mãn đạo giải
thoát.
Một pháp môn giúp cho tâm các bạn xả ly ác pháp và
tất cả
dục, nên hoàn toàn tâm
đƣợc thanh tịnh, từ tâm
thanh tịnh ông Châu Lợi Bàn Đặc mới nhận ra đƣợc một năng lực kỳ
lạ, một thân làm ra đƣợc nhiều thân, nhiều thân làm lại
một thân, đó
là năng lực siêu việt thứ nhất của pháp môn
Thân
Hành Niệm.
Mọi vật đều bị cách nhau bởi không gian, thế mà ngƣời tu
hành đúng pháp Tứ Niệm
Xứ và
Thân Hành Niệm
thì một
năng lực kỳ lạ xuất hiện thì không gian không còn ngăn cách nữa. Cho nên, một ngƣời tâm thanh tịnh không còn tham
sân si thì họ đi ngang qua vách, qua tƣờng, qua núi nhƣ đi ngang
hƣ không: Họ độn thổ chui xuống đất trồi lên
đất
liền nhƣ ở trong nƣớc. Đó là một năng lực thứ hai của
Pháp môn Thân Hành Niệm mà ít có ai ngờ đƣợc. Từ lâu các nhà tiểu thuyết Trung Hoa giàu tƣởng tƣợng nói ra những điều này,
chứ xƣa nay chƣa có ai làm đƣợc.
Mọi vật đều có trọng lƣợng khi rơi xuống nƣớc đều bị chìm
thế mà ngƣời tu tập Thân Hành Niệm xuất hiện đầy đủ năng lực thì đi trên nƣớc không chìm nhƣ đi trên đất liền, ngồi
kiết
già thân bay lên hƣ không
nhƣ chim, một năng
lực kỳ lạ làm mất trọng lƣợng của thân ngƣời thật là vĩ đại mà từ xƣa tới nay,
chƣa từng ai làm đƣợc, thật là hy
hữu.
Một năng lực mà chƣa bao giờ ai dám nghĩ mà lấy tay rờ
mặt trăng mặt trời. Thế mà pháp Thân Hành Niệm tu tập
lại xuất hiện một khả năng siêu việt ngoài sức tƣ duy suy
nghĩ của con ngƣời. Nhƣng những lời này do Đức Phật nói. Không lẽ Đức Phật lại nói láo sao? Chúng tôi tu hành cảm
nhận
đƣợc mình có khả năng có thể làm đƣợc nhƣ vậy, nhƣng thấy nó chỉ làm trò ảo thuật
chơi, chứ không có ích
lợi thiết thực cho đời
sống hằng ngày, vì
thế chúng tôi
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!