“Tấc bóng thời
gian một tấc vàng Tấc vàng tìm được không gì khó, Tấc bóng thời gian khó hỏi
han”.
Thế mà quý vị
sinh hoạt như vậy gọi là tu, tu như vậy
phỏng có giải
thoát được những
gì? Quý vị cứ nhìn lại bản thân của quý vị sẽ thấy, nếu chúng tôi nói thẳng
thừng thì quí vị không ưa chúng tôi, chứ quý vị chỉ là một con cờ cho người khác sử dụng nước cờ tôn
giáo, chứ quý vị tu như vậy dù tu một
triệu năm nữa cũng chưa thấy và hiểu biết giải thoát như thế nào?
Chúng tôi dạy
đúng như Phật dạy, cấm không cho tu
sĩ tập hợp
nói chuyện thì họ
không thích, họ muốn
tu tập theo
kiểu Đại thừa,
tụ tập sinh hoạt
như các đạo
tràng và các
gia đình phật tử, họ khoái hội họp, thích vui chơi, nói
chuyện.
Chỗ tu hành
của chúng tôi
là chỗ tu tìm sự giải thoát, làm chủ bốn sự đau khổ
của kiếp người: sanh,
già, bịnh, chết,
và chủ động đi vào
con đường hóa
sanh, chứ không chấp nhận chịu bó tay sanh nơi dâm dục
bất tịnh, ô trược bẩn thỉu, hôi thúi và khổ đau. Vì thế, ai muốn tu được thì
hãy sống đúng như lời đức Phật đã dạy, như
chúng tôi đã dạy, nếu
không sống được thì đừng
nên theo đạo Phật tu
hành, chẳng có lợi
ích gì mà còn
làm cho kẻ khác
phỉ báng Phật giáo.
Đạo Phật không
cầu mong có nhiều
người tu mà phá giới, phạm
giới, bẻ vụ giới, vô đạo đức làm Người, làm Thánh. Thà chỉ cần ít người,
hay
một người tu
đúng pháp, có giới đức hẳn hoi, có một đời sống phạm hạnh của bậc Thánh tăng,
thì Phật giáo mới
còn rực rỡ
trên thế gian
này. Dù chỉ có một người, còn hơn
đi đâu cũng gặp tăng sĩ mà đời chẳng đời, đạo chẳng đạo, họ sống với những nghề
nghiệp lừa đảo thiên hạ. Thật là đau lòng cho Phật giáo ngày nay, giữa ban ngày
thắp đuốc lên đi tìm
một bậc
giới đức khắp
thế gian này không
bao giờ có, toàn
là những tu
sĩ phá giới, phạm giới, bẻ vụn giới
v.v...
Nếu quý vị thấy sống không
kham nổi trong giới
luật của Phật
thì quý vị đi
tu làm gì, để
phạm giới, phá giới như vậy
thì có ích lợi gì cho quý vị
và cho người khác. Nếu quý vị sống không kham nổi
thì quý vị ra đời mà sống, sống
trong chùa mà bày ra
những trò mê
tín, dị đoan, cúng bái, tế lễ, xin
xăm, bói quẻ,
v.v... đó là
đi ngược lại Phật
giáo. Cũng như
quý vị thuyết giảng, hý luận trừu
tượng mơ hồ, bằng lối chơi
chữ để lừa đảo
những người nhẹ dạ dễ
tin, để cầu được sự
cúng dường.
Tóm lại, quý
vị muốn tu theo đạo Phật thì quý vị phải nghiên cứu Phật giáo cho kỹ, nếu thấy
chúng tôi dạy
đúng thì xin vào
tu, còn nếu thấy
chúng tôi dạy
không đúng thì quý
vị phí thì giờ vô
ích, mà còn
sanh tâm nghi
ngờ chánh pháp của
Phật, tạo thêm tội lỗi
như quý thầy:
thầy Chơn Đức, thầy Từ Minh, thầy Minh Tông, thầy Thiện Thiền,
v.v... họ đã trở thành
những người đệ tử bất nghĩa muôn
đời, ngàn đời, để lại tiếng đời không tốt cho mai sau.
Tánh nghi ngờ
làm cản trở sự tiến triển tu hành
cũng như những
sự việc khác,
làm ngăn ngại mọi
công tác hữu
ích cho mình, cho xã hội, và
cũng vì tâm
nghi ngờ khiến
cho cuộc đời không vượt khỏi cảnh tối tăm khổ sở.
6/ THÂN KIẾN: có
nghĩa là vì không
rõ nên lầm chấp thân ngũ uẩn tứ đại
giả hợp này cho là Ta, là của Ta, là bản ngã của Ta.
Hòa thượng
Thiện Hoa dạy về thân kiến: “Vì cái chấp sai lầm ấy, nên thấy có một cái Ta
riêng biệt, chắc thật không
biến đổi, thấy
cái Ta ấy là riêng của Ta, không
dính dấp đến người khác, và xem nó là một
thứ rất quý báu. Vì tưởng lầm như vậy, nên kiếm món ngon vật lạ cho Ta ăn, may
sắm quần áo tốt đẹp cho Ta mặc, lo xây dựng nhà cao cửa lớn cho Ta ở, thâu góp
thật nhiều của cải, đất ruộng để dành
cho Ta dùng, kiếm công
danh chức tước, địa vị cho Ta hãnh diện với mọi người. Do sự quý
chuộng cung phụng cho cái
Ta ấy, mà tạo ra lắm điều tội lỗi,
chà đạp lên bao nhiêu cái Ta khác, làm cho họ
đau khổ vì Ta. Và thế giới
trở thành một bãi chiến trường cũng vì cái Ta”.
Chúng ta hằng ngày
chịu nhiều đau khổ
cũng chính vì Thân kiến, tức là
cái kiến chấp về thân. Nó là một trong bảy kiết sử trói buộc và sai sử
chúng ta
như một tên
nô lệ rất
khó mà bứt bỏ,
nếu không có
pháp như tác
ý của đức Phật dạy thì khó
có pháp nào diệt thân
kiến kiết sử này
được.
Nếu hằng ngày chúng ta
không siêng tu pháp như
lý tác ý thì
chẳng bao giờ chúng
ta bứt sợi dây
thân kiến kiết sử này được. Cho
nên, đức Phật thường
nhắc đi nhắc lại câu
pháp hướng này: “Thân
này không phải
là Ta, không phải của Ta, không phải bản ngã của Ta”.
Câu này quý
vị nên nhớ mà hướng tâm hằng ngày, đừng nên biếng trễ
và xem thường, đó là
lời tâm
huyết mà đức Phật đã dạy cho chúng
ta, vì thương tưởng chúng ta vô minh mà lầm chấp thân kiến, chịu khổ
muôn đời.
7/ BIÊN KIẾN: có
nghĩa là chấp một bên, nghiêng về một phía, đó là những thành
kiến rất cực đoan. Biên
kiến có nhiều
lối chấp sai lầm,
trong đó, lớn nhất là 3 kiến chấp:
1- Thường kiến:
Là một loại
luận thuyết mơ hồ
trừu tượng, cho rằng
người chết còn
linh hồn cho rằng có thế giới siêu hình,
có bản thể vũ trụ, có tiểu ngã, đại ngã,
có thần thức,
có Phật tánh, có Thiên Đàng, có Địa Ngục, có Ngọc
Hoàng Thượng Đế, có Chúa trời, có thần, quỷ, ma, v.v...
Những người
chấp thường kiến là những người thường sống trong mê tín, lạc hậu, sống trong mộng tưởng,
xây dựng cảnh
giới siêu hình, thường cầu
cúng, tế, lễ
bái và ước
vọng làm những điều
thiện để khi chết
được sanh lên Cực Lạc Thiên Đàng của cõi Trời, cõi Niết Bàn
hay cảnh giới chư Phật. Thiền tông, Mật tông đều thuộc về thường kiến.
2- Đoạn kiến:
Là một loại luận thuyết chết cứng, khô cằn, cho chết là hết, không còn gì cả.
Loại luận thuyết
này khiến cho con người
mất hết niềm hy vọng về tương lai. Cho nên người ta đặt
ra câu hỏi: “Tương
lai không có thì hiện
giờ để làm gì?
Ngày mai chết
là hết”. Vì vậy, con người
chấp đoạn kiến
thì làm bao nhiêu ăn bấy
nhiêu, chẳng còn biết nghĩ đến ai cả, sống
chỉ quay cuồng trong
dục lạc, sống
theo kiểu hiện sinh không có ngày mai.
Hòa thượng
Thiện Hoa dạy: “Đối với hạng người chấp đoạn kiến, thì hễ tắt thở là không còn
gì tồn tại nữa; tội cũng không mà phước lại cũng chẳng có. Họ không
tin nhân quả luân hồi, nên mặc
tình làm các điều tội lỗi. Họ tự bảo: “Tu nhân tích đức già đời cũng chết; hung
hăng bạo ngược tắt thở cũng không còn”.
Vì chấp đoạn
kiến, có người đứng trước cảnh thất tình, thất vọng, hoặc gặp cảnh buồn lòng
nghịch ý, tưởng rằng chết là hết đau khổ, là giải thoát tất cả khổ, nên họ
không ngần ngại mượn chén thuốc độc, hay
dòng sông sâu,
hoặc sợi dây oan trái
để kết liễu đời mình.
Họ đâu ngờ rằng
chết rồi
vẫn chưa hết! Họ đâu biết rằng
luật nhân quả nghiệp báo là một vật thường hằng bất biến của môi trường
sống.
Ngoài những
hành động ác thiện của
loài động vật ra, khi chết
không còn lại gì
cả. Chính vì những hành động của loài động
vật là một tác nhân tạo ra
nghiệp, cho nên đức Phật
dạy:
“Nghiệp là
cha đẻ ra con người, con người là thừa tự nghiệp”.
Như thế làm sao gọi
là đoạn kiến.
Khi chết trong ác nghiệp
khổ đau thì nghiệp khổ
đau ấy vẫn phải tiếp tục tái sanh trong nghiệp nhân quả đau khổ kế tiếp.
Người chấp
đoạn kiến là những người không thông suốt môi trường sống hợp duyên của các
pháp. Trong môi trường sống này, không có một vật gì sanh ra mà đơn điệu, toàn
là các pháp hợp lại tạo thành.
- Ví dụ
1: Không thể
có một người
đàn ông cũng như một người đàn bà
đơn điệu tự một mình sanh ra con được, mà phải có
hai người nam nữ
lấy nhau, tạo duyên
ngũ uẩn hòa hợp mới
thành ra con người.
- Ví dụ 2:
Không thể lấy một cây cột, lấy một tấm
tôn, một miếng
vách mà bảo rằng vật đó là
cái nhà được, một cái nhà phải có các vật hợp lại như: cột,
kèo, vách, tôn, cửa cái, cửa sổ, rồi tạo dựng ra cái nhà.
Đó là các
pháp trong môi trường sống này đều do duyên hợp mà thành, nhưng bảo rằng khi hoại
diệt thì không còn gì
hết là
sai (đoạn kiến), mà bảo rằng còn thì cũng sai (thường kiến),
đó là hai cái sai của những lý luận này.
3- Vừa thường
vừa đoạn kiến: Có một luận thuyết cho rằng
các pháp trong thế gian này vừa có vừa không như ngài Long Thọ: “Sắc
tức thị không, không tức thị sắc”. Đó là lối lý luận trườn
uốn như
con lươn, để rồi
Ngài đẻ ra trí
tuệ Bát Nhã chơn
không, thành ra thường kiến.
Cuối cùng, Ngài cũng như các nhà thường kiến khác, nhưng giỏi khéo lý luận
để che mắt thiên hạ, chứ kỳ thực Chơn
Không của Ngài
đâu có khác
gì thần thức, linh hồn, đại
ngã, Phật tánh, bản thể vạn hữu, chỉ có khác là danh từ mà thôi.
Do những
lý luận này,
đã biến những
tu sĩ Phật giáo thành những nạn
nhân, bỏ biết bao nhiêu công lao sức lực tu hành, rốt cùng cũng chẳng ra gì, khổ
đau vẫn hoàn khổ đau, chẳng có ai làm chủ sanh, già, bịnh, chết cả.
8/ KIẾN THỦ:
Có nghĩa là chấp chặt sự hiểu biết sai lầm của mình, có ba trường hợp:
1- Kiến thủ vì
ảnh hưởng tư tưởng
của người khác: Khi học hiểu một
điều gì do lý luận của các nhà tư tưởng,
như tư tưởng
chơn không, Phật tánh,
v.v... Cũng như
thấy những hiện
tượng nhập đồng, nhập cốt do cô,
cậu hoặc linh hồn người chết
oan nhập vào, nói
đâu trúng đó, rồi
cho đó có linh hồn
người chết, có thế giới
siêu hình, rồi chấp
chặt, ai nói
gì cũng không
tin. Không ngờ thế giới siêu
hình là do tưởng uẩn tạo thành, chứ
không có thế giới siêu
hình thật sự. Do
sự chấp chặt
này, họ phải
chịu thiệt thòi nhiều mặt về sự tu hành cũng như về đời
sống.
2- Kiến thủ
vì không ý thức được sự sai lầm
của mình: Hòa thượng Thiện Hoa dạy: “Hành vi của mình
sai quấy, ý kiến của
mình sai lầm,
nhưng vì không
đủ sáng suốt để nhận
thấy, nên cứ bảo thủ hành vi,
ý kiến của mình, tự cho mình là hay, là giỏi, ai nói gì cũng
chẳng nghe.
3- Kiến
thủ vì tự
ái, hay vì
ngoan cố cứng đầu:
Biết mình làm
như thế là sai, nói
như vậy là không đúng,
lỡ lời, nhưng
vì tự ái, cứ bảo thủ cái sai cái không đúng của mình, không chịu thay đổi, không
chịu sám hối,
xin lỗi, không
chịu từ bỏ, xa lìa.
- Ví dụ:
Như trước kia ông
bà đã lỡ
theo tà giáo ngoại
đạo, nay con
cháu đã biết
đó là tà giáo, nhưng cứ theo mãi không dám bỏ, cho
đó là tôn giáo truyền thống của tổ tiên, ông bà để lại không được bỏ, mặc
tôn giáo đó dạy những
điều phi đạo đức,
phi nhân quả,
thường dạy những điều cầu cúng, mê tín, lạc hậu, v.v...
Có người còn nói một cách liều lĩnh, ngu si: “Xưa sao nay vậy”, hay: “Xưa
bày nay
làm”. Cũng như
cha mẹ trước là nghề
nghiệp ác như
chài lưới, săn bắn hoặc làm
nghề đồ tể,
bán thịt sống,
thịt chín, mãi dâm,
bán rượu, thuốc
phiện, xì ke ma túy,
v.v... đó là những nghề ác độc tội lỗi, đến con cháu vẫn cứ bảo thủ nghề ấy, không
chịu thay đổi
nghề khác.
Nhìn rộng ra xã hội bên ngoài, có một số đông người, mặc dù thời đại của chúng ta hiện giờ con người
đã có nhiều tiến bộ về khoa học kỹ thuật, hiện đại hóa đời sống, thế mà người
ta cứ vẫn giữ lại những lề lối cổ tục hủ bại, hễ trong nhà có người chết là giết
heo bò để cúng kiến, rước thầy
chùa tụng
kinh để cầu siêu
linh hồn. Trong khi ông
thầy tụng chưa độ
được ổng siêu,
mà ông đi lại
cầu siêu cho kẻ
khác, thì việc làm
đó là một điều
ngu si. Khi đưa đám tang
thì rải giấy tiền vàng
mã; mỗi khi tuần
tự hay giỗ kỵ
thì lại đốt giấy tiền vàng mã và quần áo
kho đụn nữa. Hằng năm cứ vào
ngày rằm tháng
ba âm lịch, thì Ban Tế
Tự tập họp
dân chúng làm lễ cầu
an, cúng tế tà thần,
ác quỷ, v.v...
Làng xã chấp
chặt những hủ tục mê tín lạc hậu như
thế, mà
còn cho đó là “văn
hóa truyền thống
của dân tộc”
không được bỏ. Những việc làm đó
đều thuộc về kiến thủ.
9/ GIỚI CẤM
THỦ: Có
nghĩa là làm
theo, sống theo giới cấm của ngoại đạo, tà giáo. Những giới cấm của tà
giáo ngoại đạo này phần nhiều vô lý,
phi đạo đức,
mê muội, dã
man, v.v... Những giới
cấm này khiến
cho con người bất hiếu
và tự làm khổ mình.
Hòa thượng
Thiện Hoa dạy: “Các giáo phái ngoại đạo ở Ấn Độ lấy đá dằn bụng,
đứng một chân giữa trời nắng,
nằm trên chỗ bẩn thỉu,
leo lên cao nhảy xuống,
gieo mình vào lửa, nhảy xuống
sông trầm mình
chịu lạnh lẽo để được phước, chặt hoặc đốt một lóng tay, có
người chặt nguyên một cánh tay để cầu pháp.
Những thứ cuồng tín như thế,
không làm cho cuộc
đời sáng sủa,
mà còn là cho
đen tối và khổ đau thêm”.
Giới cấm thủ
này chúng ta thấy trong kinh Pháp Hoa, phẩm Tựa dạy cúng dường thân mạng hoặc một
phần thân mạng
để cầu pháp
giải thoát, khiến cho những người cuồng tín chặt hoặc đốt ngón tay, hủy
hoại cơ thể của mình, từ không tật nguyền
mà thành tật nguyền, không khổ mà làm thêm khổ, đó là giới cấm thủ, hay còn gọi
là những giáo điều của ngoại đạo.
10/ TÀ KIẾN: Có
nghĩa là chấp
chặt theo lối không chân chánh, trái với sự thật, trái
với luật nhân quả, phi đạo đức, như trong kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Môn, Bồ tát
Quan Thế Âm cứu khổ cứu nạn chúng sanh, đó là tà kiến phi đạo đức, phi nhân quả,
mê tín.
Hòa thượng
Thiện Hoa dạy: “Tà kiến nghĩa là mê tín,
dị đoan, như thờ đầu
trâu, đầu cọp,
bình vôi, ông táo, xin xăm, bói
quẻ, buộc tôm đeo niệt, coi sao,
cúng hạn, v.v... Nói
rộng ra, những
kiến chấp trên đều thuộc về tà kiến cả”.
Nghĩa là
trên đời này,
cái gì ý thức không hiểu được, mà phải dùng tưởng thức để
hiểu, hiểu như vậy là hiểu một
cách mơ hồ, trừu tượng, không
rõ, không thực tế, không
cụ thể, thì đều gọi là tà kiến.
Khi tu Định Vô Lậu câu hữu với Tập Đế là chúng ta sống trong thực tế, cái gì ý thức
hiểu biết cụ thể, thực tế hoàn
toàn thì mới tin, còn ngoài
ra không tin một
cái gì cả. Phần
nhiều người ta thường
hay sống trong tưởng thức nên người ta phải chịu khổ.
- Ví dụ:
Người ta chửi
mình đồ chó, đồ trâu, mình
tưởng ra mình là chó, trâu,
nên mình
sanh tức giận chửi mắng lại họ. Cũng
như người ta chửi mình: “Tao đào mồ mả cha mày lên”,
mình tưởng rằng họ
đào mồ mả cha
mình, chứ sự thật họ đâu có đào, thế mà mình sống trong tưởng, rồi sanh ra tức giận
chửi mắng, đánh
nhau. Thật là tà kiến điên đảo
và sống không thực tế, tạo cảnh khổ
mình, khổ người khác, chẳng có ích lợi
gì cả.
- Ví dụ: Người
ta chửi mình là đồ ăn cắp, ăn trộm, mình
tự ái, sợ người khác không hiểu mình, sanh ra nghi
ngờ mình ăn cắp, ăn trộm thì xấu hổ. Cái tự ái, sợ hãi người ta nghi
ngờ mình, nên mình tức giận và buồn khổ trong lòng mãi, đó là mình sống trong tưởng, chứ sự thật
mình có ăn trộm, ăn cắp đâu mà sợ.
Con người ở
đời sống trong tà kiến, nên luôn luôn chịu khổ
đau, tức giận,
sanh ra thù hận
không nguôi, tạo ra
nhiều điều ác đức tội lỗi, rồi lại còn tiếp tục bằng cách trả thù, trả
oán cho đã cơn giận.
Cho
nên, khi chúng ta biết áp dụng Định Vô Lậu
kết hợp với Tập Đế,
thì chúng ta không
còn sống trong tưởng,
nói cách khác
là chúng ta không còn sống trong tà kiến.
(Trích
ĐVXP Tập
6 Trg 197-206
Tập 1 trg
143-50-81-205)
TU LÀ SỬA,
CHỨ KHÔNG PHẢI TỤNG KINH, NIỆM CHÚ, NIỆM PHẬT, CÚNG BÁI, NGỒI THIỀN
Hỏi: Con
nghe những người tu Tịnh Độ nói: “Niệm
Phật cũng là
phương pháp xả
tâm”. Có phải như vậy không
thưa Thầy? Những người
tu Tịnh Độ dẫn chứng rằng,
khi đang giận,
buồn, tức một điều
gì đó, thì cứ nhớ niệm Phật
là cơn tức giận
buồn lo sẽ biến mất.
Những người tu Tịnh Độ còn cho biết:
“Cứ niệm Phật
mãi, niệm mãi” đến một ngày nào đó nó sẽ “vỡ
ra” thì sẽ được
tâm rỗng rang sáng suốt.
Đáp: Niệm Phật
là một phương pháp ức chế tâm, chứ không
phải niệm Phật
là phương pháp xả tâm.
Nhưng mọi người
đã hiểu lầm ức chế và
xả tâm. Chính ngay những vị Thầy dạy về pháp môn Tịnh Độ họ cũng chẳng biết
pháp môn đó là pháp môn ức chế tâm huống là những tín đồ. Vậy ức chế tâm như thế
nào? Và xả tâm như thế nào?
Ức chế
tâm có nghĩa
là nén tâm,
chịu đựng, ép buộc, hay bắt buộc làm cho tâm không khởi niệm (vọng tưởng),
v.v...
Pháp ức chế
tâm gồm có: Niệm Phật A Di Đà, niệm thần chú, biết vọng liền buông, chẳng niệm
thiện niệm ác, chăn trâu, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, Lục Diệu pháp môn, thiền
Minh Sát tuệ,
tham thoại đầu,
tham công án, v.v... Những người tu Tịnh Độ hiểu lầm
nên cho ví dụ:
Khi đang giận, buồn, tức một điều
gì đó thì cứ nhớ niệm
Phật là cơn tức giận, buồn, lo sẽ biến mất. Đó là cách thức ức chế tâm bằng câu
niệm Phật mà người tu Tịnh Độ không biết, cho rằng xả tâm. Tu theo Tịnh Độ như
vậy dù một ngàn kiếp cũng chẳng bao giờ hết
tham, sân, si, chỉ vì ức chế tâm.
Xả tâm có
nghĩa là trước khi xả một niệm nào trong
tâm, phải có sự tư duy
suy nghĩ cho thấu đáo nghĩa
lý của niệm
đó, và còn phải biết
áp dụng đức hạnh của giới
luật vào niệm
đó để chuyển hoá niệm. Sự chuyển
hoá niệm gọi là xả tâm, cho
nên đức Phật bảo: “Tri kiến
ở đâu thì đức hạnh
giới luật ở
đó, đức hạnh
giới luật làm thanh tịnh
tri kiến, tri kiến làm
thanh tịnh đức hạnh giới luật”.
Lời dạy trên
đây là cách thức xả tâm rất tuyệt vời của kinh sách Nguyên Thuỷ, còn toàn bộ
kinh sách phát triển
đều dạy ức chế tâm,
nên chẳng cần tư duy theo niệm,
chỉ cố ức chế tâm vượt qua những lúc tâm giận hờn, phiền não mà thôi. Khi ức chế tâm, thấy tâm sân
không còn tưởng là xả tâm, vì vậy tâm sân không bao giờ hết. Nếu bảo rằng
niệm Phật xả tâm
phiền não được,
thì niệm Phật cũng xả được
các cảm thọ,
như khi bị bệnh đau nhức nơi
thân thì niệm Phật phải hết đau. Hết đau sao người niệm Phật
lại đi bác sĩ nằm nhà thương nhiều như vậy?
Các cảm thọ
nơi thân là do bị bệnh đau nhức, đó
là niệm thọ khổ của
thân. Vậy niệm
Phật có xả niệm thọ khổ của thân
đó không? Hay lại phải đi bác sĩ, vào bệnh viện như trên đã nói.
Trong thân
chúng ta có bốn chỗ để xả: 1- Thân; 2- Thọ; 3- Tâm; 4- Pháp. Nếu niệm Phật xả tâm được thì xả
thân được; xả
thân được thì xả
thọ được; xả thọ được
thì xả pháp được.
Như vậy các bạn có làm được chưa? Nếu chưa làm được như vậy thì các bạn
chỉ ức chế tâm mà thôi.
Trên đời ai
nói gì cũng được, nhưng làm cho được thì
không phải dễ, nhất là hiểu sai chữ
nghĩa thì làm sao tu hành đúng được. Phải không các bạn?
Từ xưa đến nay
người ta đã hiểu sai Phật
pháp, nên chẳng
có ai tu chứng làm chủ bốn sự
đau khổ. Đến giờ
này các phật tử cũng
còn hiểu sai là do các
Thầy tổ khéo
léo bưng bít che dậy, hướng dẫn một
cách sai lầm.
Người ta
không biết pháp môn Tịnh Độ là một pháp
môn ảo tưởng, nên bị
các thầy lừa đảo như câu nói này: “Cứ niệm Phật mãi, niệm mãi,
đến một ngày nào
đó nó sẽ “vỡ ra”
thì sẽ được tâm rỗng rang sáng suốt”. Theo lời dạy này thật
là mơ hồ, trừu tượng, thiếu thực tế, không khoa học. Tôi xin hỏi
các bạn, các bạn cứ
thành thật trả lời.
Vậy “vỡ ra” là vỡ ra cái gì? Tâm rỗng rang sáng suốt để làm gì?
Những danh từ “vỡ
ra” và “tâm rỗng rang sáng suốt”, là những danh từ của Thiền
tông, mà
Tịnh Độ
tông đã chịu ảnh hưởng
rồi vay mượn, chứ Tịnh Độ tông có biết vỡ ra là vỡ ra
cái gì không? Như trên
đã nói. Còn
tâm rỗng rang
là tâm như thế
nào? Trong khi pháp
môn Tịnh Độ dạy:
“Thất nhật nhất
tâm bất loạn
chuyên trì danh hiệu
A Di Đà Phật”. Vậy
thì làm sao mà rỗng rang
được, thật là
phi lý, bắt
chước mà không hiểu
nghĩa, cũng giống
như người mù rờ
voi, cũng giống như người ăn bánh mà không biết mùi vị.
Tu hành với
mục đích là phải làm chủ bốn sự khổ đau của kiếp người: sanh, già, bệnh, chết,
chứ tu hành đâu phải mục
đích để tâm rỗng rang sáng suốt. Tâm rỗng rang sáng suốt để
làm gì?
Pháp môn Tịnh
Độ là pháp môn ảo tưởng, nên tu hành không làm chủ sanh, già, bệnh, chết, nên
các tổ Tịnh Độ chỉ còn biết cầu nguyện:
“Cầu cho tôi
chết biết ngày,
Biết giờ, biết
khắc, biết rày tánh linh
Cầu cho bệnh
khổ khỏi mình”
Đấy, các bạn
có thấy những câu sám trên đây là một sự cầu nguyện và hy vọng, chứ không đủ niềm tin vào
pháp niệm Phật của mình.
Vậy mà bảo: “Niệm
mãi, niệm mãi
nó sẽ “vỡ
ra” thì sẽ được tâm rỗng rang
sáng suốt”. Bắt chước Thiền tông nói một cách mơ hồ không thực tế.
Ngược lại,
pháp môn Tứ Niệm Xứ của
Phật giáo Nguyên Thủy rất thực tế, đẩy lui các sự khổ đau trên bốn chỗ: thân, thọ, tâm, pháp: “Này các
Tỳ kheo, ở đây này các Tỳ kheo,
trú quán
thân trên thân,
nhiệt tâm tỉnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; trú
quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm tỉnh giác chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời; trú
quán tâm trên tâm, nhiệt tâm tỉnh giác chánh niệm, nhiếp
nhục tham ưu ở đời; trú
quán pháp trên
các pháp, nhiệt tâm
tỉnh giác chánh
niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
Như vậy, này
các Tỳ kheo, là
Tỳ kheo chánh niệm”.
Đoạn kinh
trên đây, chứng tỏ đạo Phật có những
phương pháp để khắc
phục những sự khổ
đau của đời người, chứ không phải cầu nguyện.
So sánh giữa
hai pháp môn Tịnh Độ
và Tứ Niệm Xứ, chúng ta thấy pháp
môn niệm Phật của Đại thừa giống
như một người
mù dẫn một số
người mù đi, thật là nguy hiểm, tốn công sức, tốn của cải tài sản một cách vô
ích. Chỉ sống trong ảo tưởng, mộng mơ,
làm gì có sự
làm chủ sự sống
chết và chấm dứt luân hồi.
Tóm lại,
pháp môn Tịnh Độ là một pháp môn ảo tưởng, pháp môn mê tín, pháp môn lừa đảo.
CHẤN CHỈNH
PHẬT GIÁO
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Trong tập
hai Đường Về Xứ Phật, bìa xanh, mục
nhân quả trang 160, Thầy viết khi đức Phật
nhập Niết Bàn,
Ngài bị đau lưng nên bảo ông Anan
trải tọa cụ để nằm nghỉ.
Đạo Phật
là đạo làm chủ sanh,
già, bệnh, chết, cớ sao đức Phật
lại bị đau lưng như vậy?
Khi nhập diệt đức Phật
phải nhập định
ba lần xuôi ngược rồi mới nhập diệt, như vậy là ý nghĩa gì?
Nếu kinh
sách phát triển
nói đức Phật
đau lưng thì không thể nào được ghi vào sách của Thầy, mong Thầy chỉ cho
con hiểu.
Đáp: Trong
câu này gồm có ba câu hỏi:
1- Làm chủ bệnh
sao đức Phật lại bệnh đau lưng?
2- Làm chủ
chết sao đức Phật không tự tại nhập diệt mà phải nhập định ba lần?
3- Tạo
sao đoạn kinh này lại được ghi
vào sách của Thầy?
Như con
đã biết trong
kinh sách Nguyên Thuỷ, đức Phật dạy phương cách làm chủ
bệnh là pháp môn Tứ Niệm Xứ. Pháp môn Tứ Niệm Xứ là pháp môn khắc
phục những sự đau khổ của thân và
tâm (Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu...), tức là làm chủ sanh,
già, bệnh, chết. Người
cha
sinh pháp môn ấy là đức Phật.
Thế sao đức Phật lại còn bị bệnh
đau lưng? Một điều vô lý hết sức. Giáo lý đạo Phật có mâu thuẫn nhau không? có
lường gạt người ta không? Mà lại viết những điều này.
Ai đã viết
điều này trong kinh sách Nguyên Thủy? (Đức
Phật đau lưng). Ai đã phỉ báng đức Phật
như thế này?
(Nói láo). Nếu không có Thầy thực
hiện và không có các đệ tử của Thầy tu tập pháp Tứ
Niệm Xứ đẩy lui
các bệnh khổ, thì ai là
người minh oan cho đức Phật và xác định Tứ Niệm Xứ
là pháp môn
làm chủ sanh, già, bệnh
chết thật sự.
Trong khi đó, kinh sách Nguyên Thủy ghi chép đức Phật đau
lưng rõ ràng bằng giấy trắng mực đen.
Chúng tôi chứng
nghiệm được pháp môn Tứ Niệm Xứ đẩy lui các chướng ngại pháp trên thân tâm, nên
mạnh dạn tuyên bố với các bạn: “Đoạn
kinh kết tập này
là sai, do người
sau thêm vào để che
đậy pháp
môn Đại thừa
tu hành không làm chủ bệnh”.
Hơn 25 thế kỷ
trôi qua, ai cũng nghĩ rằng đức Phật
chưa có làm chủ bệnh khổ.
Người tu xong đọc
đến đoạn kinh ngày
rất đau lòng và
thương cho Phật giáo. Vì thương mình,
thương người, đức Phật phải bỏ hết sự giàu sang, quyền thế, dục lạc thế
gian, phải hy sinh cả thân mạng
để mưu cầu hạnh phúc, an vui
cho mọi người. Ngài là người cha sinh ra Phật giáo, vậy ai nỡ nhẫn
tâm viết những đoạn kinh
ghép vào trong
kinh sách
nguyên Thuỷ
để đánh lừa mọi người khác, để phỉ báng
đức Phật thật
là đau lòng, những
kẻ ấy sẽ bị đoạ xứ ác, chịu khổ đau vô lượng.
Đức Phật nhập
Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền,
nhập xuôi nhập ngược ba lần rồi nhập vào Tứ Thiền
xả bỏ báo
thân. Đó là “thân hành di chúc” lần cuối cùng để nhắc
người đời sau: “Tứ Thánh Định mới là chánh định, mới là thiền của Phật giáo”.
Nhập Tứ
Thánh Định, xả bỏ báo thân cũng là
xác định cho người đời sau biết: Chỉ có
bốn thiền này mới làm chủ sanh, già, bệnh, chết, ngoài bốn thiền này không có
thiền nào làm chủ trọn vẹn bốn sự đau khổ của kiếp người được. Các bạn nên
lưu ý:
Những thiền của
ngoại đạo làm chủ được cái này thì không làm chủ được cái kia.
Đoạn kinh
này rút ra từ trong kinh tạng Nguyên Thuỷ, được ghi vào sách Đường Về Xứ Phật,
để xác định cho mọi người thấy
cái sai của những người kết tập kinh sách, thường thêm vào và bớt
ra làm kinh sách
nguyên gốc của Phật
giáo mất
giá trị như đoạn
kinh trên đây. Trong sách Đường Về Xứ Phật, người biên tập
đã cắt bỏ đoạn kết luận của bài Nhân Quả, nên làm mất ý nghĩa. Xin cáo lỗi cùng
các bạn.
Hỏi: Những Lời Phật Dạy được Thầy
triển khai minh bạch,
logic và khoa học, làm
sao gửi đến giáo hội
cao cấp để cùng
nghiên cứu lại,
cùng nhìn
nhận sự thật,
để kịp thời
chấn chỉnh lại Phật
giáo. Con hằng mong ước: Ngày Đại hội Phật giáo sẽ là ngày thanh lọc lại
những gì đạo Phật nên duy
trì và những gì cần loại bỏ (mê tín), thì may ra mới còn giữ đúng nghĩa
chữ “tu”. Vì tu là sửa. Mà giáo pháp không sửa đúng, cứ cố chấp bảo thủ mãi những
giáo pháp không đúng của Phật giáo,
thì làm sao thực hành
theo giáo pháp ấy mà thành tựu đạo
quả.
Đáp: Phải
tùy duyên con ạ! Phước chúng sanh chưa đủ thì dù chúng ta có muốn cũng không
làm được.
Không phải
thời mạt pháp,
mà chỉ vì con
người sống trong ác pháp, phóng xuất vô lượng từ trường ác
trong bầu khí
quyển, làm cho
môi trường sống xấu đi, từ đó chánh pháp của Phật bị chôn vùi dưới lớp bụi kiến
giải của những
nhà học giả và của ngoại đạo.
Một Phật
giáo truyền thừa đã sai lệch từ mấy ngàn năm qua, đã ăn sâu vào tâm tư của mọi
người; một truyền
thống văn hoá
mê tín lạc hậu của
Tịnh Độ tông,
của Mật tông;
một trạng thái ảo tưởng mơ hồ lầm lạc của Thiền tông.
Muốn gội rửa những tư tưởng này
không thể một thời gian ngắn mà
được, phải có thời gian con ạ! Vậy chúng ta phải kiên gan, bền chí, lần lượt từng
giờ, từng phút, từng giây để chấn chỉnh lại những kinh sách, những giới luật,
những đạo đức làm Người, làm Thánh của Phật giáo.
Và còn mạnh dạn
thẳng thắn chỉ rõ những chỗ sai lầm, những kiến
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!