Năm Thƣợng Phần Kiết Sử nghĩa là năm sợi dây trói buộc
về trạng thái có hình sắc (sắc giới) và trạng thái không
hình sắc (vô
sắc giới). Năm Thƣợng Phần Kiết Sử
gồm
có:
1-
S ắc
ái
: Những vật chất có hình ảnh làm cho chúng ta ƣa thích nhƣ nhà lầu xe hơi, chùa to Phật lớn, tivi, tủ lạnh, vi
tính, v.v…
2-
Vô sắc ái : Những vật không hình sắc nhƣ các cảm thọ:
Thọ
lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất thọ khổ thƣờng sinh ra ƣa thích và không ƣa thích; nhƣ các hành: Thân hành, khẩu hành, ý hành làm cho
chúng
ta ƣa thích.
3-
Mạn
: Nói đủ là ngã mạn. Ngã mạn là tính kiêu căng tự đắc xem trời
đất
không ai bằng
mình.
4- T rạo cử
: Những phiền não khiến tâm bất an, đó là
về
tâm. Còn trạo cử về thân thì thân đau nhức chỗ này, chỗ
kia
hoặc mỏi mệt bất an, lăn qua lộn lại, thân nhút nhích, động đậy không lúc nào yên.
5-
Vô minh: Trạng thái hôn trầm, thuỳ miên, vô ký khiến cho thân lƣời biếng, muốn đi nằm, đi ngủ, nói chung là
trạng thái tham
ăn tham
ngủ, không tinh tấn siêng năng tu tập.
Năm Thƣợng Phần Kiết Sử trên đây muốn đoạn diệt nó thì
duy
nhất phải có pháp môn Tứ Niệm Xứ, ngoài pháp môn
Tứ Niệm Xứ thì không có pháp nào diệt nó đƣợc. Các bạn hãy lắng
nghe Đức Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo, có năm
thƣợng phần kiết sử.
Thế nào là năm”?
“Sắc ái, vô sắc ái, mạn, trạo cử, vô minh. Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm thƣợng phần kiết sử này. Bốn
Niệm Xứ cần phải
tu
tập”.
NĂM TÂM HOANG VU
Có
năm tâm hoang vu. Vậy năm
tâm hoang
vu nghĩa là
gì?
Tâm hoang vu tức là tâm rừng rú. Tại sao con ngƣời lại có
tâm
rừng rú?
Tâm rừng rú là tâm chƣa đƣợc huấn luyện. Tâm chƣa
đƣợc huấn luyện là tâm giống nhƣ con dã thú. Tâm chƣa đƣợc huấn luyện là tâm chƣa
đƣợc tu tập Tứ Niệm Xứ. Tâm rừng
rú
chỉ có năm:
T
âm h oan g
vu
thứ
n h ất : Chúng ta hãy lắng Đức Phật dạy:
“Này các Tỳ Kheo
có năm tâm hoang vu. Thế nào là năm”?
“Này các Tỳ Kheo, ở đây vị Tỳ kheo nghi ngờ,
do dự, không quyết đoán, không tịnh tín đối với bậc Đạo Sƣ. Này các Tỳ
Kheo,
Tỳ
Kheo
nào nghi
ngờ,
do
dự,
không quyết
đoán, không tịnh tín đối với bậc Đạo Sƣ, Tỳ Kheo ấy không hƣớng về sự nỗ lực, hăng hái,
kiên trì và tinh tấn. Khi tâm của vị ấy không hƣớng về nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn, nhƣ vậy gọi là tâm hoang vu
thứ
nhất”. (Tăng Chi Bộ Kinh tập 4 trang 225 – 230). Các bạn có
nghe lời dạy này của Đức Phật
không?
Nếu các bạn về tu viện Chơn Nhƣ mà các bạn không tin Thầy, không tin lời dạy của Thầy, không tu tập đúng nhƣ lời dạy của Thầy, sống phạm giới,
phá giới, đó là tâm rừng rú của các bạn. Tâm đó là tâm
không thể huấn luyện đƣợc, tâm đó
là tâm bỏ đi, tâm đó là tâm không dùng đƣợc.
T âm h oan g vu thứ h ai : Các bạn hãy lắng Đức
Phật
dạy: “Này các Tỳ Kheo, lại nữa, vị Tỳ Kheo nghi ngờ đối với Pháp.
Này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo nào nghi ngờ,
do dự, không quyết đoán, không tịnh tín đối với Pháp, Tỳ Kheo ấy không
hƣớng về sự nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn. Khi tâm của vị ấy không hƣớng về nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh
tấn,
nhƣ vậy gọi là tâm hoang vu thứ hai”. (Tăng Chi Bộ
Kinh tập 4 trang 225 –
230).
Đối với pháp tu các bạn phải nghiên cứu cho
thật kỹ, nếu pháp nào đúng là pháp của Phật dạy thì các bạn hãy đặt
trọn
lòng tin và thực hiện cho bằng đƣợc, phải giữ gìn giới luật cho nghiêm
chỉnh, phải tu tập cho đúng lời dạy của Thầy. Còn ngƣợc lại là tâm rừng rú của các bạn, các bạn không nên dùng những loại tâm đó mà đi theo con đƣờng chánh pháp của Đức Phật đƣợc. Vì pháp của Phật là đạo
đức
nhân bản – nhân quả làm ngƣời. Nếu các bạn không
tin thì các bạn sẽ sống vô đạo đức, sẽ làm
khổ
mình khổ ngƣời và khổ tất cả chúng sanh. Pháp của Phật dễ nhận ra
lắm các bạn ạ! Vì không tu thì thôi mà hễ có tu là có giải thoát ngay liền.
T
âm h oan g
vu
thứ
b a : Các bạn hãy lắng Đức Phật dạy:
“Này các Tỳ Kheo, lại nữa, vị Tỳ Kheo nghi
ngờ đối với
Tăng. Này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo nào nghi ngờ,
do dự, không quyết đoán, không tịnh tín đối với Tăng, Tỳ Kheo ấy không
hƣớng về sự nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn. Khi tâm của vị ấy không hƣớng về nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh
tấn,
nhƣ vậy gọi là tâm hoang vu thứ
ba”. (Tăng Chi Bộ Kinh tập 4
trang
225 – 230).
Tăng là những ngƣời còn đang
sống hiện tiền. Họ sống nhƣ Phật, ăn nhƣ Phật, làm nhƣ Phật, đi nhƣ Phật, v.v…Cho
nên Tăng là gƣơng hạnh sống động nhất cho cuộc đời tu
hành của các bạn. Họ là giới luật sống mà hằng ngày các
bạn
gặp. Họ là những cuốn tự điển sống để các bạn tra cứu các
pháp
hành không bao giờ sai, vậy mà các bạn nghi ngờ
là nghi ngờ làm sao?
T âm h oan g vu thứ tƣ : Các bạn hãy lắng Đức Phật dạy:
“Này các Tỳ Kheo, lại nữa, vị Tỳ Kheo nghi ngờ đối với Học
Pháp. Này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo nào
nghi
ngờ, do dự, không quyết đoán, không tịnh tín đối với Học Pháp, Tỳ Kheo ấy
không hƣớng về sự nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn. Khi
tâm của vị ấy không hƣớng về nỗ lực, hăng hái, kiên trì và
tinh
tấn, nhƣ vậy gọi là tâm hoang vu thứ tƣ”. (Tăng Chi Bộ Kinh tập 4
trang
225 – 230).
Học Pháp tức là học và tu tập giới luật và 37 phẩm trợ đạo, nếu các bạn học
và tu
tập Học Pháp mà không tinh cần thì
làm sao các bạn hiểu biết cho rõ ràng và làm sao cho thuần
thục
và nghiêm trì, nếu các bạn học và tu tập một cách lơ
là, cho có hình thức thì đó là tâm rừng rú của các bạn?
Tâm đó đối với Học Pháp chẳng có lợi ích gì cả. Muốn xả
bỏ tâm
rừng rú đó thì các bạn phải tinh tấn siêng năng tu
tập Tứ niệm Xứ nhƣ đã
dạy ở trên.
T âm h oan g vu thứ n ăm
: Các bạn hãy lắng Đức Phật dạy:
“Này Tỳ Kheo, khi một vị Tỳ Kheo phẫn nộ đối
với các vị đồng Phạm hạnh, không hoan hỷ, tâm dao động
trở thành hoang vu, Tỳ Kheo ấy không hƣớng về nỗ lực, hăng hái, kiên
trì và
tinh
tấn. Nhƣ vậy gọi là
tâm
hoang vu thứ năm”.
“Này các Tỳ Kheo, để đoạn tận năm tâm hoang vu này. Bốn
Niệm Xứ cần phải tu tập”. (Tăng Chi Bộ Kinh tập 4 trang
225
– 230).
Một vị Tăng mà còn phẫn nộ thì đó là tâm
rừng rú các bạn
cần phải dẹp bỏ,
cần phải xa lìa, cần
phải đoạn trừ muốn
đƣợc vậy thì các bạn phải y theo lời Phật dạy hãy siêng năng tu tập Tứ
Niệm Xứ.
Đoạn kinh trên đây đã
xác định pháp môn Tứ Niệm Xứ có tầm quan trọng nhất trong sự tu tập ly dục ly ác pháp.
Nhất là năm tâm hoang vu mà bài kinh này chỉ rất rõ. Bạn về đây tu tập là tin ai? Có
phải
tin ở Thầy chăng? Hay về
đây để tu thử?
Các bạn trả lời đi?
Khi về đây tu hành bạn còn nghi ngờ, do dự,
không
quyết
đoán, không có tịnh tín đối với bậc Đạo Sƣ, đối với pháp của Thầy dạy, đối với chúng ở đây thƣờng đi nói chuyện
với họ, tức là thiếu tâm
cung kính chúng, không ôm pháp chặt nhƣ ôm
phao
qua biển, tức giận các vị đồng tu, khi
không đƣợc nói chuyện với
họ đƣợc. Đó là
những tâm hoang vu khiến cho bạn tu hành bỏ cuộc. Bạn đã bỏ tu viện
Chơn Nhƣ ra đi để tìm con đƣờng giải thoát khác, nhƣng
đến giờ này đã 10 năm, 20
năm rồi, bạn đã làm chủ thân tâm đƣợc những gì chƣa? Hay chỉ biết nói lừa đảo ngƣời mà thôi. Có bạn đã rời khỏi tu viện Chơn Nhƣ để học tập
có bằng Tiến sĩ
Phật học. Đó là bạn học để nói láo,
có ích lợi gì cho bạn? Nhƣng điều quyết chắc là bạn cũng vẫn còn
trôi
lăn trong biển sanh tử
luân
hồi, chỉ có đạt
đƣợc danh, lợi dẫy đầy, chùa to, Phật lớn, xe cộ nhiều, máy móc, phòng ốc sang trọng nhƣ một nhà giàu tỉ phú không hơn không kém.
Tâm hoang vu của bạn đã hƣớng dẫn bạn về rừng rú âm u
ngu si.
LỜ I P H ẬT DẠ Y
NGHĨA CỦA CÁC PHÁP
“Nói trì giới là
chỉ cho tâm ly dục, ly ác pháp. Nói dục là chỉ
cho bất tịnh.
Nói lậu hoặc là
chỉ cho đau khổ.
Nói tịnh chỉ các hành trong thân là chỉ cho làm chủ sự
sống chết.
Nói Tam Minh là chỉ cho tâm vô
lậu. chấm dứt luân hồi
tái sinh.
Nói Niết Bàn là chỉ cho tâm
vô dục, bất động giải thoát”.
CH Ú GIẢ I:
Trên đây là sáu điều mà ngƣời tu sĩ Phật Giáo cần phải ghi
nhớ
canh cánh bên lòng:
Điều
thứ
nh ất
: “Nói trì giới” thì chúng ta phải
hiểu
nghĩa là giữ
gìn giới luật cho nghiêm chỉnh, không đƣợc
vi phạm
một lỗi lầm nhỏ nhặt nào. Thấy sợ hãi trong các
lỗi nhỏ
nhặt. Đó là vì mục đích ly dục ly ác pháp để tâm bất động hoàn toàn không bị các ác pháp tác động. Có nhƣ vậy mới gọi là tâm thanh tịnh giải thoát. Và chúng ta còn phải hiểu khi tâm ly dục ly ác pháp, thì chúng ta mới nhập đƣợc Sơ
Thiền. Một loại thiền trong Tứ Thánh Định của Phật Giáo
mà
trên hành tinh này không có một tôn giáo nào có pháp
môn
thiền định nhƣ vậy đƣợc.
Điều th ứ h ai : “Nói dục”
thì chúng ta phải
hiểu
nghĩa là lòng
ham
muốn. Nếu không xa lìa, từ bỏ lòng ham muốn thì cuộc đời tu hành của chúng ta chỉ hoài công vô ích mà thôi. Nếu không ly dục thì không bao giờ tâm thanh tịnh. Tâm
không thanh tịnh thì khó cho chúng ta có đủ bảy năng lực
Giác
Chi để nhập các định chứng Tam Minh. Cho nên tâm
còn
ham muốn dù sự ham muốn ấy
nhỏ nhƣ hạt cát thì
chúng ta cũng khó mà tìm thấy
sự
giải thoát thân tâm
mình.
Lời Phật dạy ngắn gọn, cô đọng: “Nói
dục là chỉ cho tâm
bất tịnh”. Còn dục là tâm không thanh tịnh. Tâm không thanh tịnh dù có ngồi thiền năm, bảy ngày, một
tháng, hai tháng, một năm…thì thiền định ấy vẫn là tà thiền, tà định. Còn tâm
ly dục ly ác pháp dù không ngồi thiền nhập định năm, bảy ngày thì tâm ấy cũng vẫn là tâm nhập định.
Xin
các b ạn
lƣu ý ở đ iểm
s ai k h ác thiền địn h củ a Ph ật và thiền
đ ịn h
củ a
n goại đ ạo
là
ở
đ iể m
n ày . Cho nên, Phật Giáo lấy giới
luật tu tập mà thành thiền định. Còn những ai tu pháp môn nào mà Đại Thừa và Thiền Tông phá giới, phạm giới, bẻ vụn giới nên dù ngồi thiền năm bảy ngày, một tháng hai
tháng... vẫn là thiền tƣởng mà thôi.
Điều
thứ
b a : “Nói lậu hoặc” thì chúng ta phải hiểu nghĩa là
sự đau khổ, chứ đừng hiểu theo nghĩa của Đại Thừa là rò rỉ. Theo tự điển Phật Học Việt Nam thì lậu hoặc có nghĩa là phiền
não.
Nghĩa phiền não là chỉ cho tâm đau khổ thì
chƣa đủ nghĩa, còn thiếu phần thân. Cho nên, ý của đoạn kinh
này,
lậu hoặc là chỉ cho sự đau khổ của thân và tâm. Mục
đích
tu hành theo Phật Giáo là làm cho hết sự đau khổ của thân tâm. Hết sự đau khổ của thân tâm mới đƣợc gọi là vô lậu.
Ví dụ: Thân bị bệnh tật, đau nhức khổ sở cũng gọi là lậu
hoặc, chứ không phải chỉ riêng có tâm
phiền não. Cho nên
nói
lậu hoặc là chỉ chung cho sự đau khổ của thân và tâm.
Vì thế khi một vị chứng quả A La Hán gọi là bậc
vô lậu, là bậc không còn đau khổ thân tâm, bậc bất động trƣớc các pháp ác (Phiền
não)
và các cảm thọ (sự đau nhức).
Ngƣời còn phiền
não
giận hờn thƣơng ghét...ngƣời còn bệnh tật khổ đau, rên rỉ thì không thể gọi là vô lậu. Cho nên Đức Phật xác
định một câu ngắn gọn: “Nói lậu hoặc
là chỉ đau khổ”. Hết
lậu hoặc là hết đau khổ. Con đƣờng tu theo
Phật Giáo là phải
hết lậu hoặc. Bậc vô lậu là bậc giải thoát của Phật Giáo. Xin các bạn lƣu ý lời dạy
này
để thấy rõ mục đích của Phật Giáo.
Điều
thứ
tƣ:
“Nói tịnh chỉ các hành” thì chúng ta phải hiểu
nghĩa là các sự hoạt
động trong thân đều ngơi nghỉ, ngƣng
hoạt động. Tịnh chỉ các hành tức là đình chỉ hơi thở ra, vô. Ngƣời có đủ năng lực làm ngừng hơi thở là ngƣời làm chủ
sự sống chết. Ngƣời làm chủ đƣợc sự sống chết là ngƣời
nhập
Tứ Thiền.
Lời dạy này rất rõ ràng, đây là nhập Tứ thiền làm chủ sự
sống
chết. Tại sao chúng tôi biết đây là lời dạy nhập Tứ
Thiền? Vì trong kinh Đức Phật có dạy: “Tịnh chỉ hơi thở
nhập
Tứ Thiền” Và ở đây câu này Phật dạy: “Nói
tịnh chỉ
các hành trong thân”. Các hành trong thân, tức là hơi thở
vô và hơi thở ra. Do kinh dạy tịnh chỉ các
hành trong thân, nên chúng tôi biết là tịnh chỉ hơi thở. Tịnh chỉ hơi thở là
nhập
Tứ Thiền. Qua
lời dạy này
chúng
tôi biết chắc chắn
đây
là nhập Tứ Thiền làm chủ sự sống chết. Các bạn cứ suy
nghĩ
xem lập luận nhƣ vậy có đúng không?
Theo nghĩa lời dạy trên của Đức Phật, khi muốn làm chủ
sự sống chết
thì phải nhập Tứ thiền.
Tứ Thiền là một loại
thiền định với mục đích của nó là giúp chúng
ta tịnh chỉ hơi thở.
Ngoài thiền đ ịn h
này ra
thì
k h ôn g
còn có mộ t thứ thiền
định nào làm ch ủ sốn g
ch ết đ ƣợc. Đó
là
một sự xác q u yết
ch ắc ch ắn
k h ôn g
thay đ ổi của Ph ật
Giáo . Thiền mà làm chủ
đƣợc sự sống chết nhƣ vậy, nên đƣợc gọi là Tứ Thánh
Định. Chỉ có Tứ Thánh Định mới không hổ danh là Thiền Định của các bậc Thánh.
Một ngƣời tu hành muốn làm chủ sanh tử luân hồi thì phải
tu tập Tứ Thánh Định. Tứ
Thánh Định gồm có bốn Thiền:
- Sơ Thiền.
- Nhị Thiền.
- Tam Thiền.
- Tứ Thiền.
Muốn tu tập bốn thiền này
thì phải
tu tập ly dục ly ác pháp. Và chúng ta ai cũng biết ly dục ly ác pháp là giới luật, là
thiện pháp.
T
óm lại
mu ốn
tu
tập
làm
ch ủ
sự
sốn g ch ết
t h ì p h ải sốn g
n gh iêm
ch ỉn h Giới
lu ật và tu tập T ứ Ni ệ m X ứ
đ ể tịnh ch ỉ
h ơi
thở nh ập T ứ T
h ánh
Địn h .
Điều th ứ n ăm
: “Nói Tam Minh là chỉ
cho tâm vô lậu”.
Tam Minh nghĩa là gì?
Tam Minh nghĩa là trí tuệ hiểu biết
vƣợt ra khỏi không gian và thời gian, tức là sự hiểu biết vũ
trụ nhƣ thật, chứ không phải sự hiểu biết hạn hẹp của ý thức. Sự hiểu biết
nhƣ vậy còn đƣợc gọi một cái tên khác là
liễu tri. Trí thức bị hạn chế trong không gian và thời gian nên thấy và hiểu biết mọi sự vật bằng tƣởng, không nhƣ thật. Ví dụ:
Thấy
thế giới hữu hình này là thật. Thấy thế
giới siêu hình là thật, linh hồn ngƣời chết, Thần Thánh,
quỷ, ma... là có thật. Đó là
cái hiểu biết của tƣởng tri.
Ngƣời tu hành mà có đƣợc trí tuệ Tam Minh thì thấy thế giới
hữu hình và vô hình là không có thật, chỉ là những thế
giới ảo tƣởng. Do thấy
2
thế
giới
k h ôn g thật c ó
n ên
k h ôn g
thấy có
ta,
củ a
ta,
b ản
n gã củ a ta. Do thật thấy
k h ôn g ph ải
củ a ta n h ƣ vậy,
n ên
khôn g
thể
tƣơ n
g ƣn g trong h ai
thế
giới
này. Kh ôn g
tƣơn g ƣn g tức
là
vô
lậu ,
vô
lậu
nên ch ấm d ứt
tái san h
lu ân
h ồi . Cho nên Phật dạy: “Nói Tam Minh là chỉ tâm vô lậu”. Tâm vô lậu tức là tâm chấm dứt luân hồi tái sinh.
Nhƣ vậy, chúng ta
đã
hiểu rõ: Nhập đƣợc Tứ
Thiền là làm chủ sự sống chết. Còn đạt đƣợc trí tuệ Tam Minh thì chấm dứt luân hồi tái sanh. Những lời dạy
này
các bạn cứ suy ngẫm rồi mới tin. Và khi tin thì các bạn hãy nên sống và tập
luyện đúng
pháp. Khi sống
và tu tập đúng pháp thì
chừng đó
các
bạn mới chứng
minh lời Phật dạy là nhƣ thật.
Điều
thứ
sáu
: “Nói
Niết bàn là chỉ cho tâm vô dục, bất động giải thoát”. Lời dạy này chúng ta phải hiểu nghĩa những từ
vô dục, bất động. Vậy
vô dục và bất động nghĩa là gì?
Vô dục nghĩa là không còn ham muốn, còn bất động nghĩa
là không bị lay động. Niết B àn củ a Ph ật là ở ch ỗ trạn g thái
tâ m k h ôn g còn
h am mu ốn
và k h ôn g b ị l ay đ ộn g
.
Với mục đích muốn đƣợc tâm vô dục và bất động thì phải
tu tập tâm ly dục ly ác pháp. Vậy tu tập nhƣ thế nào để tâm
ly dục ly ác pháp?
Ly dục tức
là không làm theo lòng ham muốn của mình; ly
ác pháp là lìa xa, không làm theo các pháp ác, ngăn chặn các pháp ác không cho xâm chiếm vào tâm. Khi tâm
không
còn
ham muốn (vô dục) và tâm bất động trƣớc các ác pháp, đó
là mục đích Niết
Bàn của Đạo Phật.
Niết Bàn của Đạo Phật là một sự thật, chứ không phải là một cảnh giới siêu
hình. Bởi vậy Đạo Phật là đạo nhƣ thật, nên trong Đạo Phật không có một điều gì trừu tƣợng, ảo giác
khiến cho mọi ngƣời khó hiểu. Kh i
Ph ật
Giáo b ị
dìm
mấ t thì B à L a Môn
ph át
triển b iến
giáo
pháp
củ a mìn h thành giáo pháp
củ a
Đạo Ph ật . Vì thế Đạo Phật trở thành một tôn giáo mê tín, lạc hậu Đạo đức thì
mất hết chỉ còn những việc làm mê tín nhƣ cúng bái cầu siêu, cầu an, cúng sao giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu, xin xâm bói quẻ, v.v...
Nhữn g việc
là m n ày, h ôm n ay đ ã t rở thà n h một n gh ề
n gh iệp cú n g b ái tụn g n iệm
t ron g các ch ù a
. Một nghề nghiệp lừa đảo mọi ngƣời, làm mọi ngƣời mất trí tuệ, mất sức tự lực, chỉ còn lại với tinh thần yếu đuối cầu cúng van
xin thật là
đau
lòng. Phải không các bạn?
LỜ I P H ẬT DẠ Y
GIỚI HẠNH I
“Giới hạnh là trí tuệ, trí tuệ là giới hạnh. Có giới hạnh, có trí tuệ, thì lời nói mới thành thật không hƣ dối, hành động và ý nghĩa không
ác độc”.
CH Ú GIẢ I:
Muốn hiểu lời dạy này thì chúng ta phải hiểu cho rõ ràng
những
từ ngữ. Vậy giới hạnh là gì?
Giới là giới luật, là những điều ngăn cấm, là những pháp
thiện.
Hạnh
là hành động, là đức hạnh.
Giới hạnh là những hành động thiện, những hành động
mang lại sự an vui cho mình, cho ngƣời, cho tất cả chúng
sanh.
Trí tuệ là sự hiểu biết của ý thức, chứ không phải trí tuệ Tam Minh. Xin quý bạn hãy phân biệt cho rõ ràng. Có thể câu này dịch sửa lại “Giới hạnh là tri kiến giải thoát” Từ ngữ trí tuệ dễ khiến cho mọi ngƣời hiểu lầm mình có trí tuệ. Con ngƣời chỉ có tri kiến chứ chƣa có trí tuệ, ngoại trừ những bậc tu chứng Tam Minh. Nhƣng tại sao ở đây nói
giới hạnh là tri kiến
giải
thoát?
Đúng vậy, ở đâu có tri kiến giải thoát là ở đó có đức hạnh.
Lời
dạy trên đây xác định đạo đức làm ngƣời rất rõ ràng.
Ngƣời có đức hạnh
không
làm khổ
mình
khổ ngƣời là
ngƣời phải
có tri kiến giải thoát.
Phần đông, trong cuộc đời của chúng ta ngƣời nào cũng có tri kiến, nhƣng tri kiến không có giới hạnh. T ri k iến
k h ôn g
có giới h ạn h là tri
k iế n
k h ổ
đ au ,
tri k iến
ác, tri k iến
d ụ c
làm k h ổ
mìn h , k h ổ n gƣời .
Lời dạy bảo trên đây của Đức Phật rất
thực tế trên đƣờng
tu hành theo đạo giải thoát
“Ai có giới hạnh là có tri kiến giải thoát, ai có
tri kiến giải thoát là
có giới hạnh”.
LỜ I P H ẬT DẠ Y
GIỚI HẠNH II
“Giới hạnh” có thể làm thanh tịnh “trí tuệ”, “trí tuệ” có thể làm thanh tịnh “giới hạnh”
CH Ú GIẢ I:
Khi một hành giả sống một đời sống đạo đức thì đạo đức là giới hạnh. Giới hạnh làm cho tri kiến không có khởi ác
niệm, không có những hành động ác, không có những lời
nói
ác. Nhờ thế đƣợc xem là tri kiến thanh tịnh tức là tri kiến giải thoát hay nói
cách khác là tri kiến không làm khổ mình, khổ ngƣời và khổ tất cả chúng sanh, tức là sự hiểu biết thanh tịnh.
Cho nên lời dạy này có một
giá trị rất lớn
về đời sống đạo
đức
nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình khổ
ngƣời. Vì
thế kinh dạy: “Giới
hạnh có thể làm thanh tịnh tri
kiến, tri kiến có thể làm thanh tịnh giới hạnh”. Đó là cách thức
sử dụng tri kiến giải thoát của chúng ta để vƣợt ra khỏi qui luật của nhân quả, để làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi
của của kiếp làm ngƣời.
Chúng ta ai cũng biết đời sống con ngƣời là khổ đau là
nhiều tai ƣơng hoạn nạn. T h ế mà
ch ỉ
b iết cách sử d ụ n g
tri
k iến và giới lu ật
thì
man g
lại
ch o
ch ú n g
ta
mộ t đ ời sốn g
T
h iên Đàng Cực L ạc
t ại thế gian n ày
ch ứ
k h ôn g p h ải tìm
n ơi
vô h y vọn g .
LỜ I P H ẬT DẠ Y
TỪ BỎ
“Cái gì không phải
của
các
ông các ông hãy từ bỏ, từ bỏ sẽ đƣợc hạnh phúc, an lạc lâu dài
cho các ông”.
“Sắc, thọ, tƣởng, hành, thức, không phải của các ông, hãy từ bỏ thân ngũ
uẩn này, sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc cho các
ông”.
CH Ú GIẢ I:
Thân ngũ uẩn là sắc, thọ, tƣởng, hành, thức. Theo nhƣ lời Đức Phật dạy: “Hãy từ bỏ thân ngũ uẩn này, sẽ đem lại
hạnh phúc, an lạc”. Đúng vậy, do thân ngũ uẩn này mà chúng ta thƣờng chịu nhiều
sự khổ đau.
Vậy muốn từ bỏ thân
ngũ
uẩn này phải từ bỏ bằng cách
nào?
Rất nhiều pháp môn tu tập để từ bỏ thân ngũ uẩn này, nhƣng có một pháp môn hay nhất. Đó là pháp Nhƣ lý tác ý. Tác ý cái
gì?
Chúng ta
hãy
lắng nghe Đức Phật dạy tác
ý: “Sắc, này các Tỳ Kheo, là vô thƣờng, cái gì vô thƣờng là khổ. Cái gì khổ là
vô
ngã. Cái gì vô ngã cần phải nhƣ thật thấy với chánh trí tuệ là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là
tôi, cái này không phải tự
ngã của tôi”.
“Thọ…Tƣởng... Các hành…Thức là
vô thƣờng...”
“Này các Tỳ Kheo, do thấy vậy, bậc Đa văn Thánh đệ tử
nhàm chán đối với sắc... đối với thọ... đối với tƣởng... đối với
các
hành... đối với thức”.
“Do nhàm chán
nên ly tham. Do ly tham nên đƣợc giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: “Ta đã đƣợc giải thoát” Vị
ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc
làm nên làm đã
làm, không còn trở lui
trạng thái này nữa”.
“Này
các
Tỳ Kheo, cho đến hữu tình, cho đến tột đảnh của hữu, những bậc ấy là
tối thƣợng, những bậc ấy là tối thắng ở trong
đời, tức là các bậc A La Hán”.
Theo nhƣ những lời dạy trên, chứng quả A La
Hán rất đơn giản.
Phải không
các
bạn?
Qua lời dạy này chúng ta chỉ cần biết nhƣ thật sắc, thọ,
tƣởn g, h àn h ,
thức
là
vô
thƣờn g, là k h ổ, k h ôn g p h ải là ta, là
củ a
ta,
là
b ản n gã
củ a
ta
, thì ngay đó là chứng quả A La
Hán.
Nói thì dễ, nhƣng tác ý để biết nhƣ thật thì phải có
thời gian tu tập không phải
là ít.
LỜ I P H ẬT DẠ Y
LY DỤC THAM
“Này Ràdha, phàm có dục nào, tham nào, hỷ nào, khát ái nào đối với sắc, hãy từ bỏ chúng. Nhƣ vậy sắc sẽ đƣợc đoạn tận, cắt tận gốc rễ, làm cho nhƣ thân cây ta la, làm cho không thể tái sanh,
không thể sanh khởi trong
tƣơng lai”.
“Đối
với thọ, tƣởng, hành thức cũng vậy”.
CH Ú GIẢ I:
Đọc
đoạn
kinh này chúng ta mới nhận ra pháp hành thiền
định cụ thể của Phật Giáo là có dục
nào,
tham nào, hỷ nào, khát ái nào đối với sắc, thọ,
tƣởng, hành, thức thì hãy từ bỏ chúng, có nghĩa là không làm
theo chúng, thì
sắc, thọ, tƣởng, hành, thức sẽ đƣợc đoạn tận, cắt tận gốc rễ không
còn
sanh khởi
nữa.
Phƣơng pháp tu này rất đơn giản chỉ cần không làm theo
dục
tham, dục sân, dục si ... thì cuối cùng thân
ngũ
uẩn này mới nhƣ thật không phải là
ta, là của ta, là bản ngã của ta.
Có đ oạn
d ứt đ ƣợc n h ƣ vậy thì trƣớc các
cả m
t h ọ
ta
mới có
thể b ất
đ ộn g
tâm
đ ƣợc. Nếu
k h ôn g
từ
b ỏ đ ƣợc, k h ôn g n găn
ch ặn
đ ƣợc lòn g tham d ụ c thì ch ú n g ta kh ó mà thàn
h tựu
p h áp q u án
th ân , th ọ,
tâm, p h áp vô
thƣ ờn g, k h ổ, vô n gã .
Và không thành tựu đƣợc pháp môn này thì khó cho ta
thấy đƣợc quả
giải thoát vô lậu A La Hán.
Từ bỏ lòng tham
dục
thì chúng ta phải nhận thấy rõ ràng từng tâm niệm dục, dù dục rất vi tế rất nhỏ nhặt. Ví dụ:
Tham dục ăn, tham dục ngủ, tham dục làm việc, tham dục
nói
chuyện, tham
dục
đọc kinh sách, tham
dục nghe băng giảng, tham dục
tu nhiều, tham dục hỷ lạc, tham dục
khinh
an v.v...
Chú n g ta ch ỉ có
ly
đ ƣợc d ụ c là đ oạn
d ứt đ ƣợc thân
n gũ
u ẩn , đ ó
là
ý
ch ính củ a b ài
k in h n ày
và
cũ n g là
p h áp
h àn h
đ ộc
đ áo thiền đ ịn h củ a Ph ật Giáo
mà mọi
n gƣ ời
k h ôn g thể
n gờ
đ ƣợc.
LỜ I P H ẬT DẠ Y
TRANH LUẬN
“Này
các Tỳ Kheo, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ Kheo, ngƣời nói Pháp không
tranh luận bất cứ một ai ở đời ”. (Tƣơng Ƣng Kinh tập 3 trang 249).
CH Ú GIẢ I:
Ngày xƣa, lúc Đức Phật còn tại thế, Ngài thuyết pháp là dựng lại những pháp nào đúng với chân lý giải thoát của loài ngƣời. Ngài
còn mạnh dạn chỉ thẳng và dẹp
bỏ những pháp nào sai, để cho
ngƣời đời sau biết rõ tránh không lầm lạc. Vì thế
n goại đ ạo
t ức giận thƣờn g
tì m Ph ật tran h lu ận
h ơn thu a
cao thấp . Cho nên đoạn kinh trên đây là
Đức
Phật đã xác định Ngài không tranh luận hơn thua bất cứ một ai.
Nhƣn g n h ữn g
p h áp
n ào lừa đ ảo
làm
ch o
con n gƣời
h ao tài tốn củ a một
cách
n h ảm
n h í
và
tốn
h ao
côn g
sức
tu
h àn h
k h ôn g đ ƣợc n h ữn g
gì
ích
lợi
th iết
thực, thì Ngài n ói
thẳn g,
ch ỉ
thẳn g
đ ể d ẹp b ỏ
. Cho nên trong cuộc đời thuyết pháp độ sanh Ngài bị ngoại đạo lăn đá, cho voi say đến giết Ngài,
và cho phụ nữ giả mang thai, vu khống Ngài, làm cho
mất uy tín...
Nhƣn g tà p h áp sao thắn g đ ƣợc
ch án h p h áp .
Cuối cù n g Đức Ph ật đ ã
giản g d ạy ch o loài
n gƣời
đ ầy đ ủ các
p h áp
h ành
về
đ ạo đ ức
l àm n gƣời k h ôn g làm k h ổ mìn h k h ổ
n gƣời . Đến 80 tuổi Ngài ra đi với tâm nguyện viên mãn, để lại cho chúng sanh một nền đạo đức nhân bản tuyệt vời tức
là bốn chân lý.
Chúng tôi là đệ tử của
Phật, noi gƣơng Ngài, những gì của
Phật đã bị ngoại đạo ném bỏ xuống, thì chúng
tôi dựng lại,
còn
những gì không phải của Phật, gây ảnh hƣởng xấu tai
tiếng cho Phật Giáo, gây ảo tƣởng, trừu tƣợng, mê tín, lạc
hậu
v.v…khiến cho Phật Giáo suy đồi, thì chúng tôi ném bỏ
xuống hết. B ởi vì k h i tu xon g
ch ú n g
tôi
n h ƣ n h ữn g n gƣời
đ ứn g
trên
n ú i
cao n h ìn xu ốn g, thấy k inh sách Đại T h ừa
và
các
T ổ
tu
h àn h k h ông đ ú n g với ch án h p háp
củ a Ph ật,
ch ú n g
tôi
đ ều
b iết rõ
. Do đ ó T ổ n ào
có ý đ ồ
n ém
b ỏ và k iến
giải sai về Ph ật giáo thì
ch ú n g
tôi
có b ổn ph ận
ph ải
ch ỉn h
đ ốn lại và làm ch o con
đ ƣờn g
Ph ật
Giáo sá n g ch ói h u y
h oàn g,
ch ứ
k h ôn g thể đ ể
ch o
Ph ật
Giáo b iến thàn
h một
đ ốn g
rác giáo lý tổng h ợp (84 n gàn
p h áp mô n ) . Nhờ đ ốn g
rác giáo lý ấy, mới
có mộ t số n gƣời lợi
d ụ n g làm n gh ề sin h
sốn g mê
tín,
lừa
đ ảo và làm cây
ch ù m gửi, ăn
b ám vào
n gƣời k h ác,
b iến h ọ trở
th àn h gánh
n ặn g ch o xã h ội .
Lời nói này, tin hay không tin là quyền ở các bạn. Nhƣng
chúng tôi tin chắc rằng: Các bạn đều là những
ngƣời có trí,
thấy rộng hiểu xa, thì lời nói của
chúng
tôi không phải là vô ích.
Còn riêng chúng tôi là tu sĩ Phật Giáo, có bổn phận phải dựng lại những gì của Đức Phật đã bị ném bỏ, và dẹp bỏ
những gì không
phải của Phật Giáo.
Theo lời Phật dạy trên đây, chúng tôi xin gửi
đến các bạn một bức tâm
thƣ (xem lại Thƣ Ngỏ - ở đầu tập sách)
để các bạn tránh những lỗi lầm dẫm lại lối mòn của Bà La Môn
ngày
xƣa,
luôn luôn tìm cách tranh luận hơn thua với Phật,
nói
xấu Phật, diệt Đạo Phật, nhƣng Đạo Phật chân chánh
ngày nay vẫn còn. Phải không
các
bạn.
LỜ I P H ẬT DẠ Y
TÂM KHÔNG
PHÓNG DẬT
“Này
các Tỳ Kheo, phàm có những thiện pháp nào, tất cả những pháp ấy lấy không phóng dật làm căn bản, lấy không phóng dật làm chỗ quy tụ, không phóng dật là tối thƣợng trong các pháp
ấy.”
CH Ú GIẢ I:
Một lần nữa Đức Phật nói về tâm không phóng dật. Xin các bạn lƣu ý:
Muốn tâm không phóng dật thì các bạn phải
phòng
hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Vậy pháp phòng
hộ sáu căn là pháp nào?
- Thứ nhất là
pháp độc cƣ
- Thứ hai là pháp Tứ Chánh Cần
- Thứ ba là pháp Tứ
Niệm Xứ
- Thứ tƣ là
pháp
Thân Hành Niệm
Biết rõ tâm
không phóng dật là pháp tối thƣợng trong các
pháp
thiện. Vậy thì muốn ly dục ly ác
pháp
thì chúng ta phải bằng mọi cách giữ gìn tâm không phóng dật. Phải
không các bạn? Bằng
mọi
cách phải giữ tâm không phóng
dật
tức là phải biết lấy pháp làm hòn đảo, làm chỗ nƣơng tựa vững chắc cho ta thì tâm sẽ không phóng dật. Cho nên Đức Phật
thƣờng nhắc nhở chúng ta: “Hãy lấy giới luật và
giáo pháp Ta làm Thầy, làm hòn đảo, làm chỗ nƣơng tựa
vững chắc…”. Chính vì chỗ tâm
không phóng dật là thiện
pháp
tối thƣợng, là sự chuyển hóa nhân quả, là đạo đức không làm khổ mình khổ ngƣời, là mục đích tâm
bất
động của Phật Giáo, là Niết Bàn tại thế gian, là tâm thanh thản
an lạc và vô sự, là bất động tâm định,
là ly dục ly ác pháp...
Cho nên, ngƣời tu hành theo Đạo Phật thì phải lấy tâm
không phóng dật làm pháp môn tối thƣợng. Vậy, trên bƣớc đƣờng tu theo Phật Giáo thì chúng ta phải khắc ghi trong
lòng lời dạy này: “lấy không phóng dật làm căn bản, lấy
kh ôn g ph ón g
dật
làm ch ỗ qu y
tụ , kh ôn g ph ón g dật
là
tối
th ƣợ n g tron g các ph áp th iện ấy ”.
LỜ I P H ẬT DẠ Y
HẠNH ĐỘC CƢ
“Thế Tôn nhìn chúng Tỳ Kheo đang yên lặng, hết sức yên lặng, rồi hỏi các Tỳ Kheo: “Ta đƣợc thỏa mãn này các Tỳ Kheo, với đạo lộ này tâm Ta đƣợc thỏa mãn, này các Tỳ Kheo, với đạo
lộ này hãy tinh tấn hơn nữa, để chứng đạt những gì chƣa chứng đạt, để chứng đắc những
gì chƣa chứng đắc,
để chứng ngộ những
gì chƣa chứng ngộ”.
“Hội chúng này không
có
lời thừa thải, không có lời thừa dƣ đã đƣợc an trú trong
lõi cây thanh tịnh”.
“Một hội chúng đáng đƣợc cung kính, đáng đƣợc tôn trọng,
đáng
đƣợc cúng dƣờng, đáng đƣợc chắp tay, là phƣớc điền vô
thƣợng ở
đời”.
CH Ú GIẢ I:
Nhìn một số chúng đông đảo theo
Phật
tu hành, giữ hạnh độc cƣ trọn vẹn, không tụ tập nói chuyện, ai nấy cũng lo giữ
gìn phòng hộ sáu căn để ly dục ly ác pháp. Nhìn thấy
thế, Đức Phật buột miệng ngợi khen: “Một hội chúng đáng đƣợc
cung kính, đáng đƣợc tôn trọng, đáng đƣợc
cúng
dƣờng, đáng
đƣợc chắp tay, là phƣớc điền vô thƣợng ở đời”.
Nhìn lại chúng tu hành trong tu viện Chơn Nhƣ nhƣ thế
nào? Chắc các bạn đều biết rất rõ.
Thƣa các bạn! Tất cả tu sĩ và cƣ sĩ
đƣợc về Chơn Nhƣ tu tập đều đến từ các
chùa Đại Thừa, Thiền Tông, Tịnh Độ
Tông, Khất Sĩ, Mật Tông và Nam Tông. Các tu sĩ và n h ữn g
cƣ sĩ n ày vốn
đ ã qu en
với n ếp sốn g tại các
ch ù a, tịnh xá,
n iệm Ph ật đ ƣờn g củ a h ọ; h ọ
thí ch h ội
h ọp n ói
ch u yện , th ích
ăn n gủ ph i thời,
thích
tu ức ch ế tâm.
Đến đây tuy có tu tập,
nhƣng tu tập theo kiểu của họ, phá giới luật Phật và vi phạm nội quy của tu viện Chơn Nhƣ. Chúng tôi khuyên
dạy
hết lời họ vẫn không nghe, chứng nào tật
nấy:
Ăn ngủ phi thời, nhất là nói chuyện, phá
hạnh độc cƣ ...
Đem so sánh hai chúng, chúng của tu viện Chơn Nhƣ và
chúng
trong
thời Đức Phật, thì chúng
trong
tu
viện Chơn Nhƣ chỉ là những ngƣời quá vô minh, đ ã
vào tu viện
mà
k h ôn g
ch ịu b ỏ
n gũ d ụ c lạc thế gian
, thì tu tập có
ích
lợi
gì
. Vì thế chúng tôi biết rằng chúng tu tập tại tu viện Chơn
Nhƣ chỉ là những tu sĩ và cƣ sĩ
tham ăn, tham ngủ, tham
nói
chuyện. Vì thế họ tu ăn, tu ngủ, tu nói chuyện, v.v... mà
thôi!...
S án h
với các
tu
sĩ
và
c ƣ sĩ
tron g
thời Đức Ph ậ t,
thì
các b ạn
p h ải tự rất xấu
h ổ các b ạn ch ƣa th ật xứn g đ án g là
n h ữ ng tu
sĩ,
cƣ sĩ củ a Ph ật
Giáo. T h ích
h ội h ọp , thích nói
ch u yện
là
n h ữn g tu sĩ và cƣ sĩ n goại đ ạo
củ a Bà L a Môn .
Con
đƣờng tu tập theo Phật Giáo còn
rất
xa. Phải trải qua ba
giai đoạn:
-
Giai
đ oạn thứ n h ất : “Để chứng đạt những gì chƣa chứng
đạt. (Ly dục ly ác
pháp).
-
Giai
đ oạn thứ h ai
: “Để chứng đắc những gì chƣa chứng đắc.
(Nhập
Bốn Thiền).
- Giai đ oạn
thứ
b a : “Để chứng ngộ những gì chƣa
chứng ngộ.
(Thông suốt
Tam
Minh) .
Thời nay,
ngƣời tu
sĩ và cƣ sĩ Phật Giáo chỉ tu danh, tu
lợi, tu tiền, tu bạc, tu chùa to, Phật lớn… Chú n g tôi ch ỉ mon g
sao tu viện Chơn Nhƣ sẽ
có n h ữn g
n gƣời tu thật, đ ể xá c
đ ịn h Ph ật Giáo
là
ly
dụ c
ly
ác
p h áp , ch ứ k h ôn g p h ải tu
ức
ch ế tâ m h ết
vọng tƣ ởn g n h ƣ Đại T h ừa, T h iền
Tôn g , v.v...
Thƣa các bậc tôn túc Hoà Thƣợng, Thƣợng Toạ, Đại đức
Tăng, Ni! Sự tu tập của tu sĩ Phật Giáo hiện giờ phá giới phạm giới quá lộ liễu khiến cho ngƣời cƣ sĩ
mất hết lòng tin
và họ đã cho ra đời những tác phẩm
nói
lên những tệ nạn
rác bẩn trong Phật Giáo trong đó có một bộ sách lấy tên là
“GIẶC THẦY CHÙA” ghi lại những điều dục lạc của các quí Sƣ, Thầy trong các hệ phái Phật Giáo, thật là trơ trẽn,
nhƣng các Sƣ Thầy không biết xấu hổ. Kh i đ ƣợc n gh e
v à
thấy n h ƣ vậy k h ôn g ai
mà k h ôn g
đ au lòn g ch o Đạo Ph ật ngày nay. Kính mong Giáo Hội Phật Giáo quan tâm lƣu ý để chỉnh đốn lại sự tu học của tu sĩ Phật Giáo cho đƣợc tốt đẹp hơn.
Nhất
là gi ới l uật p h ải
chỉ nh đ ốn lại n gay
b ây giờ .
LỜ I
P H ẬT DẠ Y
“Dục thủ
Kiến thủ
Giới cấm thủ
THỦ GỒM CÓ BỐN
Ngã chấp
thủ”.
CH Ú GIẢ I:
Muốn hiểu đƣợc lời dạy của Đức Phật thì chúng ta phải
hiểu từng chữ nghĩa cho
rõ ràng. Vậy thủ nghĩa
là gì?
Thủ là chữ Hán,
có nghĩa là giữ gìn, cố chấp,
ngoan cố, bảo thủ. Theo Phật Giáo con ngƣời có bốn điều kiện cố chấp,
bảo
thủ đi đến ngoan cố, không chịu cởi mở, xả bỏ, buông xuống, v.v...
- Sự cố chấp, bảo thủ thứ nhất là “Dục thủ”. Vậy
dục thủ nghĩa nhƣ thế nào? Dục thủ là chữ Hán. Dục nghĩa là lòng
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!