Đáp: Một người
học Phật phải nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, nên không tiêu cực, vô cảm, lãnh
đạm.
Người học Phật phải có tri kiến nhân quả, tri kiến Thập
Nhị Nhân Duyên,
tri kiến kiết sử,
tri kiến ngũ uẩn,
tri kiến ngũ triền
cái, tri kiến về các
pháp bất tịnh,
tri kiến các pháp
vô thường, khổ, không, vô ngã,
tri kiến về lòng từ, bi, hỷ, xả, v.v...
Nếu có những
tri kiến như vậy, thì người
này sẽ không bị đắm chìm,
lôi cuốn theo
những lạc thú tầm thường của thế
gian. Muốn có những tri kiến này, thì người học Phật nên nghiên cứu kinh sách
Nguyên Thủy, vì trong đó dạy rất đầy đủ và dễ hiểu. Không nên nghiên cứu kinh
sách phát triển, vì kinh sách này sẽ gieo vào đầu óc của các bạn một thế giới ảo tưởng,
mơ hồ, trừu
tượng. Một khi các bạn phải chịu ảnh hưởng của nó, thì các
bạn giống như
người nghiện thuốc
phiện, muốn bỏ mà rất khó bỏ.
Người cư sĩ
hiểu sao về Phật
giáo có tiêu cực,
vô cảm, lãnh đạm?
Về Phật
giáo là phải
có một tinh thần
tích cực, tự lực
trong sự tu tập các
pháp môn; phải tích
cực, tự lực
chiến đấu với nội tâm của mình khi có
ác pháp xâm
chiếm, để đem lại
sự thanh bình cho tâm
hồn; phải tích cực chiến
đấu với ngoại pháp,
để đem lại cho mọi
người một sự an ổn,
một xã hội có trật tự. Về Phật giáo có hai giới tu tập:
1- Cư sĩ
2- Tu sĩ
Cư sĩ thì phải
tu theo pháp của người cư sĩ. Pháp của người
cư sĩ tu tập
là một nền đạo đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ mình,
khổ người, thì làm sao có sự tiêu cực, vô cảm, lãnh đạm... được.
Nếu tiêu cực,
vô cảm, lãnh đạm là làm khổ mình, khổ người,
thì đâu có đúng chánh pháp.
Có lẽ cư sĩ
đã hiểu sai
pháp Phật, không hiểu về pháp tu tập của người cư sĩ.
Người cư sĩ
chỉ sống có một ngày
Thọ Bát Quan Trai như người tu sĩ mà thôi. Một tháng chỉ sống
có một hoặc hai ngày, thì đâu thể nào gọi là tiêu cực, vô cảm, lãnh đạm được.
Phật dạy
chúng ta biết ác pháp và thiện pháp, ác
pháp thì nên tránh
và diệt, để
đem lại cho mình,
cho người hạnh phúc
an vui, chứ đâu phải
lãnh đạm, vô cảm.
Ví dụ 1: Trong
bữa tiệc mọi người ép chúng ta uống rượu, chúng ta từ chối, không tùy thuận
theo các ác pháp này, mà bảo rằng chúng ta lãnh đạm thì không đúng.
Chúng ta cương quyết
làm được điều này là làm gương tốt
đẹp cho người khác, để mọi người tránh
thứ độc hại
này. Cho nên đạo Phật không phải là đạo yếm thế, tiêu cực,
lãnh đạm, vô cảm, v.v... Người hiểu đạo Phật yếm thế, lãnh đạm, vô cảm... là
người hiểu sai đạo Phật.
Ví dụ 2:
Tình nghĩa vợ chồng là phải gần gũi
nhau, chia sẻ nhau những nỗi buồn vui, thế mà xa lánh nhau, nhạt
lẽo, lãnh đạm
tình chồng nghĩa
vợ, để gọi là tuyệt dục
thì đức Phật đâu
có dạy bao giờ, mà đức Phật dạy
không nên tà dâm, dâm dục phải tiết độ, vì
tà dâm là
làm hại gia
đình mất hạnh phúc,
dâm dục không
tiết độ sẽ đem
đến thân
bệnh tật, mà
thân bệnh đau thì sự
an vui hạnh phúc gia đình mất.
Đạo Phật nói đời khổ
là để vượt
qua mọi sự đau khổ đó, chứ không
có nghĩa là trốn tránh khổ,
nói cách khác
là để làm
cho đời hết khổ. Làm
cho đời hết khổ
là phải tích cực hết
mình. Vì thế mà đạo đức của đạo Phật là đạo đức không làm khổ mình, khổ người.
Hỏi:
Thưa Thầy! Chúng con xét thấy lâu nay,
những người cư sĩ
tu theo Đại thừa, đa số không biết họ hiểu như thế nào?
Khi chưa biết đạo
thì còn đỡ, khi biết đạo rồi lánh vợ, xa con, để cho những người trong
gia đình phải buồn khổ và thù ghét đạo
Phật. Thưa Thầy, theo cái hiểu cạn cợt của chúng con có phải họ hành sai pháp
không?
Đáp: Họ không hành
sai pháp, vì
kinh sách Đại thừa và
các thầy Đại thừa đã dạy chung chung
như vậy, không
phân biệt rõ
ràng: pháp nào tu tập của người
cư sĩ và pháp nào tu tập của người
tu sĩ, cứ ngồi thiền,
niệm Phật, tụng
kinh, lạy sám hối, v.v... Tu sĩ
cũng tu như vậy
và cư sĩ cũng tu
như vậy. Cho nên,
người cư sĩ tu
hành cũng giống như
người tu sĩ.
Vì thế gia
đình đảo lộn, tình nghĩa
chồng vợ dường
như nhạt lẽo, bỏ
bê con cái
và nghề nghiệp như con đã nói ở trên. Thật là
vô cùng tai hại.
Tu như vậy có bốn điều đáng trách:
1- Thiếu đạo
đức làm người, không tròn bổn phận, trách nhiệm đối với bản thân, vợ và con.
2- Tu như vậy đời chẳng ra đời,
đạo chẳng ra đạo.
(Cư sĩ mà tu
pháp của tu
sĩ là một điều rất sai)
3- Tu
như vậy chẳng
đến đâu, mất
thì giờ, uổng phí công sức, uổng phí một đời người.
4- Tu như vậy
bản ngã của người cư sĩ càng ngày một to lớn
hơn, do đó cư sĩ không
tìm thấy sự giải thoát chân thật, chỉ sống giải thoát trong ảo tưởng.
Cho nên thích tranh luận hơn thua, dựa theo
lý giải của
giáo pháp Đại thừa và
thiền Đông Độ mà tranh luận hơn thua.
5- Tu như vậy,
người cư sĩ chỉ đạt được miệng lưỡi nói
pháp rất hay,
nhưng kết quả
làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi
thì chẳng có gì.
Vì thế,
hiện giờ người
cư sĩ tu rất
nhiều, đi chùa rất đông, nhưng
nhìn lại hoàn toàn là số không? Tham,
sân, si, mạn, nghi vẫn còn nguyên vẹn, chưa có một vị cư sĩ nào làm chủ
được đời sống, làm chủ được sự già yếu, làm chủ được bệnh đau và làm chủ được sự chết
(tự tại trong
sinh tử).
Để khắc phục
tình trạng này, Thầy sẽ soạn thảo
ra một bộ
sách giáo trình tu
tập riêng cho người
cư sĩ, đúng theo
đường lối tu tập của Phật
giáo Nguyên Thủy.
Các con hãy chờ đợi bộ
sách
Đạo Đức Làm
Người ra đời xong thì Giáo trình tu tập cho người cư sĩ sẽ xuất hiện. Đó là câu
trả lời cho những câu hỏi của con.
Hỏi: Có một
số người khi mới phát tâm tu, hoặc
làm công quả ở chùa,
làm chức hướng
dẫn cư sĩ và làm từ thiện
xã hội, mấy
năm đầu thì thấy
khuôn mặt rất dễ thương,
nhưng khoảng thời gian
sau thì nhìn khuôn mặt thấy quậy
beo, đụng việc người khác làm trái ý mình thì nổi sân đùng đùng. Có phải những người
này làm phước mà còn cầu phước,
không có phương pháp
tu tập để kiểm soát bản ngã của mình?
Khi thấy mình có
công đôi chút
thì tỏ vẻ hơn người,
nên khi ai làm trái ý họ thì họ bực tức. Con hiểu như
vậy có đúng không? Thưa thầy!
Đáp: Phần
đông người ta
tu phước hữu lậu,
nên làm có chút ít công đức thì bản ngã to ra, con hiểu như vậy rất đúng.
Người có
phước hữu lậu
thì bản ngã
theo phước đó mà
to lớn ra,
không những riêng
cư sĩ mà cả tu
sĩ nữa. Cho
nên, các vị
tôn túc Hòa thượng,
Thượng tọa, Đại đức tăng,
ni hiện giờ hầu hết đều không tu
tập đúng pháp ly dục, ly ly ác pháp của Phật giáo Nguyên Thủy.
Cứ theo lộ trình Bồ
tát đạo của Đại thừa
tu phước hữu lậu
lậu thì bản ngã sẽ to lớn vĩ đại. Theo lộ trình Bồ tát đạo của Đại thừa tu phước
hữu lậu thì bản ngã sẽ to lớn,
danh cao, chức trọng,
v.v... Vì thế, các
vị này dễ sân, dễ phiền
não, đời sống của họ trong dục lạc của thế gian, ăn, ngủ phi thời.
Họ chẳng bao giờ nếm được mùi giải thoát chân thật của Phật giáo.
(Trích từ
trang Web: nguyenthuychonnhu.net - Giáo Án Tu Tập, tập 5)
ĐỨC PHẬT DI
LẶC
Hỏi:
Kính bạch Thầy! Xin Thầy chỉ dạy cho
chúng con được rõ, đức Phật Di Lặc có thật hay không?
Đáp: đức Phật
Di Lặc không có, đó chỉ là một đức Phật tưởng tượng của các nhà Đại thừa Bà La
Môn. Vì thế, chúng tôi mạnh dạn lật tẩy bộ mặt thâm độc của Bà La Môn giáo để cho phật tử
hiểu rõ. Nếu bảo rằng quá khứ đã có bảy vị Phật, thì đức Phật Thích Ca Mâu Ni
đi tu phải có đạo Phật, vậy tại sao lại chỉ có lục sư ngoại đạo mà không có cái
tên Phật giáo? Thật ra, mãi đến khi đức
Phật Thích Ca Mâu
Ni tu hành chứng quả, thành lập ra Phật giáo, bấy
giờ chúng ta mới có
tôn giáo mang
tên là Phật
giáo. Thế mà dám bảo quá khứ có bảy
vị Phật, rồi gán cho đức Phật Thích
Ca Mâu Ni nói,
thì rất oan cho đức Phật
Thích Ca Mâu
Ni. Trong kinh Tương Ưng, đức Phật
nói: “Nếu Ta
nói một điều
gì mà
chúng sanh hiểu
bằng tưởng thì có
nói láo trong
Ta”.
Rồi về vị
lai các nhà Đại thừa sản xuất ra một người
có tên là Từ Thị,
hiệu là Di Lặc, muốn tranh chức giáo chủ với đức Phật
Thích Ca, giống như các
nhà vua phong
kiến ở thế
gian, tranh ngai vàng.
Theo như kinh
sách phát triển, đạo Phật có ba vị giáo chủ:
1- Bảy vị Phật
làm giáo chủ ở quá khứ.
2- Một vị Phật
giáo chủ ở hiện tại.
3- Một vị Phật
giáo chủ ở vị lai.
Đức Phật Di
Lặc đã được kinh sách phát triển nói đến rất nhiều. Đó là một thâm ý nham hiểm, đưa đức Phật
Di Lặc ra để làm một cuộc
cách mạng Phật giáo, lật đổ đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni, thay thế bằng vị giáo chủ mới là
Phật Di Lặc.
Hội Long
Hoa tức là cuộc cách mạng Phật giáo.
Khi đức Phật Di Lặc lên nắm quyền
giáo chủ Phật giáo,
thì toàn bộ kinh
sách Nguyên Thủy sẽ bị triệt
tiêu, tức là đường lối giáo lý của
Phật Thích Ca sẽ bị đốt sạch.
Kinh
sách Nguyên Thủy
không bao giờ có nói đến
đức Phật Di Lặc, và
các bậc Thánh
tăng đệ tử của đức Phật
không có ai
tên là Di Lặc. Đối với
kinh sách Nguyên Thủy,
Di Lặc là một cái tên xa lạ, vậy mà bây giờ sắp lên nắm
quyền giáo chủ Phật giáo!
Xin quý vị phật
tử suy ngẫm để khỏi lầm lạc.
Hội Long
Hoa được xem
như một cuộc
trưng cầu dân ý, bầu cử đức giáo chủ mới cho Phật giáo. Các tôn giáo
khác không hiểu, dựa vào gốc kinh sách Đại thừa
và tưởng ấm của con
người thể hiện qua “cơ bút”,
cho biết ngày tận thế và hội
Long Hoa sắp mở bày.
Phật giáo
Nguyên Thủy không chấp nhận điều này. Đức Phật dạy: “Quá
khứ không truy tìm, vị
lai không ước vọng”.
Quá khứ và vị lai không cần biết đến, chỉ làm một việc
lành ngay trong hiện tại
thì quá khứ và
tương lai là hạnh phúc.
Hội Long Hoa
là một sự bịa đặt, chờ cơ hội thuận tiện nhất để mở cuộc họp Phật giáo
toàn thế giới. Nhưng vì thế lực Phật giáo Nguyên Thủy còn mạnh,
cho nên họ không
thể làm gì được.
Hiện nay, cả Phật giáo
thế giới đều chấp nhận Đại
thừa Phật giáo
là giáo pháp của Phật
giáo. Đó là một bước thắng lợi thứ nhất của Đại thừa giáo. Đến khi các
sư Nam tông, tức là các sư Phật giáo Nguyên Thủy, dần dần chịu ảnh hưởng giáo
pháp của
Đại thừa, và lần lượt
các sư Nam tông sẽ
tu tập theo
giáo pháp của Đại thừa1,
thì giáo pháp Nguyên Thủy sẽ bị đốn tận gốc. Lúc bấy giờ người ta bảo rằng
Hội Long Hoa ra đời thành lập
1 Ngày nay,
các sư Miến Điện bắt đầu dạy thiền (Nguyên Thủy) giống như thiền Đông Độ. Sau một
thời gian dạy (Tứ Niệm Xứ) quán thân, thọ, bây giờ các sự dạy quán tâm giống
như thiền sư Trung Hoa.
Phật giáo mới, và đức Giáo
chủ là đức Phật Di
Lặc.
Đó là một
thâm ý sâu sắc của Phật giáo Đại thừa dựng lên đức Phật
Di Lặc là
có ý diệt
trừ Phật giáo tận gốc, mà hầu hết các tu sĩ Phật giáo hiện giờ,
Nam tông lẫn Bắc tông đều vô
tình không thấy ý đồ thâm độc của Bà La Môn giáo ngày xưa.
Kinh
sách nói
về Phật Di Lặc và Hội Long Hoa là do các giáo sĩ Bà La Môn viết soạn
ra, rồi đưa vào kinh sách Phật giáo, mạo nhận Phật thuyết. Lợi dụng lúc Phật
giáo kết tập kinh sách chưa thành
văn bản, người
ta đã tùy tiện thêm bớt thật dễ
dàng. Cho nên, người nghiên cứu kinh sách
Phật giáo hiện
nay gặp phải khó khăn là có nhiều
bài kinh mâu thuẫn nhau, khiến chẳng biết đâu là lời Phật dạy chân chánh, đâu
là lời kiến giải.
HÌNH ẢNH
QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT
Hỏi: Kính
bạch Thầy! Gia
đình con có thờ
hình ảnh Quan Thế Âm Bồ tát. Khi nghe Thầy giảng trong băng
Bồ tát Quan Thế Âm
không có thật, mà chỉ là sự tưởng
tượng của con người. Trước kia con chưa được biết, nên được sư ở chùa cho về thờ gần hai
năm nay. Bây giờ
con rất áy náy trong tâm, không
biết nên để thờ hay thay bằng tranh Phật khác? Xin Thầy hoan hỷ dạy cho con được
rõ.
Đáp: Bồ tát
Quan Thế Âm là một vị Bồ tát tưởng tượng của Phật giáo phát triển, chứ không
có một
Bồ tát trong
lịch sử loài
người. Cũng như Bồ tát Di Lặc cũng chỉ là một Bồ tát tưởng
tượng, khi thấy ai cười hề hề cho
đó là
Bồ tát Di Lặc.
Gần đây,
có một số
nhà học giả dạy người
tu hành luôn luôn tập một nụ cười.
Vì thế có nhà
học giả
dạy: “Hít vô tôi mỉm miệng
cười, thở ra tôi mỉm miệng cười”.
Cách thức cười
như vậy cũng giống như người Hoa Kiều buôn bán ở Chợ Lớn, luôn lúc nào cũng cười
hề hề làm vui lòng khách hàng. Nhiều người tập
vui cười ngoài
mặt, nhưng bên
trong thì tham, sân, si còn hơn
những người không tu. Đạo Phật chỉ duy nhất có một đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
người đã tự tìm ra một giáo pháp tu hành, để đi đến giải thoát sự đau khổ
của kiếp người.
Là đệ tử
của đức Phật, quý vị
nên thờ
một vị Phật duy nhất
để tỏ lòng
biết ơn, đó là thờ đức Bổn
sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Muốn
thay đổi hình tượng
thờ phụng trong
nhà thì hình ảnh Quan Thế Âm Bồ tát con nên đem gửi lại
chùa, hoặc đem thiêu đốt.
Nên thỉnh
hình ảnh đức Phật Thích Ca đang ngồi thiền tại cội bồ đề, bên dòng sông Ni Liên
dưới ánh trăng đêm khuya, về thờ phượng thì mới đúng tư cách là tín đồ Phật
giáo.
MẠC NA THỨC
VÀ A LẠI DA THỨC
Hỏi:
Thưa Thầy! Theo Đại thừa, Mạc Na thức
như người giữ kho, A Lại Da thức ví như
cái kho chứa nhóm tất cả chủng tử thiện ác.
Khi người chết,
thân, thọ, tâm, pháp đều hoại diệt, chỉ còn Mạc Na thức và A Lại Da thức
đi đầu thai. Có phải vậy không thưa Thầy?
Đáp: Đó
là những danh từ trong
kinh Duy Thức thuộc tạng
kinh Đại thừa, để chỉ cho sự
huân tập
thành khối nghiệp
lực (A Lại Da
thức và Mạc Na thức), được
xem là người giữ
kho và cái kho tích trữ tạo thành
nghiệp lực.
Theo kinh Nguyên Thủy, nghiệp lực thì không có thức, tức
là không có
cái biết. Do sự
vô minh tương ưng
với nghiệp mới
tái sanh luân hồi,
chứ không có
cái thức đi tái sanh.
Các nhà
Duy thức học chỉ tưởng
ra mà thôi, nên tưởng ra người giữ kho và cái kho
đi tái sanh (Mạc Na thức và A Lại Da thức đi tái sanh).
Sự thật,
trong kinh Nguyên Thủy dạy không có thức nào đi tái sanh luân hồi, chỉ
có nghiệp thiện, ác đi tái sanh mà thôi. Nghiệp thiện ác tức là nhân quả thiện
ác.
Kinh sách
phát triển lầm lạc vì bị thế tục hóa, nên
biến linh hồn mê tín
trong dân gian
thành thần thức, và
khéo lý luận đặt tên
là Mạc Na thức và A Lại Da thức đi tái sanh luân hồi
để xây dựng thế giới linh hồn người chết, để sanh ra cái nghề tụng niệm, nếu
không có linh hồn thì các thầy đều thất nghiệp.
Cho nên, Mạc
Na thức và A Lại Da thức là tưởng tri của các sư
Phật giáo phát
triển tưởng ra, để
chia chẻ tâm thức con
người ra nhiều mảnh. Đó là ý đồ làm lệch hướng của Phật
giáo chân chánh, để biến Phật
giáo thành một
tôn giáo mê tín.
THÔNG MINH
Hỏi: Thưa
Thầy! Trong kinh
nhân quả dạy mang
dầu, nến thắp
sáng điện Phật
(Tam Bảo), thì kiếp sau sanh ra
làm người được thông minh. Lời dạy ấy có đúng không? Xin Thầy dạy bảo.
Đáp: Người
thông minh không phải do cúng dường
đèn dầu, nến thắp sáng
điện Phật, mà người
ấy phải chịu
khó học tập những điều mình chưa biết. Hiện
giờ chúng ta thấy, có người học tối
(lâu nhớ, lâu thuộc bài)
có người nhớ lâu, học mau thuộc, ta cho họ thông minh. Sự
thật, tiền kiếp họ đã gieo nhân học tập nên thời nay ta nói họ thông minh, chứ
họ đã học sẵn rồi.
Muốn thông
minh ở kiếp sau thì kiếp này phải học tập. Theo luật nhân quả, học tập là gieo
nhân thông minh, chứ không phải cúng dường đèn đuốc mà thông
minh, đó là lối lừa đảo không
thực tế của kinh sách phát triển.
Chúng ta không nên tin như vậy, tin như vậy chỉ có người ngu si mới tin, chúng
ta tin cái gì thì cái đó phải cụ thể và
thực tế rõ ràng.
Đời nay cố gắng học tập
thì đời nay thông minh
và đời sau vẫn tiếp tục thông
thái hơn người khác, đó là lẽ
đương nhiên, không ai nói ta lừa đảo được.
Bây giờ ta u
tối thì phải cố gắng học, “có công mài
sắt có ngày
nên kim”. Còn
những người thông minh kiếp trước
họ đã học rồi, bây giờ nhớ
trở lại, chứ
không có thông minh gì cả. Đức Phật dạy:
“Cây ngả về hướng nào
thì bóng ngả về hướng ấy”. Đúng vậy,
khi ta làm một điều gì thì hậu quả của điều đó sẽ đến với ta, tốt hay xấu là do
việc của ta làm ác hay thiện.
Còn cúng
đèn, thắp nến
làm sáng bàn thờ
Phật mà được
thông minh là không đúng.
Tôi xin
nêu lên một điều để
quý vị được
rõ. Hàng ngày, quý vị đều thắp hương vỏ cây, tượng trưng cho năm cây
hương giải thoát: “giới hương, định hương,
tuệ hương, tri kiến
hương và giải thoát
tri kiến hương”, nhưng
quý vị có thấy tâm mình
giải thoát chưa? Có hết tham, sân, si chưa?
Tượng trưng
là một lẽ và giải thoát là một lẽ, cho nên cúng dầu, thắp nến cho sáng thì đã
có ai thắp đèn mà được thông minh chưa?
Nếu thắp
đèn mà siêng
năng học thì thông minh là lẽ đúng, nếu thắp đèn để
sáng bàn thờ Phật, không học mà thông minh, đó là lối lừa đảo của quý sư Phật
giáo phát triển để khỏi mua dầu thắp bàn thờ Phật, vì có mấy đứa học sinh tối dạ
mua dầu đèn thắp.
Nhưng chúng cũng
phải học chúi đầu
chúi mũi mới
có thuộc bài, chứ đâu có
thắp đèn
mà khỏi học
bài bao giờ, hay chư Phật học bài dùm cho. Đó là một lối lừa
đảo gian xảo trong các chùa.
Kinh
sách Đại
thừa nói về
nhân quả có rất
nhiều cái vô
lý, thế mà người đời vẫn
tin.
HỦY HOẠI CƠ THỂ HOẶC MỘT PHẦN CƠ THỂ
ĐỂ CÚNG DƯỜNG
CHƯ PHẬT, CẦU VÔ THƯỢNG PHÁP
Hỏi: Kính
bạch Thầy! Trong
Thiền tông có câu chuyện Huệ Khả chặt cánh tay dâng lên
cúng dường Bồ Đề Đạt Ma để cầu pháp an tâm (Phật tánh). Đức Phật có dạy điều
này không? Xin Thầy giải rõ cho chúng con được hiểu.
Gần đây
có một số
quý Thầy đốt,
chặt một lóng ngón tay trỏ để
cúng dường chư Phật.
Chặt đốt,
ngón tay cúng dường
chư Phật có ích
lợi gì cho bản thân?
Xin Thầy chỉ
rõ cho chúng con được hiểu. Những
người chặt, đốt ngón tay cúng dường chư Phật
tu hành có chứng
quả hay không?
Đáp: Hủy hoại cơ thể
hoặc một phần
cơ thể để cúng dường
chư Phật, mà
trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Tựa có những câu dạy:
“Lại thấy có
Bồ tát2
Bố thí cả vợ
con Thêm thịt cùng tay chân Để cầu vô thượng đạo Lại thấy có Bồ tát
Đầu mắt và
thân thể
2 Bồ tát là
một người cư sĩ đang tu tập
Đều ưa vui
thí cho
Để cầu trí
tuệ Phật”
Qua đoạn kinh này
chúng ta quán
xét thấy kinh Đại thừa lừa đảo và
lường gạt, dạy tín đồ bằng cách bố trí
cúng dường của cải, tài sản, vợ con cho đến thân mạng.
Thứ nhất lừa
gạt để cướp đoạt tiền bạc, châu báu ngọc ngà. Lấy đạo
vô thượng, hay
là Phật tánh để trao đổi bằng
vàng bạc, ngọc ngà châu báu. Ở đây có
nghĩa là cúng dường chư Phật.
“Dùng các
món nhân duyên” “Mà cầu chứng Phật đạo”
Muốn cầu chứng được đạo quả giải thoát
thì nên trao đổi bằng:
1- Vàng bạc,
ngọc ngà, san hô, trân châu, ngọc như ý, ngọc xà cừ, mã não, kim cương và các
trân bảo khác cùng tôi tớ, xe cộ, kiệu cán làm bằng châu báu, vui vẻ đem cúng
dường, đừng tiếc rẻ để cầu chứng đạo quả.
2- Cúng dường
cả vợ và con cho chư Phật, cho người
khác để cầu chứng đạo quả giải thoát.
3- Đoạn
thân mạng, tay
chân, đầu mắt của
thân thể cúng dường cầu đạo vô thượng.
Qua những đoạn
kinh trên, trong bộ kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa, mà được mọi người từ thầy, tổ,
cho đến ngày nay người ta
đã tốn biết bao nhiêu giấy mực,
để luận và giảng về bộ kinh nổi tiếng nhất
trong kinh sách Đại thừa: “Diệu Pháp
Liên Hoa Kinh” Một bộ
kinh mà được các
thầy, tổ
và tất cả phật tử
xem là một vật quý báu, thường ca ngợi và truyền tụng. Do bộ
kinh này mà có nhiều người
đã thành lập đạo tràng, lấy
tên kinh làm tên
chùa, tên đạo
tràng của mình (chùa Pháp Hoa, đạo tràng Pháp Hoa).
Một bộ kinh
dạy người hủy hoại cơ thể để cầu pháp Đại thừa. Xưa, tổ Huệ Khả đã hủy hoại một
cánh tay dâng lên tổ Bồ Đề Đạt Ma để cầu
pháp Tối Thượng thừa, sư Trừng Quán chặt ngón tay cúng dường chư Phật để cầu chứng
Phật tánh.
Gần đây,
trong hàng huynh
đệ của chúng
tôi, khi vào tu viện
Chân Không cũng
có một sư đệ, lúc
bấy giờ Thầy ấy chỉ
là một chú sa
di mà
rất gan dạ, đốt một lóng ngón tay để cầu pháp (thầy P.T.). Khi chúng
tôi vào tu viện thì vị
Thầy đó vẫn còn băng bó vết
thương.
Gần đây,
chúng tôi có đọc một tờ báo Công An TP. Hồ
Chí Minh năm thứ XXIII bộ
mới, số 776 ngày
21 tháng 9 năm 1999 có
đăng tin, tựa đề “Sao lại tin những lời tà đạo?” như sau:
“Vào tháng
6 năm 1999, qua nguồn tin quần chúng. Công
An huyện Củ
Chi phát hiện tại xã Tân Phú Trung có hai
người một nam, một nữ tụ họp thêm một vài người dân đến nhà nghe giảng đạo.
Đều là hai người này cùng bị mất một đốt ngón tay trỏ bên trái. Công An Củ Chi
đã khám phá và ngăn
chặn kịp thời nhóm
tà đạo thuyết pháp
những điều nhảm
nhí, mê hoặc
người nhẹ dạ cả tin, hủy
hoại thân thể, bỏ vợ, bỏ chồng
để đi tu v.v...”
Bài báo viết
tiếp: “Vào đạo phải chặt đứt ngón tay và làm công quả”. Đúng vậy, Phật giáo
phát triển thường nhận người làm công quả, là những người chuẩn bị để cho xuất
gia sau này. Những người này trong chùa gọi họ là tịnh nhân.
Nếu những tịnh
nhân nào tự phát nguyện chặt ngón tay cúng dường chư Phật để cầu pháp vô thượng, thì những tịnh
nhân ấy được
xem là những pháp khí Đại thừa.
Được thầy tổ lưu ý giúp đỡ và đào tạo họ
trở thành những bậc lãnh đạo Phật
giáo. Trong giới
tín đồ Phật giáo
cho rằng: “Ít ra những người này cũng là những bậc đại thượng tri thức”.
Qua bài kinh
tựa của bộ kinh Pháp Hoa, tuy không ép người khác hủy hoại cơ thể, nhưng cũng
có ý
đề cao khuyến khích
sự hủy hoại
cơ thể để cầu pháp Tối Thượng thừa.
Những lời dạy
trong kinh Pháp Hoa này đi ngược lại lời dạy của đức Phật trong toàn bộ kinh
sách Nguyên Thủy.
Đạo Phật
chủ trương không
làm khổ mình, khổ
người, thế mà ở đây chặt, đốt ngón tay, hoặc chặt cánh tay dâng lên
cúng dường, thì rõ ràng
là đã tự
làm khổ mình. Từ
cha mẹ sanh
ra không tật
nguyền, bây giờ theo Phật giáo Đại thừa trở thành người tật
nguyền, cụt tay, tàn tật. Vậy mà Thiền tông vô minh, ca ngợi vị tổ thứ hai Huệ Khả là bậc pháp khí Đại thừa.
Chỉ có một lời ca
ngợi suông trong kinh sách Đại thừa
mà đã biến vị
tổ thứ hai của
Thiền tông
thành một người
tàn tật, thật
là ngu si chạy theo danh mà tự hại
mình.
Trong kinh Phật
Báo Ân của Đại thừa giáo, có câu chuyện tiền
thân đức Phật: “Xưa có một
nhà vua chạy giặc, gặp lúc đói khát ăn thịt con để sống”. Người
mới đọc qua câu
chuyện tiền thân này
nghe rất hay.
Nhưng suy nghĩ lại
chúng ta mới thấy bản chất của loài
thú vật hiện
lên rất rõ ràng.
Người ăn thịt
người, cũng chẳng
khác nào loài thú vật ăn thịt nhau, thì làm
sao gọi là đạo đức làm người được.
Kinh
sách Đại
thừa nói qua sự
tưởng tượng của mình,
một ngày cắt ba
cân thịt
ăn mà đứa con vẫn còn đi đứng được. Thì thử hỏi quý
vị nghĩ sao? Người ta bị chừng một vết thương.
Thế mà mỗi ngày cắt ba cân thịt
mà còn đi được, thì kinh đó có vọng ngữ hay không? Có lừa đảo dối gạt người
không?
Chúng ta nên
đọc tiếp bài báo: “Chuyện tưởng như đùa nhưng hoàn toàn có thật, xảy ra ngay tại
vùng ngoại thành của thành phố Hồ Chí Minh”.
Chị
N.T.N ở Tân Phú Trung, Củ Chi. Theo chồng
về sống ở xã Tân Thới Nhì, Hốc Môn, cuộc
sống gia
đình rất hạnh
phúc với bốn mặt
con. Năm 1987, một lần đi chợ Hốc Môn
thì N gặp bà Tân, trước đây là một giáo viên dạy N học ở Tân Phú Trung. Bà
Tân cho N biết, bà
đang tu ở chùa Vạn Đức, hay còn gọi
là chùa Ba Mẹ, ở thị trấn Hốc Môn. Từ đó,
N thường xuyên
lui tới chùa để nghe
thuyết pháp. Năm
1988, đứa con
thứ năm
chào đời được
vài tháng thì N
bỗng dưng bịnh tâm thần, bỏ chồng con vào
chùa ở luôn không
về nữa. Một
mình anh N.Đ.T,
chồng N, phải gồng gánh nuôi năm đứa con thơ hết sức cực nhọc, nhất là
bé mới sanh.
N đến
làm công quả tại chùa,
ban ngày làm mọi việc lặt
vặt, tối nghe thuyết pháp. Ít lâu
sau N được đưa lên chánh điện cầu nguyện để quên chồng con, vứt
bỏ mọi vướng
bận trần thế,
ăn chay trường và sống kiếp tu hành. Cầu nguyện xong, N dùng dao chặt
đứt một đốt
ngón tay trỏ bên trái,
rồi cầm tay đang
chảy máu ròng
chạy lên chánh điện hiến dâng một đốt ngón tay để tỏ sự thành kính và một
lòng theo đạo. N được bà Thiện băng bó vết thương lại.
Nghe tin vợ
chặt tay, anh T có mặt ngay chùa để hỏi rõ sự việc, thì được một phụ nữ trong
chùa giải thích ngắn gọn
“cúng dường”. Anh
T kịch liệt phản đối, vì việc làm kỳ cục
và hết sức dã
man này. Nhiều lần T đến chùa năn nỉ vợ, kể cả la lối, đòi kêu C.A bắt, nhưng N
vẫn kiên quyết không về nhà.
Sau đó,
bà Thiện đưa
N về chùa ở An Phú
Đông để sống chung với bà. N phải nhổ cỏ, chăm sóc vườn
cây ăn trái của con gái
bà Thiện. Có một lần N thèm mặn, nên đã lỡ ăn một miếng
bánh mì kẹp thịt, khi ăn xong N giựt mình,
vì đã vi phạm lời
nguyện. Để chuộc
lối lầm này, N
dùng dao phay chặt thêm ngón tay út bên phải. Chính bà Thiện đã
băng bó vết
thương cho N.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!