Khi một người chết thì tưởng uẩn và
tưởng thức cũng tan
hoại
theo năm uẩn của nó, thì thử hỏi linh hồn của con
người
làm
sao còn được?
Vậy mà sự vô minh, mê muội của con người không thấy như thật, nên cho người chết còn có linh hồn bất tử luôn luôn đi
tái sanh luân hồi thì
thật
là sống trong mơ mộng.
Do không chân thật
nhận ra bằng ý thức, mà chỉ nhận qua
trạng thái tưởng uẩn
và tưởng thức của chính bản thân mình lưu xuất. Vì thế mà thế giới siêu hình không một ai dám
xác
nhận thế giới siêu hình không có. Thậm chí, cho đến các nhà khoa học dù ở phương Đông cũng như ở
phương Tây, không có một nhà khoa học nào dám khẳng định không có thế giới siêu hình, vì không thể đem
khoa học chứng minh chính
xác được những hiện tượng xảy ra
của
tưởng
uẩn
và tưởng thức.
Những nhà ngoại
cảm
đã mang đến những hiện tượng siêu hình, khiến cho các nhà khoa học không thể giải thích
được, nên đành phải im
lặng, nhưng cũng không dám bảo
rằng có, cũng không dám bảo rằng không. Nếu bảo không có thì không giải thích được những hiện tượng siêu hình thì ai tin cho, còn bảo rằng có thì
không chứng minh được
những hiện tượng như sương, như khói, không gian và
thời gian không
bị chia cắt và trải
dài là
cái gì?
Khi các nhà Khoa học không chứng minh những hiện
tượng của tưởng uẩn được là vì trí tuệ của các
nhà
khoa học còn trong sự hạn chế của trí tuệ hữu hạn. Còn những nhà tu hành đạt được trí tuệ vô hạn nên họ đã thấy biết
rất
rõ ràng các pháp trong vũ trụ.
Khi họ
nói
ra một điều gì,
nếu chúng ta chịu khó tư duy,
suy
nghĩ thì chúng ta sẽ hiểu
một
cách cụ thể,
không
có mơ hồ
và trừu tượng.
Bởi vì trong hiện tại chúng ta nói, làm, suy nghĩ một việc
gì thì những việc
ấy còn lưu lại mãi trong không gian mà
không
bao
giờ mất. Vì thế tưởng uẩn của các nhà ngoại
cảm bắt gặp những âm thinh, sắc tướng đó. Nhưng vì là
tưởng
uẩn
muốn trình bày sự bắt gặp đó, nó
phải dùng hai trường
hợp:
1- Phải thể hiện qua
giấc mộng (chiêm bao).
2- Phải thể hiện qua sự nhập xác (đánh thiếp, lên đồng, nhập cốt...)
Không thể mượn ý thức
diễn
đạt, vì bấy giờ ý thức
không
còn
hoạt động, vì thế tưởng thức chỉ còn có cách thể
hiện diễn đạt bằng hai cách nói
trên.
Do tưởng uẩn diễn đạt như vậy, nên chúng ta mới lầm tưởng có linh hồn người về nhập xác người sống. Và còn
nhiều hiện tượng khác nữa như: Sắc tưởng (hình bóng
như
sương như khói v.v...), thinh tưởng (tiếng than khóc,
tiếng kêu, tiếng hú giữa ban đêm v.v...), xúc tưởng (cảm giác ớn lạnh, gió lay bức màn, xúc tưởng loài bướm bay
hoặc
đậu nơi người
vừa chết,
v.v...).
Tất cả những hiện tượng này xảy ra,
nếu không có một
người tu chứng, vượt qua tưởng uẩn thì không ai dám
bảo rằng: Không có thế giới siêu hình, có nghĩa là có đời sống sau
khi chết.
Từ khi chúng tôi được sanh làm
người thì cái thế giới siêu
hình luôn luôn được ngự
trị trong chúng tôi,
trên hết là cõi
Niết Bàn tức là cõi Phật, kế đó là cõi Trời tức là cõi của chư Thiên ở, cõi Thần,
Thánh, cõi quỷ, cõi ma, v.v...Tất cả
những cõi trên đây đều là những cảnh giới của thế giới
siêu hình hay nói cho dễ hiểu hơn là cõi của những linh
hồn
người chết. Đến khi tu tập, nhập
được các định, vượt
qua
được tưởng uẩn, chúng tôi mới nhận thấy, thế giới
linh hồn của người chết không có, nhưng chúng tôi không
nói
ra, nói ra sợ người ta không tin. Đến k h i đ ọc
lại
toàn
b
ộ k
inh sách từ Đại Thừa
đ
ến Nguyên Th ủ y thì chúng tôi
thấy b ài
k in h
Ph áp
Môn Căn B ản tron g k inh T ru n g
B
ộ,
đ
ức Ph ật đ ã xác đ ịn
h th ế giới siêu h ìn
h k
h ôn g có
. Bài kinh
này
là một cơ sở vững chắc để triệt tiêu thế giới siêu hình.
Nhờ có triệt tiêu thế giới siêu hình thì mới có thể xây dựng
nền đạo đức nhân bản nhân quả cho loài người trên hành
tinh này. Nếu
thế
giới siêu h ìn h có,
thì
lu ật n h ân q u ả
k h ôn g có, lu ật n h ân
q uả k h ôn g có thì k h ôn g thể có
sự côn g
b ằn g
và côn g lý
và l oài n gười chỉ là
l oài ác th ú
.
Muốn cho cuộc sống của con người có công bằng và công lý thì đạo đức nhân bản nhân quả phải được triển khai, biên soạn và viết ra thành bộ sách đạo đức làm
người để
giúp
cho con người biết cách thực hiện sự
công bằng và công lý trên hành tinh này.
Muốn cho cuộc sống của con người có công bằng và công lý thì trước tiên chúng ta phải triệt tiêu thế giới siêu hình,
như
chúng tôi đã nói ở trên. Vì còn có
thế
giới
siêu
h ìn h
thì ch ú n g ta k h ôn g
thể
áp
d ụ n g đ ạo
đ ức n h ân b ản
- nhân
q u ả
vào cu ộc sốn g củ a loài
n gười đ ược
.
Nếu không áp dụng đạo đức nhân bản - nhân quả vào cuộc sống của loài người thì loài người không còn có sự
công bằng và công lý
nữa
và vì vậy cuộc sống của loài
người sẽ khổ đau không cùng tận. T h ế gian n ày
là đ ịa
n gụ c trần
gian
. Cho nên mỗi người phải có tầm nhìn
xa
hiểu
rộng để dẹp bỏ những ảo tưởng của thế giới siêu hình
mới
mong có ngày trái đất này là Cực lạc, Thiên
Đàng
v.v...
vvv
TU
TẬP CÓ ĐỐI TƯỢNG
Hỏi
: Kính thƣa Thầy! Con tu tập xả tâm bằng cách: Lấy ngƣời khác thƣờng làm khó khăn, làm đối tƣợng tu
tập
buông xả, dẹp bỏ sân, si, phiền não. Nhờ tu tập nhƣ vậy lần lần thấy hết và những khó khăn đƣợc gỡ
dần, bản thân con thấy an ổn hơn. Bây giờ con bắt đầu tập xả tâm nhớ thƣờng tƣơng tự nhƣ vậy. Con trình Thầy cách tập luyện nhƣ vậy có
đƣợc không?
Đáp
: Được, đó là lấy đối tượng tu tập Định Vô Lậu,
rất thực
tế và cụ thể, Có đối tượng tu tập Định Vô Lậu để xả
tâm
diệt ngã, ly dục ly
ác pháp.
Cách thức tu tập này rất khó, nếu là người có chí, có nhiệt tâm, có nhiệt huyết tìm
đường tu hành để giải thoát đau khổ của cuộc
đời thì một thời gian ngắn đã giải thoát hoàn
toàn, đắc định và chứng Tam
Minh không có khó khăn.
Bằng
ngược lại thì đau khổ nhiều, tâm thường sanh oán
hận. Nếu tâm thường sanh oán hận, người này đang sống
trong cảnh địa ngục và cuối cùng cuộc đời tu hành của họ
cũng chẳng có ích gì cho chính bản thân họ, lại càng làm
cho
họ khổ
đau hơn.
Lấy đối tượng tu tập Định Vô Lậu là phải thông suốt lý nhân quả, lý
duyên hợp, thân ngũ uẩn, và còn phải
dùng pháp
hướng tâm “tâm
nhƣ cục đất”, phải tập tỉnh thức
trong mọi công việc làm
hàng ngày, phải thiểu dục tri túc; phải
giữ gìn
sáu căn: Mắt, tai, mũi,
miệng, thân và ý không cho dính mắc sáu trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp. Có tu tập như vậy kết quả giải thoát hiện tiền, mới đem lại đời sống an lạc, hạnh phúc chân thật cho chính bản thân của
mình.
Tu tập có đối tượng, tức là tu tập Tứ Chánh Cần, tu tập
Tứ
Chánh Cần có bốn phần:
1- Ngăn ngừa các ác pháp, giúp tâm không phóng dật theo
các pháp bên ngoài.
2- Đoạn diệt các ác
pháp, quyết tâm
tận diệt các ác pháp, khi các
ác pháp đã làm
chướng ngại tâm, làm cho tâm phiền
não và khổ đau.
3- Luôn luôn giữ gìn và bảo vệ tâm trong thiện pháp,
không để tâm bị ác pháp xâm chiếm.
4- Lúc nào cũng tìm mọi cách để tâm
được thanh thản, an
lạc và vô sự.
Tu có đối
tượng là người phải có nghị lực, dũng cảm, gan dạ, kiên nhẫn, bền chí. Luôn luôn chiến đấu, nhưng quyết
định phải dành được
phần
thắng về mình, nhất định là
không
chịu thất bại trước các ác pháp nào cả.
Người có ý chí có quyết tâm như vậy thì chắc chắn phải
thành tựu viên
mãn
trong sự tu tập.
Tu có đối tượng tuy khó, nhưng kết quả dễ
nhận
ra và nhận ra rõ ràng, cụ thể. Tu tập có đối tượng không sợ bị ức chế tâm, không sợ lạc vào thiền tưởng, nhưng
phải tránh sự chịu đựng.
Tu tập có đối tượng dễ phát triển tri kiến giải thoát, vì phải thường xuyên quán xét, tư duy, suy nghĩ, làm việc nhiều về trí óc. Phát triển tri kiến giải
thoát tức là phát triển
trí tuệ đạo đức nhân bản - nhân quả.
Người tu tập phát triển tri kiến
giải thoát là người sống
đúng
giới luật không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả.
Nhờ đó tâm họ ly dục ly
ác pháp một cách dễ dàng.
Tâm
ly dục ly ác pháp là tâm không phóng dật. Người tu
hành tâm không phóng dật là tâm giải thoát. Như Đức
Phật đã dạy: “Ta thành Chánh giác là nhờ tâm không phóng dật, muôn pháp lành cũng
từ nơi
đó sanh ra”.
XẢ SẠCH
Hỏi : Kính thƣa Thầy! Biết
bao giờ tâm con mới xả
sạch?
Đáp : Nếu thấu rõ đời sống con người là khổ,
khổ như thật.
Trong cõi đời này không có một vật gì là của mình, là
mình cả. Và những vật ấy không bao giờ thường còn mãi mãi, luôn có sự thay đổi vô thường từng phút giây. Vì thế, sáng vui, chiều khóc, chiều vui, sáng khóc. Đời sống con
người là vậy vui ít, khổ nhiều, có gì là hạnh phúc đâu; có
gì mà tham đắm.
Nếu một người không biết nhàm chán những sự cám dỗ của cuộc
đời này, để
vượt
ra
khỏi những khổ đau của kiếp
làm người, mà cứ mãi đắm chìm theo dục
lạc của nó thì khó
mà buông xả sạch.
Nếu không chịu khó thường quán xét, tư duy thì không thể nào thấu suốt lý vô
thường, khổ đau và vô ngã của vạn pháp trong thế gian này, thì làm sao
buông xả sạch vạn pháp cho được.
Nếu tâm còn ham thích, chưa ngao ngán, chán chường cuộc sống này, thì
làm sao xả bỏ
sạch được, nếu xả bỏ sạch
không
được thì cuộc đời tu hành chỉ hoài công vô ích mà thôi.
Đạo
Phật
là đạo buông xả, có nghĩa buông xuống không dính mắc bất
cứ
một vật nào cả, còn dính mắc, dù cho một
pháp
nhỏ nhất như đầu mũi kim thì cũng chưa chấm
dứt
sanh
tử, luân hồi.
Buông
xuống, không
có nghĩa trốn tránh,
tiêu
cực trong cuộc sống, như có một số nhà học
giả hiểu Phật giáo
như vậy, hiểu trong tinh thần tiêu cực, thụ động. Ngược lại Phật giáo buông xuống, nhưng có nghĩa là tích cực, năng nổ làm việc để đem lại cho mình cho người có một cuộc sống ấm no đầy đủ, nhưng không vì vật chất mà chà đạp, xâu xé lên nhau để chiếm đoạt về phần mình nhiều hơn. Do
đó buông xuống có nghĩa là không dính mắc, chứ không có nghĩa
tiêu cực không làm việc.
Nhàm
chán không có nghĩa là chán đời. Ở đây
có
nghĩa là thấu suốt được vạn pháp không
có thực
thể, nên
tâm không còn tham đắm và
dính mắc nó
nữa.
Nói buông xả có nghĩa là sống một đời sống ly dục ly các ác
pháp, khiến cho tâm mình thanh thản,
an lạc và vô sự.
Nói buông xả, là nói đến một
đời sống đạo đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ mình, khổ người. Một đời sống đức hạnh tuyệt vời
mà
mọi người hằng
mơ ước.
Bởi vậy con hãy cố gắng
xả cho thật sạch. Xả cho
thật sạch thì tâm con được an lạc, thanh thản và vô sự. Một trạng thái vô cùng an ổn và lợi ích cho muôn vạn người và tất cả
chúng sanh, chứ
không ích kỷ, nhỏ mọn, hẹp hòi như
cuộc
sống của con người hiện
nay. Con người hiện
nay đang sống
trên
sự đau khổ của muôn loài chúng sanh, nhưng vô tình
họ nào có hay biết gì đâu.
Con hãy cố gắng
xả cho thật sạch thì sự tu tập của con
không phí bỏ vô ích một kiếp làm người. Vì những điều con muốn biết, muốn hiểu, con đều sẽ
hiểu
biết tất cả. Không gian và thời gian không còn chia cắt và ngăn cách
đối
với con nữa. Rồi con sẽ hiểu: “Con ngƣời từ đâu sanh ra và
chết đi về đâu” ?
Và con còn sẽ hiểu hơn nữa: “Không có con ngƣời sanh tử
mà
chỉ có sự thay đổi hợp, tan của môi trƣờng sống theo định luật của nhân quả”.
Hãy cố gắng tu tập buông xả con ạ! Không uổng phí công tu tập, không hoài
công đâu con ạ!
Buông
xuống đi! Hãy buông xuống
đi! Chớ giữ làm chi có ích gì.
Ôm vào
đau khổ vô cùng tận,
Buông
xuống ngay liền vạn khổ đi.
Buông
xuống
đi! Hãy buông xuống
đi,
con sẽ thấy hạnh
phúc
vô cùng, vô tận.
Cuộc sống của con người chỉ là một vở tuồng trên sân
khấu
nhân quả, có đáng gì cho chúng ta đắm mê, mà
không buông bỏ được phải không hỡi con? Chỉ toàn là
khổ
đau, khổ đau vì tranh ăn; khổ đau vì danh lợi; khổ
đau
vì hơn thua,
v.v...
Cho nên đạo Phật ra đời dạy: “Con ngƣời bỏ xuống tất cả
các
ác pháp và sẽ đƣợc tất cả các thiện pháp ”. Đó
là một bí quyết bảo vệ môi trường sống trên hành tinh này, đem lại cho muôn loài một đời sống
công
bằng
và công lý.
TÂM NHƯ ĐẤT
Hỏi
: Kính thƣa Thầy! Tâm nhƣ cục đất có xả sạch đƣợc chƣa?
Đáp
: Tâm như cục đất là tâm con đã xả sạch, chừng
đó con chẳng cần tu tập thiền định nào cả, lúc nào con cần
nhập
định là nhập được ngay liền, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có
phí sức.
Tâm
như
cục đất, đó là sự ước muốn của con. Muốn cho tâm không còn
tham,
sân, si, mạn, nghi nữa,
khi tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa là tâm hết khổ đau. Sự ước muốn như vậy, nếu con không cố gắng khắc
phục
tâm mình ly tham, đoạn ác pháp thì làm
sao tâm
thành đất được.
Muốn cho tâm thành đất thì con phải tu tập Bát Chánh Đạo. Nói tu tập Bát Chánh Đạo là nói cách thức sống ngăn ác
diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp hay
nói
cách khác là
sống toàn thiện.
Muốn sống toàn thiện thì phải có Chánh kiến,
Chánh kiến tức là thấy đúng nhân quả thiện và ác, chứ không phải
thấy đúng, sai, phải, trái, tốt,
xấu, v.v...
Trong cuộc sống bất cứ một
việc gì xảy đến, chúng ta đều phải nhìn với lòng thiện, lòng từ, lòng bi, lòng
hỷ,
lòng xả. Nếu chúng ta nhìn thấy bất cứ việc gì với lòng bất thiện,
lòng
không từ, không bi, không hỷ, không xả thì ác pháp
sẽ đến với chúng ta. Và vì thế tâm chúng ta sẽ khổ đau, và như
vậy tâm không thể thành đất được.
Muốn tâm
thành đất chúng ta phải có sự tư duy, suy nghĩ
thiện và ác trong bất cứ một sự việc gì xảy ra, thiện thì
chúng ta tăng trưởng để mà sống, không làm khổ mình
khổ
người, còn ác thì chúng ta tư duy suy nghĩ quét sạch những pháp ác ấy ra khỏi tâm, để đem lại cho tâm một sự
thanh thản, an lạc và vô sự. Nhờ có tu tập được như vậy
thì cuộc sống mới có an vui, hạnh phúc.
Muốn tâm thành đất thì chúng ta khéo léo giữ gìn tâm
không phóng dật.
Giữ gìn tâm như
thế nào?
Muốn giữ gìn tâm thì luôn lúc nào cũng phải nhớ nhắc
tâm: “Tâm
không đƣợc phóng dật, phải định vào thân đi”
hay “Tâm định vào hơi thở đi”, hoặc “Tâm
nhƣ đất lìa tham, sân,
si,
mạn, nghi đi”.
Trong tất cả câu pháp
hướng này, tùy
theo mọi người mà
chọn lấy cho mình một câu phù hợp với đặc tướng, còn riêng Thầy
thì câu: “Tâm không
đƣợc phóng dật phải định vào
hơi thở
đi”,
thì rất phù hợp.
Tại sao vậy?
Tại
vì câu này có
hai tác dụng:
1- Bắt buộc tâm không được phóng
dật
theo ra các pháp.
2- Bắt buộc tâm phải
định vào
hơi
thở (định vào
thân).
Nếu tâm không phóng dật là
tâm
thành đất, tâm thành đất
là tâm
bất
động, tâm bất động là con đã viên mãn con
đường tu tập theo Phật giáo
của mình.
ĐỘC
CƯ
Hỏi : Kính thƣa Thầy, xin Thầy giảng lại cho con hiểu
rõ
chỗ độc cƣ?
Đáp
: Mục đích của độc cư là giữ tâm chuyên nhất vào pháp hướng để tu tập, không phóng tâm ra ngoài. Người không giữ hạnh độc cư, thường để tâm phóng
dật chạy theo trần cảnh bên ngoài, sanh ra trạo cử gọi là tuôn trào, khi tâm tuôn trào chạy đi nói chuyện đầu
này, đầu kia,
sanh
ra nhiều ác pháp, khiến cho mình
và
người khác
không an để tu tập, đó là đã phá hạnh độc cư, làm hại
mình hại người. Người phá hạnh độc
cư, được xem là người đã tu sai pháp, khiến tâm không bao giờ buông xả được. Họ chỉ nói buông xả, chứ thật ra tâm tham, sân, si,
mạn, nghi vẫn còn đầy đủ. Vì thế lòng thương, ghét, thù, oán, tị hiềm, v.v...
không mất một chút nào cả. Và cuối cùng họ còn hiểm độc, gian xảo, hung ác hơn những người
chưa
tu,
chỉ
vì họ bị ức chế tâm.
Đức Phật gọi tâm này là tâm phóng dật. Người tu hành
còn
để tâm phóng dật thì không thể tu theo đạo Phật
được, nên trở về sống
đời sống thế gian, trau dồi đạo đức
nhân
quả, thì không
mang
nợ
của đàn na thí
chủ.
Người tu hành nhập thất từ 1 tháng đến 3 tháng, rồi xả
thất
ra đi ta bà chỗ này đến chỗ
kia... Sau đó rồi trở về tu
tập lại. Nếu người nào cứ tu như vậy thì suốt
đời tu hành cũng chẳng
tới đâu, vì luôn luôn phá hạnh độc cư.
Người sống độc cư không chịu nổi là người không thể tu
thiền
định của đức Phật được.
Người muốn sống độc cư được
trọn vẹn thì phải giữ tâm trong các pháp
hành
thật
miên mật, không được để có kẽ hở.
Còn có kẽ hở thì tâm theo kẽ hở đó mà phóng ra, khiến
cho chúng ta cảm thấy cô đơn vô cùng. Từ đấy tâm dễ sanh buồn chán và sự tu hành bắt đầu chểnh mảng, tâm không còn thích tu nữa. Do đó sự tu hành chỉ còn tu lấy lệ cho qua
ngày.
Khi sống không đúng độc cư, con bị phóng tâm
chạy theo ngoại cảnh. Do đó con tu thiền dù bất cứ loại thiền
nào, con cũng
sẽ rơi
vào tà thiền.
Tà Thiền ở đây có nghĩa là loại thiền không làm chủ được
sự sống chết và không chấm dứt luân hồi
tái sanh.
Bởi hạnh độc
cư
rất quan trọng, nếu một người tu mà không giữ gìn trọn vẹn hạnh này thì uổng phí một đời tu,
chẳng có
kết
quả gì.
Những tu sĩ đến đây tu
hành nhìn qua hạnh độc cư là biết
người tu được hay không tu được. Ngày
xưa, Đức Phật đã
đuổi
500 vị Tỳ kheo không giữ gìn hạnh độc cư, mặc dù đó
là những đệ tử của ông Xá Lợi Phất và ông Mục Kiền
Liên.
Gần 20 năm
Thầy
đón nhận những người về đây tu tập
chưa
tìm thấy một người
nào
giữ hạnh độc cư trọn vẹn.
CÁI THẤY,
CÁI NGHE, CÁI
CẢM
THỌ, CÁI TƯỞNG, CÁI
THỨC
TRI KHÔNG PHẢI
LÀ CỦA CON NGƯỜI
LỜ I P H ẬT DẠ Y
“Vậy này
Bàhiya, Ngƣơi cần phải học tập nhƣ sau: “Trong cái thấy
sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe
sẽ chỉ là cái nghe.
Trong cái thọ tƣởng sẽ chỉ là cái thọ tƣởng. Trong cái thức tri sẽ chỉ là cái thức tri. Do vậy, này Bàhiya, Ngƣơi không là chỗ ấy.
(Tạng kinh Phật Tự Thuyết trang 298)
CH Ö GIẢ I:
Trong kinh Đại Thừa và Thiền Tông thường cho rằng:
Cái biết, cái thấy,
cái nghe là Phật tánh, còn ở kinh này
đức
Phật lại dạy khác: “Cái
biết, cái thấy, cái nghe không phải là Ngƣơi, là của Ngƣơi”. Sau khi ngộ được lý này,
Bàhiya là một tu sĩ ngoại đạo đã giác ngộ được Niết Bàn và chứng
quả A La Hán.
Câu chuyện xảy ra trong thời đức Phật như sau: “Bà La Môn Bàhiya đƣợc mọi ngƣời cung kính, tôn trọng, cúng
dƣờng… nên Ông nghĩ rằng: “Với ai là bậc A La Hán hay
đang
đi trên đƣờng A La Hán,
thì
Ta là một trong những vị
ấy”. Đƣợc biết những tƣ tƣởng này, có một ngƣời thân của
Bà La
Môn Bàhiya nói: “Này Bàhiya, Ngƣơi
không phải là A
La Hán và cũng không phải ngƣời đang đi trên con đƣờng A La Hán.
Ngƣơi không có
đạo lộ ấy. Ngƣơi nên đến
yết
kiến Tôn Giả Gotama bậc A La Hán Chánh
Đẳng Giác thì ngƣời sẽ rõ”.
Sau khi đến gặp Tôn Giả Gotama ba lần hỏi đạo, trong
khi
đức Phật đang đi khất thực, nên không thể giảng nói dài dòng được. Vì thế đức Phật chỉ thẳng: “Cái biết, cái
thấy, cái nghe không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta”. Khi được đức Phật trả lời như vậy thì Bàhiya đã hiểu
rõ
con đường dẫn đến giải thoát không có gì hơn là các
pháp
trên thế gian này không có vật gì là ta, là của ta,
là bản ngã của ta chỉ cần buông xuống biết là ngay đó chứng quả
A La Hán.
“Buông
xuống đi!
Buông xuống đi! Chớ
giữ làm chi
có ích gì.
Thở ra chẳng
lại còn chi nữa.
Vạn sự vô thƣờng buông
xuống
đi”
Buông xuống hết tất cả các bạn còn có cái gì, các bạn có
biết
không?
Buông xuống hết chỉ còn là một tâm
thanh thản, an lạc và vô sự các bạn ạ! nơi
đó là quả vị A La Hán.
Sau khi được Phật khai ngộ xong, thì hôm
ấy Bàhiya đã bị
bò húc chết. T ron g
lú c b ị
b ò h ú c ôn g
k h ôn g bối
rối sợ h ãi
ch ỉ
b ình
tỉnh giữ tâm t h an h
thản ,
an
lạc
và
vô sự, vì lú c
b ấy giờ thân tâm n ày k h ôn g
ph ải
là
ôn g,
là củ a
ôn g, là b ản
n gã củ a ôn g,
n ên
ôn g than
h thản
, an lạc và
vô
sự
tron g
trạn g
thá i ấy . (Đại
Bát Niết Bàn).
Khi đám tang Ông xong nhiều người đến hỏi Phật: “Bà La Môn Bàhiya chết đi về đâu”? Đức
phật
xác định: “Với thành tâm thưa
hỏi pháp, với lòng tin bất diệt của Bà La
Môn
Bàhiya khi nhận ra tất cả các pháp không phải
là ta, là của ta, là bản ngã của ta thì ông chỉ còn nhận ra trạng
thái tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Nhờ
sống
trong trạng thái tâm
bất
động ấy. Ông đã Nhập vào
Đại Bát Niết Bàn và chấm dứt tái sanh luân hồi. Các bạn
hãy đọc kỹ lưỡng lại đoạn kinh này: “Này
các Tỳ kheo Hiền
trí là
Bàhiya đã hành trì tùy pháp, đúng pháp và không có phiền nhiễu Ta với những tranh luận về pháp. Này
các Tỳ kheo,
Bàhiya đã nhập Niết Bàn”
.
Tóm
lại người tu theo Phật giáo đâu phải tu tập khó khăn
như
người ta tưởng mà chỉ cần biết buông xả cho thật
sạch dục và ác pháp.
Thì quả
A La Hán ở tại đó.
Thường trong kinh điển Phật
giáo có người nghe
Phật
thuyết pháp xong liền
chứng đạo. Điều này có thật hay
không?
Điều này có thật. Vì có
nhiều người đã
tu chứng quả A La Hán mà không
biết
cứ nghĩ rằng quả A La Hán là cao siêu, là tu tập khó chứng lắm, nhưng không ngờ nó
lại ở trong tầm
tay của mọi người. Người tu hành chỉ cần
biết buông xả từ bỏ tâm
tham, sân, si thì ngay đó là Niết
Bàn, là chứng quả A La
Hán.
Trong Thanh Tịnh Đạo có một vị Thượng Tọa tu chứng quả A La Hán mà không biết, đến khi nhờ người thị giả
đỡ ngồi dậy thì biết ngay đó là mình đã chứng quả A La
Hán.
Các bạn hãy đọc một đoạn trong Luận Thanh Tịnh Đạo số
135 trang 74 nói về một vị trưởng lão bệnh đang nằm chờ chết. Tăng chúng và
phật tử đến hỏi thăm
Ngài tu hành có
đắc
địa vị siêu thế (A La Hán) không? Ngài bảo: “Ta không đắc địa vị siêu thế nào hết” .
Khi ấy
có
một vị Tỳ
kheo
trẻ tuổi làm thị giả theo hầu Ngài và bảo: “Bạch Đại Đức mọi ngƣời vì tƣởng Ngài đã đắc
Niết Bàn nên mới đi hàng chục dặm đƣờng để đến đây hỏi
thăm Ngài, Ngài trả lời nhƣ vậy, họ sẽ vô cùng thất vọng. Tu hành nhƣ Ngài không lẽ chỉ chết nhƣ một
phàm
phu thƣờng tình thì đau lòng lắm!
Vị trƣởng lão trả lời: “Này Hiền giả vì muốn gặp đức Thế Tôn
tƣơng lai (Metteyya) nên ta không nỗ lực để đắc tuệ
giác. Vậy bây giờ Hiền giả hãy đỡ ta ngồi dậy may ra có đắc
chăng?
Vị Tỳ kheo liền đỡ Ngài
dậy rồi đi ra. Khi
vị
Tỳ kheo ấy vừa ra khỏi, Trƣởng Lão liền đắc quả A La Hán, và khảy móng
tay ra hiệu Tăng chúng tụ lại bạch Ngài:
- Bạch Đại Đức, Ngài đã làm một việc rất khó, là hoàn
thành Thánh quả vào
lúc
lâm chung.
- Chƣ Hiền việc ấy không khó. Nhƣng Ta sẽ bảo cho chƣ
Hiền biết
là việc gì khó thật sự. Chƣ Hiền, từ khi xuất gia
cho đến ngày nay, Ta không thấy có một hành vi nào Ta
làm mà không ý thức,
không
có Chánh niệm kèm theo”.
Đọc
đoạn
luận trên đây chúng ta nhận xét câu: “Từ khi xuất gia cho đến ngày nay Ta không thấy có một hành vi
nào,
Ta làm mà không ý thức, không có chánh niệm kèm theo” Đọc xon g đ oạn
lu ận n ày
ch ú n g
ta
rất t h ấm thía cái
k h ó củ a n gười
tu h àn h theo đ ạo Ph ật
k h ôn g p hải chỗ n h ập
B
ốn Th án h Định , thực h iện
T
am Min h
ch ứng q u ả A
L a
Hán mà
ở
ch ỗ
Tỉn h Giác C h án h Niệm
. Có tỉnh giác chánh niệm ta mới buông xả sạch dục và ác pháp. khi buông xả sạch
dục và ác pháp là chứng quả A La Hán, chứ không phải còn tu tập pháp môn nào cả. Đạo Phật thì chỉ có tu
tập bấy nhiêu thôi.
Vị Trưởng lão này đã trình bày cho chúng ta thấy pháp
hành và kết quả của chánh niệm tỉnh
giác. Nhưng Ngài
không biết đó là chứng quả A La Hán nên chờ đợi đức Thế Tôn tương lai để xác định chỗ tu của Ngài.
Trong khi Ngài bệnh đau đang nằm
chờ chết, không ngồi
dậy
nổi, mới khởi ý nhờ vị Tỳ kheo trẻ tuổi đỡ dậy, trong
khi mọi
người
đến thăm.
Khi khởi ý
muốn ngồi dậy, đó là Ngài đang sử dụng “DỤC NHƢ Ý TÚC” nhƣng Ngài không biết. Khi đƣợc ngồi dậy
Ngài thấy mình không còn bệnh đau yếu đuối nữa. Ngài
mới
biết mình đã chứng quả A La Hán vô lậu. Vì vô lậu nên tác ý
muốn ngồi dậy bệnh liền biến mất
và Ngài tự tại ra đi.
Chính chỗ này là chỗ tâm thanh thản, an lạc và vô sự là
quả
A La Hán mà có ai ngờ đâu. Kh i sử d ụ n g
n ăn g lực
củ a
T
ứ Th ần
T
ú c th ì mới b iết
mìn h
ch ứn g q u ả A L a Hán .
Hoặc có
n gười
ch ỉ
thẳ n g
ch o
ta
thì
ta
mới n h ận ra
trạn g
thái tâm thân than
h thản
, an lạc và vô sự là trạn g thái
ch ứn g q u ả A La Hán.
Trong thời đức Phật còn tại thế có nhiều vị Bà La Môn đã tu tập được
tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Nhưng không
biết đó là quả A La Hán nên khi nghe đức Phật khai ngộ
thì họ mới nhận ra. Kh i
đ ã n h ận ra
mới
b i ết mìn h đ ã
ch ứn g q u ả A L a Hán . Cho nên có những đoạn
kinh khi
đức
Phật giảng xong là có người chứng quả A
La Hán ngay liền, là vì họ tu tập rất lâu mới chứng đạt được chỗ tâm Chánh Niệm Tỉnh Giác như vị Trưởng lão trong Luận
Thanh Tịnh Đạo đã nói: “Việc chứng quả A La Hán không khó, nhƣng Ta sẽ bảo cho chƣ Hiền biết là việc gì khó thật
sự. Chƣ Hiền, từ khi Ta xuất gia cho tới ngày nay, Ta
không thấy có một hành vi nào ta làm mà
không ý thức,
không
có chánh niệm kèm theo” .
Vị Trưởng lão tu như vậy, sống như vậy, làm sao không
chứng quả
A La Hán được. Phải không các bạn? .
Cho nên các bạn đừng
hỏi
chứng quả A La Hán. Mà hãy hỏi các bạn có Tỉnh Giác Chánh Niệm trong từng hành
động
của
các
bạn chưa?
Quả A La Hán không khó mà khó ở chỗ Chánh Niệm Tỉnh Giác xin các bạn hãy lưu ý điều này để sự tu tập của các bạn có
kết
quả tốt đẹp.
LỜ I P H ẬT DẠ Y
NHIẾP PHỤC THÂN TÂM
“Trong khi Thế Tôn an cƣ trong mùa mƣa, một cơn bệnh trầm
trọng khởi
lên, rất đau đớn gần nhƣ muốn chết. Nhƣng Thế Tôn giữ tâm Chánh Niệm Tỉnh
Giác, chịu đựng
cơn
đau ấy. Không một chút ta thán. Thế Tôn tự nghĩ: “Thật
không hợp lẽ nếu ta diệt độ mà không có
một
lời với các đệ tử
hầu cận Ta, không từ biệt
chúng Tỳ
kheo. Vậy
Ta hãy lấy sức tinh tấn, nhiếp phục
cơn
bệnh này, duy trì mạng căn và tiếp tục sống. Và Thế Tôn với sức tinh tấn nhiếp
phục bệnh ấy duy trì mạng
căn.
Rồi Thế Tôn
lành bệnh. Sau khi lành bệnh không bao lâu,
đức Phật rời khỏi...” (Kinh Trường Bộ tập I trang 582 kinh Đại Bát Niết Bàn).
CH Ö GIẢ I:
Đoạn kinh này xác
định về thân
bệnh rất
rõ
ràng: Thân tứ đại là thân nhân quả. Thân nhân quả là thân vô thường,
thân vô thường là phải có bệnh tật và khổ đau, dù người đó
đã tu chứng
đạo như đức Phật,
nhưng
thân nhân quả phải bệnh tật
như
những thân nhân quả khác, chứ không phải
người chứng
đạo là thân nhân quả
không có bệnh tật.
Đó là qui luật chung
nhân quả
của các pháp do duyên hợp thành,
nên
có thân phải có bệnh
tật, nhưng đạo Phật làm chủ sanh, già, bệnh, chết một cách dễ dàng, không có khó
khăn, không có mệt nhọc. Vì thế, đối với bệnh tật đức
Phật chỉ dùng Chánh Niệm Tỉnh Giác và tinh tấn tác ý đẩy
lui
bệnh tật ra khỏi thân Tứ
Đại.
Đọc đoạn kinh trên đây
chúng ta thấy
rất
rõ ràng: “Trong khi Thế Tôn an cƣ trong mùa mƣa, một cơn bệnh trầm trọng khởi lên, rất đau đớn, gần nhƣ muốn chết”. Đúng vậy, dù tu
hành có chứng đạo nhưng thân tứ đại vẫn là thân tứ đại nên phải bệnh tật đau khổ cũng như mọi thân
người
khác. Nhưng
người
tu hành theo Phật giáo có
pháp hành Định Niệm Hơi Thở, có pháp hành Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm
Xứ sung mãn thì có đủ năng lực Bảy Giác Chi, là có
Tứ Thần Như Ý Túc. Nhờ đó nên nhiếp phục và đẩy lui tất
cả bệnh tật không
có khó
khăn, không có mệt
nhọc
như trên đã nói. Cho nên người tu theo Phật giáo không đi
bác sĩ, không nằm
bệnh viện. Còn những người tu hành không
đúng
chánh pháp như các Thầy Đại Thừa và Thiền Tông
không
làm chủ được bệnh tật nên phải đi
bác
sĩ, nằm bệnh
viện uống thuốc và chích thuốc. Họ đã tu hành sai pháp,
chứ pháp môn của Phật là pháp môn làm chủ sanh, già, bệnh, chết rất tuyệt vời, nó giúp cho người tu hành làm chủ sanh tử chấm dứt luân hồi.
Trên đây là một đoạn kinh dạy trị bệnh
rất
hay, cụ thể và
rõ ràng. Đoạn kinh này chỉ có người tu chứng mới hiểu
được nghĩa vì đó là kinh nghiệm bản thân, còn các nhà học giả, khi đọc
đến đoạn kinh này họ đều giảng dạy lướt
qua,
chứ không thể nào hiểu được. Do không hiểu nên
không nêu rõ ý nghĩa cách thức làm chủ bệnh. Đây các
bạn
hãy lắng nghe lời dạy này: “Nhƣng Thế Tôn giữ tâm
Chánh Niệm Tỉnh Giác
chịu đựng cơn đau ấy, không một chút tán thán”.
Đọc câu kinh này, các bạn có biết rõ Phật đang trị bệnh
của mình,
như
thế nào
không?
Câu kinh này lời dạy quá cô đọng, khiến cho người đọc đến đây không biết đức Phật dùng pháp môn nào để đối trị
thân bệnh của mình gần như sắp chết.
Kính thưa các bạn!
Nếu các bạn không hỏi ý nghĩa của
đoạn
kinh này thì các bạn chẳng
bao giờ biết Phật dùng pháp môn nào để đẩy lui bệnh cả. Chúng tôi xin các bạn
lưu ý
những cụm từ. Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Chánh Niệm Tỉnh Giác là tên một pháp môn trong 4 pháp môn mà đức
Phật dạy
cho
chúng
ta đầu tiên khi mới bước chân vào đạo
tu tập, đó là pháp môn Tứ Chánh Cần. Trong pháp môn
Tứ Chánh Cần gồm có:
1- Chánh Niệm Tỉnh Giác
Định
2 - Định Vô Lậu
3 - Định Sáng Suốt
4 - Định Niệm Hơi Thở
Bây giờ các bạn đã hiểu rõ Chánh Niệm Tỉnh Giác là một
pháp
môn đối trị bệnh tật mà ở đây đức Phật đã dùng nó để trị bệnh gần chết của mình. Nhưng Chánh Niệm Tỉnh
Giác
chỉ là để chịu đựng cơn đau cũng giống như người
ôm phao vượt biển. Như đoạn kinh trên đã
dạy:
“Giữ tâm Chánh Niệm Tỉnh Giác
chịu đựng cơn đau không một chút ta thán”. Cho
nên
khi có
những
cơn đau như dao
cắt
ruột thì chỉ còn có cách giữ gìn tâm Chánh Niệm Tỉnh Giác
trên Thân Hành Niệm Nội (hơi thở) hay Thân Hành Ngoại (hành động tay chân) nhờ giữ tâm tỉnh giác trên thân
hành ta mới chịu đựng được những
cơn
đau như ai cắt ruột,
bứt
gan.
Đối với đạo Phật đây là phương pháp đầu tiên để
chiến
thắng giặc sanh tử,
giặc bệnh tật và giặc luân
hồi.
Đối với những loại giặc này, nếu các bạn không chịu rèn luyện tu
tập cho thuần thục, nhu nhuyến những pháp môn này thì
rất
khó cho các bạn chiến
thắng chúng.
Kính thưa các bạn! Ở đây đức
Phật
đã
thực hiện các pháp
môn
này để trị ngay
trên thân bệnh gần chết của mình,
hành động ấy rất rõ ràng và cụ thể nhất trong đoạn kinh
này. Nhờ đó lòng tin các bạn lại càng gia tăng lên bội phần; nhờ đó sự học tập và tu luyện lại càng siêng năng hơn. Lúc nào cũng lấy gương hạnh của Phật mà áp dụng vào
cho mình;
nhờ biết
dùng
những pháp môn này để
đối trị những
ác pháp đang tấn công ào
ạt vào thân tâm; nhờ
có
những pháp môn này mà tâm các bạn mới bất
động
hoàn
toàn, mới ly
dục
ly ác pháp được trọn vẹn.
Kính thưa các bạn!. Như các bạn đã biết Chánh Niệm Tỉnh Giác trên thân hành là pháp môn để
vượt qua những cơn đau ghê
gớm, khốc liệt như dao cắt, nhưng với hành giả Phật giáo nhờ Chánh Niệm Tỉnh Giác nên không một
chút
rên
la kêu khóc. Đó
là phương pháp vượt
qua
cơn đau, chứ không phải là phương pháp trị cơn đau. Xin các
bạn
lưu ý: Nó giống như người bị sóng gió ba đào giữa
biển
chỉ còn ôm
phao
vượt biển, nó giống như lỗ châu mai
của người lính đánh trận, khi giặc bắn
rát quá chỉ còn núp dưới lỗ châu mai để tránh đạn, chờ lúc nào thuận tiện nhào
lên là đánh lại ngay liền. Với
giặc
sinh tử khôn ngoan
vô cùng chúng đánh chúng ta
nhiều mặt, nếu không kịp
phát hiện ra là chúng ta bị thua trận ngay liền. Vậy đánh
lại ngay liền là đánh bằng pháp môn nào?
Chúng ta hãy đọc đoạn kinh thứ hai để xem đức Phật dùng pháp môn gì để nhiếp phục cơn đau và duy trì mạng
căn
để tiếp tục sống.
Đây, chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Thế
Tôn tự nghĩ: “Thật không hợp lẽ nếu Ta diệt độ mà không có một
lời với các đệ tử hầu cận Ta, không từ biệt chúng Tỳ
kheo.
Vậy
Ta hãy lấy sức tinh tấn, nhiếp phục cơn bệnh này, duy
trì mạng căn và tiếp tục sống”.
Kính thưa các bạn! Các bạn hãy lưu
ý những cụm từ dưới đây,
đó là những cụm từ cần phải hiểu
nghĩa
rõ ràng:
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!