Như đã
nói ở trên
tu tâm xả
cũng giống như tu tâm hỷ. Muốn hiểu
rõ nghĩa thì chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy Gia chủ Dasama:
‚Này gia chủ
Dasama Tỳ Kheo an trú biến mãn một
phương, 2 phương,
3 phương, 4 phương,
phương trên, phương
dưới, bề ngang hết thảy
phương xứ cùng
khắp vô biên giới,
câu hữu với
tâm xả và
an trú vững chắc nơi trạng thái này quảng đại vô biên không hận, không sân‛. Do ở
trạng thái không hận, không sân tâm sẽ được đoạn trừ các lậu hoặc...
nhờ đó tâm
giải thoát hoàn
toàn. Cho nên kinh dạy:
‚Vị ấy vững
trú ở đây, đoạn
trừ được các lậu hoặc...
chưa chứng đạt, được chứng đạt‛.
Cách thức tu
tập tâm xả cũng giống như cách thức tu tập tâm hỷ phải dùng pháp như lý tác ý
‚đứng trước các ác pháp và các cảm thọ: thọ lạc, thọ khổ,
thọ bất lạc bất khổ,
ta đều xả hết‛.
Khi xả phải luôn
luôn tác ý như sau: ‚Thọ lạc ta không nên ưa thích,
không dính mắc theo chúng;
thọ khổ ta không hề sợ hãi,
không hề dao động, đó là tâm xả‛.
Xả lạc, xả
khổ, xả niệm thanh tịnh tức là dùng
năng lực Xả Giác
Chi để nhập Tứ Thiền.
Văn hóa Phật
giáo truyền thống – tập 1
Năng lực Xả
Giác Chi là năng lực cuối cùng của tâm xả. Đầu
tiên chúng ta
tu tập tâm xả là tu
tập ý
thức xả. Ý thức xả
là tu tập xả tâm vô
lượng. Tu tập xả
tâm vô lượng có
nhiều cách thức, có từ thấp lên
cao:
1- Xả Tâm
Vô Lượng là tu tập xả
tâm câu hữu với hơi thở, tức là
nương hơi thở để tác ý xả
tâm.
2- Trên Tứ
Niệm Xứ để khắc phục tham ưu tức là quét
các chướng ngại pháp trên bốn chỗ: thân, thọ, tâm, pháp.
3- Ngồi quét
tâm như ông
Châu Lợi Bàn
Đặc.
4- Mọi sự
tham muốn, mọi sự giận
hờn
phiền não. Mọi sự
lo toan sợ
hãi, mọi sự khổ
đau tai nạn, mọi bệnh tật, v.v.. chúng ta đều giữ tâm bất động bằng
phương pháp Định
Niệm Hơi Thở. Đó là cách thức xả tâm vô lượng.
5- Giữ gìn tâm bất
động trước các ác pháp và các cảm
thọ thì đó là xả tâm vô lượng.
Ví dụ 1: Ta
muốn xả tâm tham ăn thì nên tác ý: ‚Phải từ
bỏ tâm tham ăn
tôi biết tôi hít vô, xả
tâm tham ăn tôi biết
tôi thở ra‛ hay tâm đang sân dữ dội,
thì ta nên tác ý: “Xả tâm sân
tôi biết tôi
hít vô, xả
tâm sân tôi biết tôi thở ra‛. Cứ năm hơi thở tác ý một
lần;
tác ý đều như vậy
một lúc sau là
tâm tham ăn hay tâm sân liền biến mất.
Ví dụ 2: Có
một trạng thái tưởng nào xuất hiện trong thân tâm ta, muốn xả
trạng thái đó thì ta nên nương
vào hơi thở
mà tác ý ngay
trạng thái đó:
‚Trạng thái tưởng này phải xả
ra, ta không chấp nhận,
hít vô tôi biết
tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra‛. Khi tác ý như vậy xong thì ta tiếp tục
hít thở ra vô năm hơi thở như vậy rồi tiếp tục tác ý như câu trên. Phương pháp
tác ý cho thân tâm trở lại bình thường
hoặc tác ý chừng nào
trạng thái ác tưởng
không còn nữa.
Khi trạng thái tưởng
đã hết thì nên tác ý: ‚Tâm thanh thản an lạc và vô sự,
hít vô tôi biết tôi
hít vô, thở
ra tôi biết tôi thở ra‛.
Khi tâm đã
thanh thản bình
thường thì nên tác ý câu khác,
‚Tâm phải xả tất cả các ác
pháp và lòng
ham muốn, hít vô
tôi biết tôi hít
vô; tâm phải xả tất cả các
ác pháp và lòng
ham muốn, thở
ra tôi biết
tôi thở ra‛.
à
GIỚI
HÀNH THỨ HAI
MƯ ƠI :
GIỚI BÇT TỊNH
Bắt đầu học,
tu tập và muốn đạt được một đời sống
GIỚI BẤT TỊNH
HÀNH nghiêm chỉnh thì phải
thông hiểu: giới đức, giới hạnh
và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và
giới hành của
giới bất tịnh hành là gì?
Giới đức giới bất tịnh hành
là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức
là Chánh nghiệp.
Giới hạnh giới
bất tịnh hành là những lời dạy về Phạm hạnh tức
là oai nghi tế hạnh thường
thể hiện qua giới
bất tịnh hành
như: nói, nín, tiếp
giao với mọi
người, v.v.. Những oai
nghi tế hạnh
như vậy được gọi
là Chánh nghiệp.
Chúng ta
thường tu tập
Định Vô Lậu. Trong
Định Vô Lậu có pháp dạy quán thân này bất tịnh.
Từ đó, chúng
ta quán xét
thân bất tịnh, thuần biết thân
chúng ta hoàn toàn là những chất thứ bất tịnh
hôi thối không
có vật gì trong đó là quý báu, chỉ
toàn là các duyên bất tịnh hợp thành.
Do nhiều đời lầm chấp
cho
thân này là
tốt đẹp, là quý báu là của ta, là ta, là bản ngã của ta. Do sự lầm chấp như vậy
nên có những việc xảy ra xúc
phạm đến thân tâm của
ta thì ta lại
phát sân hận, tức tối,
phiền não khổ đau. Sự sân hận, tức tối, phiền não khổ đau là do tâm tham
ái thân này vậy. Vậy chúng ta hãy lắng
nghe đức Phật
dạy La Hầu
La:
‚Này La Hầu
La, hãy tu tập sự tu tập
về bất tịnh, này
La Hầu La,
do tu tập sự tu tập
về bất tịnh
cái gì thuộc
về tham ái được diệt trừ‛.
Như lời Phật
dạy trên đây chúng ta quán thân bất tịnh thì sẽ diệt trừ được tâm tham ái. Vậy muốn
quán thân bất tịnh thì xin
các bạn vui lòng đọc lại
kinh Thân Hành Niệm dạy
về cách thức quán
thân bất tịnh:
‚Này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo nên quán sát thân này dưới từ bàn
chân trở lên trên
cho đến đỉnh tóc bao
bọc bởi da chứa
đầy những vật bất
tịnh sai biệt: ‚Trong
thân này đây là
tóc, lông, móng, răng,
da, thịt, gân,
xương, thận, tuỷ, tim, gan,
hoành cách mô,
lá lách, phổi, ruột, phân,
mật, đàm, miên dịch, mủ,
máu, mồ hôi, nước ở khớp xương, nước tiểu, v.v.. Này các Tỳ kheo,
cũng như một bao đồ,
hai đầu trống đựng
đầy các loại hột
như: gạo, lúa, đậu xanh,
đậu lớn,
mè, gạo đã
xay rồi. Một người có mắt và đổ các hột ấy ra và
quán sát: ‚Đây
là hột gạo đây là hột lúa, đây là
đậu xanh, đây là đậu lớn, đây
là mè, đây
là hột lúa đã
xay rồi‛. Cũng vậy
này các Tỳ
Kheo, một Tỳ
Kheo quan sát thân này
dưới từ bàn
chân trở lên, trên chỗ đến đỉnh
tóc, bao bọc bởi da chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt‛.
Trên đây
là lời Phật dạy quán
thân bất tịnh. Khi quán sát thân
thấu suốt thân này bất tịnh như thật
thì còn đâu tham
ái thân này nữa. Phải không các bạn?
Thấy biết
như thật những chất trong thân này
quá dơ bẩn, không thể che dấu được chúng ta nhìn thấy thật sự trên thân ta và mọi người: phân
phẩn, mồ hôi, nước tiểu, đờm dãi, ghèn, nước
mũi, nước miếng
đều có mùi
hôi thối, nếu ai
nghe, thấy, ngửi đều ghê tởm, đều
muốn tránh xa. Ai ai cũng biết nó bất tịnh dơ bẩn thì còn ai dám sờ mó,
đụng chạm đến những đồ bất tịnh đó. Phải không các bạn?
Còn những
người nào chưa quan sát
xem xét thấy thân này bất tịnh, dơ bẩn, hôi thối, thì tâm còn ưa thích.
Tâm còn ưa thích thân này là còn
tâm sắc dục;
tâm sắc dục
còn là còn thấy
sắc dục là hạnh phúc, là khoái lạc; còn thấy sắc dục là hạnh phúc, là khoái lạc
là tâm còn tham
ái. Cho nên
khi tu tập giới bất tịnh
hành thì đối trị tâm tham ái. Tâm
tham ái diệt là tham, sân, si diệt. Tham,
sân, si, diệt là
giải thoát. Vậy các bạn hãy tu tập
và giữ gìn giới bất tịnh hành này nghiêm
chỉnh thì tâm tham
ái của các bạn sẽ được diệt trừ.
Vì thế hằng
ngày chúng ta phải chuyên tu tập
đúng pháp như
lý tác ý
nương thân hành nội ngoại.
Câu tác ý thứ
nhất: ‚Sắc dục chỉ
là tâm tham ái nên không thấy thân này bất tịnh, uế trược,
bẩn thỉu, hôi thối phải
từ bỏ, phải xa
lìa chúng, tâm
phải luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự‛.
Câu tác
ý thứ hai:
‚Thân này bất tịnh, uế
trược, hôi thối chúng ta phải từ bỏ tâm
sắc dục, tôi biết
tôi hít vô,
tôi biết tôi thở
ra‛.
Câu tác ý thứ
ba: ‚Thân này là thân bất tịnh hôi thối ta phải xa lìa, đừng
tham ái nó tôi biết tôi đang đi
kinh hành‛.
Pháp như lý
tác ý quá cụ thể rõ ràng, hằng ngày phải siêng
năng tu tập một cách
nhiệt tâm, nhiệt tình thì mới
có hiệu quả
làm chủ được cuộc sống
sanh, già, bệnh,
chết và chấm dứt tái sanh luân hồi.
Chúng ta lại tiếp tục quán
xét thân bất tịnh
như trong kinh Tứ Niệm
Xứ hay kinh Thân Hành Niệm. Nếu thân này chết khoảng
4,
5 ngày thì trương
phồng lên, xanh
đen, lại nứt nẻ, nước
vàng chảy ra, mùi
hôi thối xông
lên rất khó chịu, khiến cho mọi người không ai dám lại gần,
nếu đem thân
này quăng bỏ
trong nghĩa địa đừng chôn thì các loại chim như: quạ, diều hâu,
chim kên, chó,
gà và tất cả các loại
côn trùng ăn. Thân này tánh chất là như vậy, không có cách nào vượt khỏi tánh
chất ấy, dù ta đem phơi khô hay ướp một thứ thuốc
nào thì thân bất tịnh vẫn
là bất tịnh,
tính vô thường hoại diệt thì
không thể nào thoát ra qui luật vô thường hư hoại được.
Chúng ta
hãy đọc lại đoạn
kinh Tứ Niệm Xứ mà đức Phật đã
dạy: ‚Lại nữa này các Tỳ kheo,
Tỳ kheo như
thấy một thi thể
bị quăng bỏ trong nghĩa
địa một ngày, hai ngày, ba ngày thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen lại nát thối
ra. Tỳ
kheo quán thân ấy
như sau: ‚Thân này
tính chất là như vậy, bản
tính là như vậy
không vượt khỏi tính chất ấy‛.
Nhìn thấy xác thân bất tịnh, tính chất hôi hám
trương phồng rữa thối bất tịnh khiến ta không
còn chấp trước
cho thân này là đẹp
đẽ
cao
quí; cho thân này
là ta, là của ta,
là bản ngã của
ta. Mọi người
lầm chấp thân
này tốt đẹp, trong sạch,
sự thật chỉ
là tấm thân bất
tịnh hôi
thối tan rã hoại diệt.
Khi tư duy như vậy nhiều lần khiến
ta nhàm chán thân tứ đại, nhàm chán đến mức độ ghê tởm không còn xem thân là vật
quý trọng nữa.
à
GIỚI
HÀNH THỨ HAI
MƯ ƠI MỐT :
GIỚI VƠ THƯỜNG
HÀNH
Bắt đầu học,
tu tập và muốn đạt được một đời sống GIỚI VÔ THƯỜNG HÀNH nghiêm chỉnh thì phải
thông hiểu: giới đức, giới hạnh
và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và
giới hành của
giới vô thường hành là gì?
Giới đức giới
vô thường hành là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh
nghiệp.
Giới hạnh
giới vô thường
hành là những lời dạy
về Phạm hạnh tức là
oai nghi tế hạnh
thường thể hiện qua giới vô thường hành như: nói, nín,
tiếp giao với mọi người,
v.v.. Những oai nghi tế hạnh
như vậy được gọi
là Chánh nghiệp.
Mọi vật
trên thế gian
này do các duyên hợp
thành. Do các
duyên hợp thành
nên vạn vật thường thay đổi. Sự
thay đổi ấy gọi là vô thường; sự vô thường là hiện tượng của sự đau khổ, sự hoại
diệt, sự tan rã, sự không bền vững, sự mất mát, v.v..
Phần đông
con người ở thế
gian này đều cho các pháp là thường còn, thường hằng,
bất biến, chứ ít ai nghĩ rằng các pháp là vô thường. Từ khi đạo Phật ra đời con người mới biết được bốn chân
lý của loài
người, mới biết
được các pháp hiện có mặt do duyên hợp, mới biết được các pháp
là vô thường
khổ đau, mới biết
được các pháp là vô ngã, không phải là ta, là của ta, là bản
ngã của ta.
Có quan sát như vậy chúng ta mới có cái nhìn tính chất các pháp vô thường như thật, không
còn lầm lạc.
Muốn cho sự
hiểu biết như thật thì chúng ta
hãy lắng nghe đức Phật
dạy La Hầu
La:
‚Này La Hầu La, hãy tu tập sự tu tập về
vô thường. Này La Hầu La, do tu tập
sự tu tập về vô thường cái gì thuộc về ngã mạn được diệt trừ‛.
Bài kinh
giáo giới La Hầu La này dạy: ‚tu tập về sự tu
tập vô
thường‛ thật tuyệt
vời. Vậy cái gì là vô thường?
Thưa các bạn, tất cả các
pháp trong thế gian này đều vô thường như trên đã nói, nhưng thấy các
pháp vô thường
như thật thì phải
nhiệt tâm tu tập hết sức, nếu không tu tập hết sức
thì chẳng bao giờ thấy
các pháp vô thường
như thật.
Người không
tu tập về các pháp vô thường thì cho rằng
các pháp là
có thật. Do thấy
các pháp có thật nên mới cho các pháp là của ta, là ta, là bản ngã của
ta. Từ chỗ thấy hiểu biết sai lệch mới
có sự chấp
ngã; từ chỗ chấp ngã mới
sanh ra ngã mạn; từ chỗ ngã
mạn mới sanh ra tham, sân, si mạn, nghi.
Biết thế đức Phật mới dạy giới
hành các
pháp vô thường
để diệt ngã xả tâm
ly ác pháp.
‚Này La Hầu La, do tu tập
sự tu tập về vô thường
cái gì thuộc về ngã
mạn được diệt
trừ‛. Lời dạy
này rất đúng, nếu ai đặt trọn
lòng tin mà thực hiện lời dạy này thì sẽ
chấm dứt khổ đau.
GIỚI
HÀNH THỨ HAI
MƯ ƠI HAI:
GIỚI HÀNH NIỆM
HƠI THỞ RA,
HƠI THỞ VƠ
Bắt đầu học,
tu tập và muốn đạt được một đời sống
GIỚI HÀNH NIỆM
HƠI THỞ RA, HƠI THỞ VÔ nghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức,
giới hạnh và giới hành của nó. Vậy
giới đức,
giới hạnh và giới hành của giới
hành
niệm hơi thở
ra, hơi thở vô là gì?
Giới đức giới
hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô là những lời dạy đạo đức về đời sống của con
người tức là Chánh nghiệp.
Giới hạnh
giới hành niệm
hơi thở ra, hơi thở
vô là những
lời dạy về Phạm hạnh
tức là oai nghi tế hạnh thường thể
hiện qua giới hành niệm hơi thở
ra, hơi thở vô
như: nói, nín,
tiếp giao với mọi
người, v.v.. Những
oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.
Trước khi muốn
tu tập về giới hành
niệm hơi thở ra, hơi thở vô thì các bạn hãy lắng nghe lời đức Phật dạy
La Hầu La: ‚Này La Hầu La, hãy tu tập sự
tu tập về niệm hơi thở vô, hơi
thở ra,
làm cho sung
mãn, nên được quả lớn,
được lợi ích lớn. Và
này La Hầu
La, thế nào là
tu tập niệm hơi
thở ra, hơi thở
vô làm
cho sung mãn nên
được quả lớn, được lợi ích?‛.
Ở đây lời
dạy này
có những danh từ khó hiểu như: làm cho sung mãn, được quả lớn,
được lợi ích lớn. Vậy làm cho sung mãn như thế nào? Được quả lớn, được lợi ích
lớn như thế nào?
Chữ sung
mãn có nghĩa là đầy đủ, sung túc, tràn đầy, dư thừa không thiếu hụt.
Tóm lại, trước khi thực hiện
nghĩa này thì phải
tập an trú tâm trọn vẹn trong hơi
thở. An trú tâm trọn vẹn trong hơi thở tức là biết hơi thở vô, hơi thở ra một
cách nhẹ nhàng, tự nhiên, thoải mái, an lạc, đó là làm cho tràn đầy sung túc,
dư thừa, không thiếu về niệm hơi thở.
Quả lớn là
gì?
Quả lớn
có nghĩa là kết quả
to lớn của sự
tu tập
về hơi thở
vô, hơi thở
ra. Quả lớn còn nghĩa là kết quả của sự tu tập đạt được sự giải thoát
một cách cụ thể rõ
ràng, hay nói
cách khác là làm chủ được sanh, già, bệnh,
chết tức là tâm bất động trước
các pháp và các cảm thọ.
Được lợi ích
lớn là gì? Lợi ích lớn có nghĩa là:
1- Đời sống được
an vui, hạnh phúc không có
ác pháp nào
làm dao động được
tâm, tâm luôn luôn thanh thản, an
lạc và vô sự, thường thản nhiên trước mọi dục lạc thế gian, mọi sự cám dỗ vật
chất, mọi ác pháp, v.v..
2- Làm chủ được
tuổi già
có nghĩa là khỏe
mạnh quắc thước như một thanh niên cường tráng.
3- Làm chủ
được mọi bệnh tật không sợ ốm đau như người thường tục.
4- Làm chủ được sự sống chết,
muốn sống thì sống, muốn chết thì
chết.
5- Chấm dứt
tái sanh luân hồi.
Trên đây
là năm điều lợi
ích lớn của kiếp sống làm người do tu tập hơi thở vô, hơi
thở ra.
Vậy trước
khi muốn tu tập giới hành
hơi thở vô, hơi thở ra thì chúng
ta hãy lắng
nghe đức Phật dạy La Hầu La: ‚Ở đây
này La Hầu La, vị Tỳ Kheo đi đến khu
rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến
ngôi nhà trống và ngồi kiết già,
lưng thẳng và an
trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh
giác, vị ấy thở vô, vị ấy thở
ra‛.
Đọc đoạn
kinh này chúng
ta cần lưu ý
những từ
sau đây: khu rừng,
gốc cây, ngôi
nhà
trống, ngồi
kiết già, lưng thẳng,
an trú chánh niệm trước mặt, tỉnh
giác.
Vậy khu rừng, gốc
cây, ngôi nhà trống là địa
điểm để tu tập, có nghĩa là
tìm nơi chốn yên tịnh, vắng vẻ để
tu tập hơi thở vô,
hơi thở ra. Nếu
địa điểm không tìm được như
trên đức Phật đã dạy, thì sự tu tập về hơi thở vô hơi thở ra rất
khó khăn. Các bạn lưu ý những lời dạy này,
vì nó rất cần thiết
cho sự tu tập của các bạn, xin
các bạn nên nhớ kỹ. Các bạn đừng cho rằng bất cứ nơi
đâu tu cũng
được thì đức Phật dạy điều này để
làm gì? Có quan trọng đức Phật mới dạy như vậy. Đừng
nghe theo những
nhà Đại thừa và Thiền tông. Họ chỉ nói suông: ‚Bất cứ chỗ
nào tu cũng được, tu
trong bốn oai nghi, tu trong công việc làm‛. Lời nói
này đi ngược lại lời dạy của đức Phật.
Ngồi kiết
già là gì?
Ngồi kiết già
là tư thế ngồi xếp bằng tréo hai chân đan vào nhau. Đó là tư thế ngồi
của người tu thiền
định. Tư thế ngồi này rất vững chắc
để thân tâm dễ gom
vào một đối tượng
thân hành nội (hơi thở).
Ví dụ: Đi,
đứng, nằm ngồi,
co tay, duỗi chân, ngước
nhìn, nói nín,
ăn, nhai nuốt,
hơi thở vô, hơi
thở ra, v.v..
đều là thân
hành,
nhưng phải
rõ tất cả
thân hành của
thân là thân hành
ngoại chỉ trừ
có hơi thở
là thân hành nội. Như vậy chúng
ta phải hiểu rõ mới có thể tu tập được.
An trú chánh
niệm là gì?
An trú chánh
niệm là ở yên ổn trong niệm chân chánh.
Niệm chân chánh là gì?
Trong đạo Phật
có bốn chỗ niệm chân chánh:
1/ Niệm
thân.
2/ Niệm thọ.
3/ Niệm tâm.
4/ Niệm
Pháp.
Chữ chánh
niệm ở đây gồm chung
có 4 niệm, như vậy
an trú chánh niệm tức là an trú trong
bốn niệm. Vậy an
trú bốn
niệm một lần có
được không? An trú bốn niệm một lần
là tu tập Tứ Niệm Xứ.
Cho nên Tứ Niệm Xứ còn gọi
là Chánh Niệm.
Ngoài bốn niệm:
thân, thọ, tâm, pháp còn có niệm nào khác nữa không?
Trên thân gồm
có hai niệm:
1. Thân hành niệm nội.
2. Thân hành niệm ngoại.
Trên thọ gồm
có ba niệm:
1- Niệm thọ lạc.
2- Niệm thọ khổ.
3- Niệm thọ bất lạc bất khổ. Trên tâm gồm có hai
niệm:
1- Niệm tịnh.
2- Niệm động.
Trên pháp gồm
có hai niệm:
1- Niệm thiện.
2- Niệm ác.
Ở đây, bài pháp này đức Phật đang dạy La Hầu La
về hơi
thở vô, hơi thở ra, vì thế
chánh niệm ở đây
phải hiểu là
thân hành niệm nội,
tức là
hơi thở vô
hơi thở ra. Vậy
an trú chánh niệm trước mặt tức
là an trú hơi thở vô, hơi thở ra ở trước
mặt.
Tỉnh giác
nghĩa là gì? Tỉnh
giác nghĩa là biết rất rõ ràng từng chi tiết nhỏ, biết rất
kỹ lưỡng, biết không
có mờ mịt một
chút xíu nào cả. Ở
đây chúng ta
nên hiểu đức Phật dạy La Hầu
La phải biết rất kỹ từng hơi thở vô, từng
hơi thở ra.
Người giữ
gìn giới hành hơi thở vô hơi thở ra có nghĩa là tu tập an trú trong hơi thở vô
hơi
thở ra phải
biết rất rõ
ràng, không được để
quên, để mất, để mờ mịt hơi thở vô ra.
Vì tâm chúng
ta hay quên (vô ký) nên phải dùng pháp tác ý dẫn tâm tỉnh giác mãi mãi làm cho
tâm sáng
suốt thấy biết rất rõ
ràng từng hơi thở vô, ra:
‚Hít vô
tôi biết tôi hít vô,
thở ra tôi biết tôi thở ra‛. An trú được trong
hơi thở là đạt được
căn bản
về phương pháp
tu Định Niệm Hơi Thở.
Để thực hiện
giới hành này chúng ta
nên theo lời đức Phật dạy Tôn Giả La Hầu La mà tu tập như sau:
Trước tiên
chúng ta tìm nơi
vắng vẻ, yên tịnh,
rồi tập ngồi
kiết già lưng
thẳng, sau khi tập ngồi
kiết già lưng thẳng
được có nghĩa
là ngồi tréo chân
mà không thấy
khó chịu, hoặc đau hoặc tê chân chừng nửa tiếng đồng hồ.
Khi ngồi được nửa tiếng đồng hồ yên ổn thì mới đặt niệm hơi thở vô,
hơi thở ra trước
mặt và tác ý
như sau: ‚Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra‛.
Khi tác ý xong
câu này ta truyền lệnh: ‚Hít‛, truyền lệnh xong ta mới
hít vô, tỉnh giác rất kỹ theo hơi thở vô. Sau khi hơi thở vô hết ta truyền
lệnh “Thở‛, khi truyền lệnh xong ta mới thở ra và phải
sáng suốt tỉnh giác theo hơi thở ra. Cứ
như vậy mà
tu tập 1 phút.
Nếu tu tập 1
phút sức
tỉnh giác rất tốt
không quên
hơi thở nào, có nghĩa là trong một phút không bao giờ ta quên hơi thở, mà cũng
có nghĩa là trong
một phút không
có một niệm vọng tưởng nào xen vào được.
Nếu một
phút tu tập tốt, ta
tăng lên 2 phút, rồi 3 phút, rồi 4, 5 phút. Sau khi đạt
được
5 phút rấtù
tỉnh giác hơi thở ra vô, ta tăng 6, 7,
8, 9, 10.
Sau khi tăng lên 10 phút
ta soát xét xem lại
toàn bộ cơ thể
có xảy ra trạng
thái gì không?
Ví dụ: nặng
đầu, nặng mặt,
choáng váng chóng mặt,
v.v.. Khi có những
trạng thái như vậy
xảy ra thì nên báo
cho Thầy biết để kịp
thời sửa lại cho đúng cách tu tập để không bị ức chế tâm khiến thân không rối
loạn cơ bắp và thần kinh, v.v..
Trong giới hành
về hơi thở
vô, hơi thở ra
có 19 đề mục tu tập:
ĐỀ M Ụ
C THỨ
NH Ấ T
1- Hít
vô tôi
biết tôi hít
vô, thở ra tôi biết
tôi thở ra.
Đó là đề mục thứ nhất để tu
tập nhiếp tâm
trong hơi thở. Đề mục này tập trung
tâm tại nhân
trung giữa hai lỗ mũi,
biết hơi thở ra vô
tại chỗ đó, chứ không
được theo hơi thở
vô lồng ngực
và ngược lại
hơi thở từ lồng ngực chạy ra. Nếu các bạn nhiếp tâm
được
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!