lời Phật dạy:
“Bất cứ trong hoàn cảnh khốn khổ nào, bất cứ gặp những
phiền phức gì, đều không
nên khởi tâm
oán hận‛. Sức tu
của La Hầu La quả thật tiến bộ rất nhiều.
Bên ngoài
mưa tuôn xối xả, nước chảy tràn xuống những chỗ trũng, có một con rắn đen ở
trong hang bên cạnh, bị ngập nước bèn bò ra, dần dần bò vào nhà xí mà La Hầu La
không hề để ý. Rắn độc miền nhiệt đới rất nguy hiểm, lúc ấy sinh mạng của chú Sa Di La Hầu La như chỉ mành
treo chuông.
Đức Phật
đang ở trong thất, hốt nhiên nhớ đến La Hầu La,
Ngài dùng thiên
nhãn thấy được sự nguy
hiểm gần kề,
bèn đi ra nhà
xí, đằng hắng một tiếng, bên trong cũng có tiếng đằng hắng. Phật bèn hỏi:
- “Ai ở
trong đó?”
- “Dạ La Hầu La”.
- “Ra mau! Phật bảo con đi ra”.
La Hầu La
không ngờ Đức Thế Tôn đã kêu mình, vội bước ra, bất giác quỳ bên chân Phật nước
mắt lưng tròng. La Hầu La còn nhỏ, tình cảm không khỏi yếu ớt.
Phật bèn hỏi vì sao La
Hầu La lại ngồi ở trong
nhà xí. La Hầu La thuật lại mọi việc. Phật
bèøn dạy La Hầu
La hãy vào
trong phòng
Ngài. La Hầu La
vui mừng, như từ Địa ngục bước lên Thiên đường.
Trẻ con tuổi
nhỏ cắt ái từ thân,
vào trong Tăng đoàn,
cần phải được các
Tỳ Kheo lớn chiếu
cố đến. Vì
nhân duyên đó, đức Phật
bèn quy định cho các Sa Di, có thể ngủ chung phòng với các Tỳ Kheo hai
đêm. Tình thương của đức Phật, chỗ vi tế nhất đều lưu ý đến.
Xưa nay, Sư
phụ thâu
đệ tử phải
có trách nhiệm dạy dỗ. Thầy của
La Hầu La là Xá Lợi Phất, thường bận giúp Phật hoằng hóa bên ngoài, ít có
dịp ngó ngàng đến
La Hầu La, nhưng
từ khi sự kiện ấy
xảy ra, Xá Lợi Phất thường gọi
La Hầu La đến ở
trong phòng với Tôn giả.
ĐỨC NHẪN NHỤC
Từ khi được đức Phật chỉ dạy và lại thường được ở bên cạnh Sư phụ Xá Lợi Phất, nhận được sự hướng
dẫn của Thầy, La Hầu La tu tiến rất nhanh.
Khi đức Phật giảng kinh, Xá Lợi Phất đều dẫn La Hầu
La đi nghe. Khi Xá Lợi Phất
tịnh tọa, La Hầu La cũng tịnh tọa một bên; khi đi thuyết pháp giáo hoá,
Xá Lợi Phất cũng dẫn La Hầu La theo
bên mình, dạy
cho La Hầu La
những kinh nghiệm tu
hành vì pháp,
vì mọi
người. Mỗi ngày khất thực xong, La Hầu La lại theo sau
Xá Lợi Phất. Trong Tăng đoàn, tôn giả Xá
Lợi Phất được xem như đức Phật
thứ hai, thật là Ân sư tôn quý của
La Hầu La.
Một hôm,
La Hầu La đi theo Xá Lợi
Phất khất thực tại
thành Vương Xá,
trên đường đi gặp một tên lưu manh, hắn lấy cát ném vào bát Xá Lợi Phất, và
lấy gậy đánh trên đầu La Hầu
La.
La Hầu La bị thương,
máu nhỏ giọt
xuống y, tên lưu manh
thấy vậy chẳng
những không biết lỗi còn chửi:
- “Mấy lão trọc
chỉ biết đi
xin ăn, cứ
xưng là từ bi nhẫn nhục,
ta đánh lỗ đầu mày thử
xem làm gì ta”.
La Hầu
La lúc ấy
còn bé tuổi
thơ, đã không lộ vẻ tức giận căm
gan, nhưng Xá Lợi
Phất vẫn an ủi.6
6 Câu
này chúng tôi
xin sửa lại
cho đúng ý nghĩa trong kinh Nguyên Thủy. Xuất gia lúc 10 tuổi La Hầu La
đã tỏ ra là một người có chí tu hành cầu
giải thoát, nên được Phật và thầy Bổn Sư Xá Lợi Phất tận tình dạy dỗ tu tập từ khi bước
chân vào Tăng
đoàn. Những bài
kinh Giáo Giới La Hầu La đã xác định
được sự tu tập của La Hầu La thì làm gì
khi bị đánh lỗ đầu chảy
máu mà đến nỗi căm tức.
Trong kinh này
người ghi lại tiểu sử
không trung thật. Xin các bạn đừng
vội tin theo người viết bản sử này.
‚Này La Hầu La, nếu thật
là đệ tử Phật,
cần phải có
tinh thần nhẫn nhục, trong
tâm không chứa niềm sân hận, phải đem lòng từ bi thương xót chúng sanh, Đức Phật thường dạy
chúng ta như vậy. Lúc vinh
dự đừng sanh
lòng cao hứng, khi
bị làm nhục cũng đừng oán hận. Này La
Hầu La, nên điều
phục tâm đừng để giận tức, giữ
chắc tâm nhẫn
nại. Trên thế
gian không có gì sánh bằng người có sức nhẫn nhục mạnh mẽ, cõi Trời, cõi
Người, dù sức mạnh đến đâu cũng
không hơn nhẫn nại!‛.
La Hầu La
nghe Xá Lợi Phất khai thị lẳng lặng đến bên ao
nước, mặt nước
soi rõ bóng dáng,
La Hầu La lấy tay
khoát nước rửa sạch
vết thương, xé một chút vải băng lại. Xá Lợi
Phất theo dõi
tình hình, trong lòng vừa an ổn lại thương tình.
La Hầu La nhẫn
nại, an nhiên theo Xá Lợi Phất, khất thực xong, trên đường về mới nói với Thầy:
- “Con nghĩ đến vết
thương trên đầu, lúc ấy
con rất thương
người hung ác
đánh con, nhưng trên
thế gian này
sao lắm kẻ hung
ác, đến đâu cũng gặp toàn những việc đáng ghi nhận. Con không giận đời,
chỉ nghĩ đến cõi đời
này nhiều
người không biết
điều, nhưng con luôn
nhớ lời đức Phật dạy: Nên
có lòng đại từ, đại bi với họ, để mặc hạng người
cuồng bạo nhục mạ
chúng ta. Làm Sa Môn Tỳ
Kheo phải giữ hạnh nhẫn nhục, chứa đức cao mà người cuồng ngu trở lại khinh chê, lại đi kính
trọng mấy kẻ hung dữ độc
ác. Đức Phật dạy chân
lý từ bi, họ trở lại cho là
hôi như xác chết, như trời mưa cam lồ mà loài chó hoang lại chỉ
ưa đồ dơ bẩn, ưa ở nơi
hôi hám. Nhưng
chân lý Phật dạy, những lời nói từ bi của Ngài
mà đem nói với hạng người
hung dữ, không
có chút căn lành ấy, chẳng có hiệu quả gì’’.
Đây là lần đầu
tiên La Lầu La đem việc tu hành và ý nghĩ của mình bày tỏ với Sư phụ. Xá Lợi Phất nghe xong rất
hoan hỷ, đem những lời của La Hầu La về bạch lại với đức Phật. Phật cũng rất
vui lòng, khen La Hầu La ngày nay rất ngoan, đối với người hung ác nên có thái
độ như thế, và cách
nhìn đời cũng
biết như vậy.
Phật lại dạy thêm:
- ‚Người
không biết nhẫn,
sẽ không tiếp thọ
được Phật Pháp,
giận đời oán người
là điều trái với
pháp, xa chư
Tăng, thường luân hồi trong
đường ác, hạnh nhẫn nhục mới là hạnh an ổn, mới có thể
tiêu trừ tai nạn. Người trí tuệ
thấy được
nhân quả
sâu xa. Khắc phục tâm
sân hận, thường hành nhẫn nại.
Tinh thần của Phật Pháp, chân nghĩa
của Phật Pháp không giống như lối nhìn của
người đời. Những gì thế gian cho là
cao quý thì Phật Pháp cho là hạ tiện; Phật Pháp cho là tốt,
là phải, thì người đời không chịu làm theo. Trung không
ưa nịnh, tà chẳng
thích chánh, ác không thích đi chung
với thiện. Người tham
dục thì ghét người
vô dục. Trong tình cảnh
ấy người tu
hành chỉ có việc nhẫn nại.
Nhẫn nại là duyên trợ đạo
tốt nhất, có thể
khiến người tu mau chứng
quả Thánh. Nhẫn như thuyền bè trên sông biển, có thể vượt qua mọi sóng gió; nhẫn
là thuốc lành trị bệnh, cứu mạng sống cho người trong
cơn nguy. Tu
thành Chánh giác, vượt qua
ba cõi, được
Người, Trời kính ngưỡng, là vì
tâm ta
đủ sức an ổn,
phải biết rằng đức nhẫn rất quý vậy‛.
Do nhân duyên
La Hầu La bị kẻ côn đồ vô cớ hành hung lỗ
đầu mà trong lúc tuổi trẻ máu nóng lại có thể nhẫn chịu như một ông
Thánh, khiến Sư phụ rất an
tâm, đức
Phật cũng mừng thầm
và dẫn khởi đến đoạn thuyết
pháp trên. Xá Lợi Phất nghe xong
vô cùng cảm động, La Hầu La cũng rơi lệ, lại càng cảm kích hơn.
LỊCH TRÌNH
CHỨNG ĐẠO
La Hầu La đối
với chuyện bị chiếm phòng, tự nguyện nhượng
bộ; trên đường
đi bị kẻ ác
đánh trọng thương đều có thể nhẫn được. Tu dưỡng cẩn mật như vậy, chỉ còn một đoạn
nữa là được chứng đạo.
La Hầu La thông
minh khéo léo,
tinh tấn tu hành; khi còn
Sa Di La Hầu
La là một đứa
trẻ ngoan, hiền
lành chứ không
phá phách thiên hạ như trong
sách Thập Đại Đệ Tử mà sư cô Như Đức dịch.
Hôm nay
đã trở thành
một Thầy Sa Di nghi biểu trang nghiêm, đức Phật hứa khả: vào năm 20 tuổi
cho thọ giới Tỳ Kheo.
Tuy còn trẻ
nhưng La Hầu La đạo mạo như một người lão
thành. Những cuộc
nhóm họp đông đảo
trong sinh hoạt của Tăng
đoàn, Thầy ít khi tham dự, chỉ im
lặng dụng công tu tập.
Thầy là con
yêu của đức Phật, là cháu cưng của vua Tịnh
Phạn. Vả
lại, Thầy tu
theo mật hạnh nên giữ gìn độc cư
im lặng khó ai nhận ra Thầy chứng đạo
hay chưa chứng
đạo. Nhưng qua mật hạnh tu tập của
Thầy, từ những bậc thượng thủ đến
các Tỳ Kheo
khác đều kính trọng Thầy, ái mộ Thầy, khen ngợi Thầy.
Các Thầy Sa Di trẻ rất dễ bị động
tâm khi được luôn nghe
những lời khen tặng; mấy
ngôn từ hoa mỹ ấy
đáng sợ như
ác ma, nhưng La Hầu
La càng
nghe lại càng dụng công
tinh tấn tu
tập.
Có Thầy Tỳ
Kheo hỏi Phật về chuyện tu hành của La Hầu La:
- “Bạch Thế
Tôn! Sa Di La Hầu La
nghiêm trì giới luật, tinh tấn tu
hành, không phạm một lỗi nhỏ, vì muốn cầu chứng đạo,
Thầy đã tận tình
buông sạch, vậy mà tại sao Thầy vẫn chưa chứng đạo?”.
Đức Thế Tôn
trả lời dứt khoát:
- “Giữ giới tịnh
tâm, giữ
thân đoan chánh, nhất định có thể dứt sạch ô nhiễm, nhất định dần dần chứng quả”.
Đối với việc La Hầu La
tu tập, Đức Phật
đầy tin tưởng, nhưng
ngày ấy cũng
không còn
xa.
La Hầu
La đem chỗ
tâm đắc của
mình bạch với Phật,
Phật dạy La Hầu
La từ đây về
sau nên im lặng
như Thánh mà
tu tập theo những lời Phật đã dạy.
Đức thế
Tôn khất thực
trở về đến chỗ La
Hầu La đang
tọa thiền.
La Hầu La từ toà đứng dậy, đảnh lễ Phật
và thưa:
- “Bạch
Thế Tôn! Phiền não
con đã hết. Con đã chứng đạo xong”.
Đức Phật rất
hoan hỷ còn hơn sự hoan hỷ của La
Hầu La, Ngài khen ngợi:
-
“Trong các đệ tử của
Ta, La Hầu
La là mật hạnh đệ nhất”.
Gọi là mật hạnh,
nghĩa là trong
ba ngàn oai nghi, tám
muôn tế hạnh,
La Hầu La đều
biết hết.
Nghĩ đến hồi ban đầu La Hầu La
theo Phật xin gia tài, hiện tại Tôn giả chứng
đạo là đã được đức Phật trao cho
pháp tài vô tận. Nghĩ đến thuở còn Sa
Di nhỏ
tuổi gia nhập
Tăng đoàn, La Hầu
La đã làm bận lòng
đức Phật không biết
bao nhiêu. Hiện tại, Tôn giả đã xa
lìa mọi dục lạc thế gian, đạt được niềm vui chân chánh của
pháp mầu. Thật
là vinh hạnh
cho Tôn giả.
NHẬP DIỆT
Những nhân vật
oanh liệt trong Tăng đoàn thuở ấy là Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, A
Nan, v.v.. còn
La Hầu La thì
không. Một người nghiêm túc
trong mật hạnh
trì giới, chỉ im lặng tu tập, im lặng không tranh đua với thế gian; hoặc
là vì La Hầu La quan hệ đến Thế Tôn, nên Ngài đặc biệt hạn chế Tôn giả. Chúng
ta cũng
biết La Hầu
La có tư
cách nhu thuận, bẩm chất kiên cường, nhưng chúng ta
cũng thấy trong sinh hoạt của một vị tu sĩ, tôn giả không phải là người sôi nổi. Cho nên, trong
kinh sử không thấy ghi lại những
sự tích La Hầu La nhiệt tình thuyết pháp, hay nghị luận với
ngoại đạo. Đúng như lời Đức Thế
Tôn nói tôn giả là một người nghiêm túc trong tế hạnh, trong
giới luật; là một vị mật hạnh đệ nhất.
La Hầu
La nhập diệt
khi nào, cũng như năm tháng đản sanh của tôn giả có hai
truyền thuyết. Thái tử Tất Đạt
Đa năm 19 tuổi hạ sanh La Hầu La, có thuyết
lại nói đến
năm 25 tuổi mới sanh La Hầu La. Về năm diệt cũng có hai
thuyết, một thuyết nói Tôn giả nhập Niết bàn
trước đức Phật
vài năm, thuyết
khác nói khi đức Phật
nhập Niết bàn
Tôn giả còn quỳ
bên giường.
Ấn Độ
là một nước
không mấy chú trọng
về lịch sử, còn Trung Hoa chúng ta thấy không ít nhà phiên dịch phóng đại và tưởng tượng
huyền hoặc. Những sự tích lặt vặt về cuộc đời Đức Thế Tôn và
các vị Thánh
đệ tử được
ghi chép trong kinh điển,
thật sự cũng
có ít nhiều cắt xén.
Căn cứ
theo sử ký
có thể khảo cứu qua kinh điển
thì Tỳ Kheo Ni Da Du Đà
La, mẫu
thân của La
Hầu La nhập diệt vào năm 78 tuổi, và La Hầu La nhập diệt được kể là sớm hơn.
Vào một buổi
chiều Da Du Đà La đã suy tư đến rất nhiều
sự việc bà nghĩ đến Kiều Đàm Di, Liên
Hoa Sắc đều đã nhập Niết bàn. La Hầu La cũng đã
nhập Niết bàn. Ta sanh đồng một năm với Đức Phật, năm nay ta đã bảy mươi
tám tuổi, nghe nói Đức Phật sẽ nhập
Niết bàn vào
năm
80 tuổi.
Nghĩ đến chuyện ta nhập diệt đồng một lúc
với Ngài, nhưng
hiện nay đối với Đức Phật chỉ
có pháp tình mà
không có tình riêng
gì khác. Vậy việc ấy là một điều bất kính;
chi bằng ta nhập diệt sớm là tốt hơn.
Da Du
Đà La được đức
Phật hứa khả, hướng về Phật đảnh lễ cảm tạ xong, bèn
hiện thần thông bay lên hư không mà đi, và đêm đó bà ở trong phòng, nhập định vào Niết bàn.
Căn cứ vào sử
ký nhập diệt của Da Du Đà La thì La Hầu
La đã nhập
diệt trước cả bà và
Đức Phật, và
theo đó tính tuổi
của Tôn giả không
quá 60 tuổi,
đại khái tôn giả chỉ sống
trên năm mươi năm là cùng.
Đương nhiên
đối với
một vị Thánh
thì cái chết, dù sớm hay muộn cũng chỉ là chuyện thường. Bỏ sắc thân hư
huyễn giả dối này, đem sanh mạng an trụ trong
từ trường bất động;
chuyện ấy
không có
gì phải buồn, trái lại đó là một hạnh phúc.
La Hầu La
vào năm 20 tuổi đã chứng quả, cái mục
đích tối hậu của đời người đã đạt được, thì khi nhập diệt nhất
định là an nhiên tự tại mà ra đi.
25 GIỚI HÀNH
SA DI
à
GIỚI THIỆU
BỘ GIỚI HÀNH
SA DI
Bộ Giới Hành
Sa Di này tôi dựa vào ba bài kinh sau
đây:
1- Giáo Giới
La Hầu La ở rừng Am Bà La.
2- Tiểu Giáo
Giới La Hầu La.
3- Đại Giáo
Giới La Hầu La.
Nhờ ba bài
kinh này chúng tôi
biên soạn thành bộ giới. Đây là một
bộ Giới hành hết sức quan trọng cho người mới
vào tu tập theo
Phật
giáo.
Theo
tôi nhận
xét những lời đức
Phật dạy La Hầu La trong ba bài kinh này
có giá trị rất lớn cho sự tu tập của mọi người từ sơ cơ đến chứng đạo, nên tôi
quyết tâm soạn thảo thành phần 2 của bộ Văn Hóa Truyền Thống Đạo Đức Việt Nam,
cho trọn vẹn đầy đủ: Giới Cấm, Giới Đức, Giới Hạnh và Giới Hành.
Dựa theo
đoạn sử trên, La Hầu La
là đứa con trai duy nhất
của đức Phật,
cũng là người Sa Di
đầu tiên trong
đạo Phật, vì vậy những điều
đức Phật dạy cho La Hầu
La rất căn bản
và quan trọng đối với những người
mới bước
chân vào đạo
Phật. Do nhận xét kỹ ba bài kinh này
tôi thấy rằng:
những giới luật
này mới chính là giới
luật của đạo Phật, nó rất căn bản trong
sự tu hành
theo Phật giáo của bao nhiêu thế hệ sau này, nhất là dạy tu hành
cho những thế hệ trẻ.
Theo kinh
nghiệm tu hành
của tôi thì những lời giáo giới này là nền tảng vững
chắc của đạo Phật,
nó được lưu giữ để lại cho bao nhiêu thế hệ người sau. Những người sau muốn chấm dứt sanh tử
luân hồi đều phải nương theo những lời giáo giới này để tu tập thì mới có thể chứng quả A La Hán giải
thoát hoàn toàn.
Nếu ai chịu khó
nghiên cứu kỹ về Phật giáo, đều phải công nhận rằng: Phật giáo
lấy thiện pháp làm gốc; nhờ
thiện pháp mà ta
nhận ra được ác pháp;
nhờ thiện pháp
mà tìm được sự giải
thoát: sanh, già, bệnh, chết;
nhờ thiện pháp mà chứng được đạo quả A La Hán; nhờ thiện
pháp mà có đủ Tam
Minh, Lục Thông; nhờ thiện pháp
mà tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ; nhờ thiện pháp mà có một đời sống
cao thượng không làm khổ
mình, khổ người và khổ tất cả chúng
sanh; nhờ thiện pháp mà nhập được bốn
thiền làm chủ được sự
sống chết, tự tại trong
sinh tử; nhờ
Văn hóa Phật
giáo truyền thống – tập 1
thiện pháp mới
thực hiện được cảnh giới an lạc
Niết bàn.
Nhưng thiện
pháp thì có vô lượng, vô biên, làm sao
chúng ta
biết hết được?
Đúng vậy, do thiện
pháp có vô lượng
vô biên,
nên đức Phật lần lượt vạch ra cho chúng ta thấy những
thiện pháp gốc. Những thiện pháp gốc này đều nằm trong tạng
kinh Nikaya; những
bài kinh ấy được
gọi giới kinh, như kinh Phạm
Võng, kinh Sa Môn Quả
và những bài
kinh giáo giới khác cho các vị Tỳ Kheo trong thời bấy giờ. Dựa
theo những bộ giới kinh mà các Tổ biên
soạn thành bộ giới bổn Ba La
Đề Mộc Xoa, nhưng
lại gán cho Phật chế giới
luật. Giới bổn Ba La Đề
Mộc Xoa gồm có:
- 348 giới Tỳ
Kheo Ni.
- 250 Tỳ
Kheo Tăng.
- 10 Giới Sa
Di.
- 10 Thiện
Pháp tiêu chuẩn của cõi Trời.
- 5 giới cấm
tiêu chuẩn của loài Người.
Bảng liệt kê giới
bổn trên đây
chúng ta nhận xét giới cấm
quá nhiều lại
còn thêm giới kinh cũng không phải là ít. Do đó, tu
sĩ hay cư sĩ không có giới hành tu tập
thì không còn cách nào không vi phạm
giới luật. Phải không
các bạn?
Vì thế, bộ Giới
hành cần phải
được biên soạn và cho ra đời càng sớm càng tốt để
giúp cho Phật giáo chấn chỉnh lại những điều tu sĩ vi phạm giới luật và những chỗ sai lệch do ảnh hưởng tưởng
giải của các Tổ, của tà giáo
ngoại đạo và của những phong tục mê tín lạc hậu của dân gian.
Muốn hoàn
thành bộ Giới Luật này xin các bậc tôn
túc đức cao, trí rộng
góp ý cùng với tôi để
làm thành bộ Giới Luật có giá trị thiết thực, cụ thể, chỉ rõ đạo đức làm người, làm Thánh và con đường tu tập
đạt được kết quả tốt đẹp xứng đáng là những
bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh Cư sĩ.
Kính ghi,
Trưởng lão
Thích Thông Lạc
à
GIỚI
HÀNH THỨ N HẤT :
NĨI LỜI
KHƠNG THÀNH THẬT
Muốn đạt được
một đời sống giới luật nghiêm chỉnh thì phải
thông hiểu, tu tập và sống đúng giới đức, giới hạnh và giới
hành. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành là gì?
Giới đức là
những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh mạng.
Giới hạnh là
những lời dạy về Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua những hành động sống
như: đi, đứng,
nằm, ngồi, nói, nín,
tiếp giao với mọi người,
v.v.. Những oai nghi tế hạnh ấy được gọi là Chánh nghiệp.
Giới hành
là những lời dạy
cách thức tu tập đạo
đức và oai nghi chánh hạnh của một
tu sĩ Phật giáo trọn đầy đức hạnh làm
người, làm Thánh không làm khổ mình,
khổ người và khổ
tất cả chúng sanh, tức là Chánh nghiệp.
Như trong
bài kinh Giáo Giới La Hầu La ở rừng
Am Bà La,
bài kinh này chỉ
có một giới cấm duy nhất là ‚Vọng Ngữ‛ø. Không vọng ngữ là một giới
luật quan trọng nhất
trong các giới
khác, giới
này thuộc về giới trọng (Ba La Di). Ai tu theo Phật giáo mà vi phạm giới này
thì được xem như người tử tội. Cho nên một giới này vi phạm thì tất cả
các giới khác đều vi
phạm. Do đó Đức Phật đã
xác định: ‚Này La Hầu
La, đối với ai biết
mà nói láo
không có tàm quý, thời
Ta nói rằng người
ấy không có việc ác gì mà
không làm. Do vậy này La
Hầu La,
Ta quyết không nói
láo, dầu nói để mà chơi‛.
Nói láo
là một giới
luật quan trọng nhất trong
các giới luật khác của đạo Phật như trên đã nói. Giới cấm nói láo không riêng
cho những người tuổi trẻ mà ngay cả những người lớn tuổi; không riêng
cho tín đồ Phật giáo
mà ngay cả cho tất
cả mọi người
cũng phải giữ
gìn nghiêm chỉnh. Nếu tu theo Phật giáo mà còn nói láo thì không bao giờ
tu tập đi đến giải thoát được, dù nói
láo để mà chơi. Trong Giới Bổn người tu sĩ nào
nói láo là phạm
vào giới
đứt đầu, có nghĩa là một tu sĩ Phật giáo còn nói láo thì
không thành là một tu sĩ nữa. Xin các bạn đọc lại Giới Bổn Ba La Đề Mộc Xoa, giới
thứ tư Giới Thánh Đức Thành Thật
thì các bạn sẽ rõ. Ở đây,
tôi xin giải thích
sơ lược về giới luật này. Vậy nói láo nghĩa là gì?
Văn hóa Phật
giáo truyền thống – tập 1
Nói láo là
nói không thành thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có; những người nhiều
chuyện lắm mồm thường hay nói láo, chuyện
ít xít ra nhiều, đặt điều
nói xấu người khác. Đó là những người nói láo. Người
nói láo không biết xấu hổ thì không có
việc ác nào mà họ không làm được, như lời Phật xác quyết trên đây. Trong cuộc sống
chung đụng với mọi người, sự chung đụng ấy đã
dạy cho chúng ta biết điều này rất rõ ràng: ‚Những người nói láo là những người
không tốt, hãy
dè dặt cẩn thận khi
gặp họ hoặc nên
tìm cách tránh xa, không nên
làm thân với những
người này‛.
Ở đời, người ta xem thường vấn đề nói láo, nên mọi người không ai tránh khỏi, dù
nói láo không làm hại ai, nói láo chơi; nhưng đối với những người
tu theo Phật
giáo không nên
nói
láo.
Có người
nói láo quá lộ liễu,
khi nói xong người ta
phát hiện ra liền, nhưng lại có người nói láo rất khéo léo khiến cho mọi người
khác không thể phát hiện ngay liền được. Nhưng
nói láo với ai thì
được, chứ không
thể nói láo với
chính mình. Vì vậy người
nói láo không
biết xấu hổ thì luôn
luôn sẽ nói
láo và khi nói
láo được thì họ sẽ làm bất cứ việc ác
nào họ cũng
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!