Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

VĂN HÓA PHẬT GIÁO TRUYỀN THỐNG TẬP 1-16


Như  đã  nói  ở    trên  tu  tâm  xả  cũng  giống như tu tâm hỷ. Muốn hiểu rõ nghĩa thì chúng ta hãy  lắng  nghe  đức  Phật  dạy  Gia  chủ  Dasama:
‚Này  gia chủ  Dasama Tỳ  Kheo an trú  biến mãn một  phương,   2  phương,   3  phương,   4 phương,    phương    trên,   phương    dưới,   bề ngang  hết  thảy phương  xứ  cùng  khắp  vô biên  giới,  câu  hữu  với  tâm  xả  và  an  trú vững chắc nơi  trạng thái này quảng  đại vô biên không hận, không sân‛.  Do ở  trạng thái không hận, không sân tâm sẽ được đoạn trừ các lậu  hoặc...  nhờ  đó   tâm  giải  thoát  hoàn  toàn. Cho  nên  kinh dạy:  ‚Vị  ấy  vững  trú  ở    đây, đoạn  trừ được các  lậu  hoặc...  chưa  chứng đạt,  được chứng đạt‛.
Cách thức tu tập tâm xả cũng giống như cách thức tu tập tâm hỷ phải dùng pháp như lý tác ý ‚đứng trước các ác pháp và các cảm thọ: thọ lạc,  thọ khổ,  thọ bất  lạc  bất  khổ, ta đều  xả  hết‛.  Khi xả  phải  luôn  luôn  tác  ý như sau: ‚Thọ lạc ta không nên ưa thích, không dính  mắc theo  chúng;  thọ khổ  ta không hề sợ hãi, không  hề dao động, đó  là tâm xả‛.
Xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh tức là dùng  năng  lực Xả  Giác  Chi  để  nhập  Tứ  Thiền.

Văn hóa Phật giáo truyền thống – tập 1

Năng lực Xả Giác Chi là năng lực cuối cùng của tâm  xả.  Đầu  tiên  chúng  ta  tu  tập  tâm  xả  là  tu tập  ý  thức  xả.  Ý  thức  xả  là  tu  tập  xả  tâm  vô lượng. Tu  tập  xả  tâm  vô  lượng có  nhiều  cách thức, có từ thấp lên cao:
1- Xả  Tâm  Vô  Lượng là  tu  tập  xả  tâm  câu hữu với hơi thở, tức là nương hơi thở để tác ý xả
tâm.

2- Trên Tứ Niệm Xứ để  khắc phục tham ưu tức là quét các chướng ngại pháp trên bốn chỗ: thân, thọ, tâm, pháp.
3- Ngồi  quét  tâm  như  ông  Châu  Lợi Bàn

Đặc.



4- Mọi  sự   tham  muốn,  mọi  sự   giận  hờn

phiền  não.  Mọi  sự  lo  toan  sợ  hãi,  mọi  sự  khổ đau tai nạn, mọi bệnh tật, v.v.. chúng ta đều giữ tâm  bất  động  bằng  phương  pháp  Định  Niệm Hơi Thở. Đó là cách thức xả tâm vô lượng.
5- Giữ  gìn tâm bất  động trước các  ác pháp và các cảm thọ thì  đó là xả tâm vô lượng.
Ví dụ 1: Ta muốn xả tâm tham ăn thì nên tác  ý:  ‚Phải từ  bỏ  tâm  tham ăn  tôi biết  tôi hít vô,  xả  tâm  tham ăn  tôi biết  tôi thở ra‛ hay tâm đang sân dữ dội,  thì ta nên tác ý:  “Xả tâm  sân  tôi  biết  tôi  hít  vô,  xả  tâm  sân  tôi biết tôi thở ra‛. Cứ năm hơi thở tác ý một lần;


tác  ý  đều  như vậy  một  lúc  sau là  tâm  tham  ăn hay tâm sân liền biến mất.
Ví dụ 2: Có một trạng thái tưởng nào xuất hiện trong thân tâm  ta, muốn xả  trạng thái đó thì ta  nên  nương  vào  hơi  thở  mà  tác  ý  ngay trạng  thái  đó:  ‚Trạng thái  tưởng  này phải xả  ra,  ta không  chấp nhận,  hít  vô  tôi  biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra‛. Khi tác ý như vậy xong thì ta tiếp tục hít thở ra vô năm hơi thở như vậy rồi tiếp tục tác ý như câu trên. Phương pháp tác ý cho thân tâm trở lại bình thường  hoặc  tác  ý   chừng  nào   trạng  thái   ác tưởng  không  còn  nữa.  Khi trạng  thái  tưởng  đã hết thì nên tác ý: ‚Tâm thanh thản an lạc và vô  sự,  hít  vô  tôi  biết  tôi  hít  vô,  thở  ra  tôi biết tôi thở ra‛.
Khi tâm  đã  thanh  thản  bình  thường  thì nên tác ý  câu khác,  ‚Tâm phải  xả  tất  cả  các ác  pháp  và  lòng  ham  muốn, hít  vô  tôi  biết tôi  hít  vô;  tâm  phải  xả  tất  cả  các  ác  pháp và  lòng  ham  muốn,  thở  ra  tôi  biết  tôi  thở ra‛.



à


 GIỚI   HÀNH  THỨ    HAI  MƯ  ƠI :

GIỚI BÇT TỊNH


Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một  đời  sống   GIỚI   BẤT   TỊNH  HÀNH   nghiêm chỉnh  thì phải  thông  hiểu:  giới  đức,  giới  hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và
giới hành của giới bất tịnh hành là gì?

Giới  đức  giới  bất  tịnh  hành  là  những  lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.
Giới hạnh giới bất tịnh hành là những lời dạy  về  Phạm  hạnh  tức  là  oai  nghi  tế  hạnh thường  thể  hiện  qua giới  bất  tịnh  hành  như: nói,  nín,  tiếp  giao  với  mọi  người,  v.v..  Những oai  nghi  tế  hạnh  như  vậy  được gọi  là  Chánh nghiệp.
Chúng   ta   thường   tu   tập   Định  Vô   Lậu. Trong  Định Vô Lậu có pháp dạy quán thân này bất  tịnh.  Từ  đó,  chúng  ta  quán  xét  thân  bất tịnh, thuần biết thân chúng ta hoàn toàn là những  chất  thứ  bất  tịnh  hôi  thối  không  có  vật gì trong đó là quý báu, chỉ toàn là các duyên bất tịnh  hợp  thành.  Do  nhiều  đời   lầm  chấp  cho


thân này là tốt đẹp, là quý báu là của ta, là ta, là bản ngã của ta. Do sự lầm chấp như vậy nên có  những  việc  xảy  ra xúc  phạm  đến thân  tâm của  ta  thì ta  lại  phát  sân  hận,  tức  tối,  phiền não khổ đau. Sự sân hận, tức tối, phiền não khổ đau là do tâm tham ái thân này vậy. Vậy chúng ta  hãy  lắng  nghe  đức   Phật  dạy  La  Hầu  La:
‚Này  La Hầu  La, hãy tu tập  sự  tu tập  về bất  tịnh,  này  La  Hầu  La,  do  tu  tập  sự  tu tập  về  bất  tịnh  cái  gì  thuộc  về  tham   ái được diệt trừ‛.
Như lời Phật dạy trên đây chúng ta quán thân bất tịnh thì sẽ diệt trừ được tâm tham ái. Vậy  muốn  quán  thân  bất  tịnh  thì xin  các  bạn vui  lòng  đọc  lại  kinh Thân  Hành  Niệm  dạy về cách  thức  quán  thân  bất  tịnh:  ‚Này  các  Tỳ Kheo, Tỳ Kheo nên quán sát thân này dưới từ  bàn  chân  trở lên  trên  cho đến  đỉnh  tóc bao  bọc  bởi  da  chứa đầy  những  vật  bất tịnh   sai biệt:  ‚Trong  thân này  đây  là  tóc, lông,   móng,   răng,  da,   thịt,   gân,   xương, thận, tuỷ,   tim,  gan,   hoành   cách   mô,   lá lách,  phổi, ruột,  phân,  mật, đàm,  miên dịch, mủ, máu,  mồ hôi, nước ở  khớp xương, nước tiểu, v.v.. Này các Tỳ kheo, cũng như một  bao  đồ,  hai   đầu  trống đựng  đầy  các loại  hột  như:  gạo,  lúa,  đậu  xanh,  đậu  lớn,



mè, gạo đã xay rồi. Một người có mắt và đổ các  hột ấy  ra và  quán  sát:  ‚Đây  là  hột gạo đây là hột lúa, đây là đậu xanh,  đây là đậu lớn,  đây  là  mè,  đây  là  hột lúa  đã  xay  rồi‛. Cũng  vậy  này  các  Tỳ  Kheo,  một  Tỳ  Kheo quan   sát  thân này  dưới  từ  bàn  chân  trở lên, trên chỗ đến đỉnh tóc, bao bọc bởi da chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt‛.
Trên  đây  là  lời  Phật  dạy  quán  thân  bất tịnh. Khi quán sát thân thấu suốt thân này bất tịnh  như  thật  thì còn  đâu  tham  ái  thân  này nữa. Phải không các bạn?
Thấy biết như thật những chất trong thân này  quá  dơ bẩn, không thể  che dấu được chúng ta nhìn  thấy thật sự trên thân ta và mọi người: phân phẩn, mồ hôi, nước tiểu, đờm dãi, ghèn, nước  mũi,  nước  miếng  đều  có  mùi  hôi  thối,  nếu ai  nghe,  thấy,  ngửi  đều   ghê  tởm,  đều   muốn tránh xa. Ai ai cũng biết nó bất tịnh dơ bẩn thì còn ai dám sờ mó, đụng chạm đến những đồ bất tịnh đó. Phải không các bạn?
Còn  những  người  nào  chưa quan sát  xem xét thấy thân này bất tịnh, dơ bẩn, hôi thối, thì tâm còn ưa thích. Tâm còn ưa thích thân này là còn  tâm  sắc  dục;  tâm  sắc  dục  còn  là  còn  thấy sắc dục là hạnh phúc, là khoái lạc; còn thấy sắc dục là hạnh phúc, là khoái lạc là tâm còn tham


ái.  Cho nên  khi tu  tập  giới  bất  tịnh  hành  thì đối trị tâm tham ái. Tâm tham ái diệt là tham, sân,  si  diệt. Tham,  sân,  si,  diệt là  giải  thoát. Vậy các bạn hãy tu tập và giữ gìn giới bất tịnh hành  này  nghiêm  chỉnh  thì tâm  tham  ái  của các bạn sẽ được diệt trừ.
Vì thế hằng ngày chúng ta phải chuyên tu tập  đúng  pháp  như  lý  tác  ý  nương  thân  hành nội ngoại.
Câu tác ý thứ nhất:  ‚Sắc  dục  chỉ là  tâm tham  ái nên không thấy thân này bất tịnh, uế  trược,  bẩn  thỉu, hôi  thối phải  từ  bỏ, phải   xa   lìa  chúng,   tâm   phải   luôn   luôn thanh thản, an lạc và vô sự‛.
Câu  tác  ý  thứ  hai:  ‚Thân  này bất  tịnh, uế  trược, hôi thối  chúng ta  phải  từ  bỏ  tâm sắc  dục, tôi  biết  tôi  hít  vô,  tôi  biết  tôi  thở
ra‛.

Câu tác ý thứ ba: ‚Thân này là  thân bất tịnh hôi thối  ta  phải  xa lìa, đừng  tham  ái nó tôi biết tôi đang đi kinh hành‛.
Pháp như lý tác ý quá cụ thể rõ ràng, hằng ngày  phải  siêng  năng  tu  tập  một  cách  nhiệt tâm,  nhiệt  tình thì mới  có  hiệu  quả  làm  chủ được cuộc  sống  sanh,  già,  bệnh,  chết  và  chấm dứt tái sanh luân hồi.


Chúng  ta  lại  tiếp  tục  quán  xét  thân  bất tịnh  như  trong  kinh  Tứ   Niệm  Xứ  hay  kinh Thân Hành Niệm. Nếu thân này chết khoảng 4,
5 ngày  thì trương  phồng  lên,  xanh  đen, lại  nứt nẻ,  nước  vàng  chảy  ra, mùi  hôi  thối  xông  lên rất khó chịu, khiến cho mọi người không ai dám lại   gần,   nếu   đem  thân   này   quăng   bỏ   trong nghĩa địa đừng chôn thì các loại chim như: quạ, diều  hâu,  chim  kên,  chó,  gà  và  tất  cả  các  loại côn trùng ăn. Thân này tánh chất là như vậy, không có cách nào vượt khỏi tánh chất ấy, dù ta đem phơi  khô  hay  ướp  một  thứ  thuốc  nào  thì thân  bất  tịnh  vẫn  là  bất  tịnh,  tính vô  thường hoại diệt thì không thể nào thoát ra qui luật vô thường hư hoại được.
Chúng  ta  hãy  đọc  lại  đoạn kinh Tứ  Niệm Xứ mà đức  Phật đã  dạy: ‚Lại  nữa này các  Tỳ kheo,   Tỳ   kheo   như   thấy một   thi   thể   bị quăng bỏ  trong   nghĩa  địa một  ngày,  hai ngày, ba ngày thi  thể ấy trương phồng lên, xanh   đen  lại  nát  thối ra.   Tỳ  kheo  quán thân  ấy  như  sau: ‚Thân  này  tính chất là như  vậy,  bản  tính là  như  vậy  không vượt khỏi tính chất ấy‛.
Nhìn  thấy xác thân bất tịnh, tính chất hôi hám trương phồng rữa thối bất tịnh khiến ta không  còn  chấp  trước  cho thân  này  là  đẹp đẽ


cao quí;  cho thân  này  là  ta,  là  của  ta,  là  bản ngã  của  ta.  Mọi  người  lầm  chấp  thân  này  tốt đẹp, trong  sạch,  sự  thật  chỉ  là  tấm  thân  bất tịnh  hôi  thối  tan  rã  hoại  diệt.  Khi tư  duy như vậy nhiều lần khiến ta nhàm chán thân tứ đại, nhàm chán đến mức độ ghê tởm không còn xem thân là vật quý trọng nữa.



à


 GIỚI   HÀNH  THỨ    HAI  MƯ  ƠI   MỐT  :

GIỚI VƠ THƯỜNG HÀNH


Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống GIỚI VÔ THƯỜNG HÀNH nghiêm chỉnh  thì phải  thông  hiểu:  giới  đức,  giới  hạnh và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và
giới hành của giới vô thường hành là gì?

Giới đức giới vô thường hành là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.
Giới  hạnh  giới  vô  thường  hành  là  những lời dạy  về  Phạm  hạnh  tức  là  oai  nghi  tế  hạnh thường thể hiện qua giới vô thường hành như: nói,  nín,  tiếp  giao  với  mọi  người,  v.v..  Những oai  nghi  tế  hạnh  như  vậy  được gọi  là  Chánh nghiệp.
Mọi  vật  trên  thế  gian  này  do các  duyên hợp  thành.  Do  các  duyên  hợp  thành  nên  vạn vật thường thay đổi. Sự thay đổi ấy gọi là vô thường; sự vô thường là hiện tượng của sự đau khổ, sự hoại diệt, sự tan rã, sự không bền vững, sự mất mát, v.v..


Phần  đông  con người  ở   thế  gian  này  đều cho các pháp là thường còn, thường hằng, bất biến, chứ ít ai nghĩ rằng các pháp là vô thường. Từ  khi đạo Phật ra đời con người mới biết được bốn  chân  lý  của  loài  người,  mới  biết  được các pháp hiện có mặt do duyên hợp, mới biết được các  pháp  là  vô  thường  khổ  đau, mới  biết  được các pháp là vô ngã, không phải là ta, là của ta, là  bản  ngã  của  ta.  Có  quan sát  như  vậy  chúng ta mới có cái nhìn  tính chất các pháp vô thường như thật, không còn lầm lạc.
Muốn  cho sự  hiểu  biết như thật  thì chúng ta  hãy  lắng  nghe  đức   Phật  dạy  La  Hầu  La:
‚Này La Hầu  La, hãy tu tập sự  tu tập về  vô thường. Này La Hầu La,  do tu tập sự tu tập về vô thường cái gì thuộc về ngã mạn được diệt trừ‛.
Bài kinh giáo giới La Hầu La này dạy: ‚tu tập  về  sự  tu tập  vô  thường‛  thật  tuyệt  vời. Vậy cái gì là vô thường?
Thưa  các  bạn,  tất  cả  các  pháp  trong  thế gian này đều vô thường như trên đã  nói, nhưng thấy  các  pháp  vô  thường  như  thật  thì  phải nhiệt tâm  tu tập  hết  sức,  nếu không tu tập  hết sức  thì chẳng  bao giờ  thấy  các  pháp  vô  thường như thật.


Người không tu tập về các pháp vô thường thì cho rằng  các  pháp  là  có  thật.  Do thấy  các pháp có thật nên mới cho các pháp là của ta, là ta, là bản ngã của ta. Từ  chỗ thấy hiểu biết sai lệch  mới  có  sự  chấp  ngã;  từ  chỗ  chấp  ngã  mới sanh ra ngã  mạn; từ  chỗ ngã  mạn mới sanh ra tham, sân, si mạn, nghi.  Biết thế đức Phật mới dạy  giới hành  các  pháp  vô  thường  để diệt   ngã xả  tâm  ly  ác  pháp.  ‚Này  La Hầu  La, do tu tập  sự  tu  tập  về  vô  thường cái  gì thuộc  về ngã   mạn   được  diệt   trừ‛.   Lời  dạy  này  rất đúng, nếu ai đặt trọn lòng tin mà thực  hiện lời dạy này thì sẽ chấm dứt khổ đau.





 GIỚI   HÀNH  THỨ    HAI  MƯ  ƠI   HAI:

GIỚI HÀNH NIỆM
HƠI THỞ RA, HƠI THỞ VƠ


Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một  đời  sống  GIỚI  HÀNH  NIỆM  HƠI THỞ  RA, HƠI THỞ VÔ  nghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới  đức,  giới  hạnh  và  giới  hành  của  nó.  Vậy
giới  đức,  giới  hạnh  và  giới  hành  của  giới  hành
niệm hơi thở ra, hơi thở vô là gì?

Giới đức giới hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh nghiệp.
Giới  hạnh  giới  hành  niệm  hơi  thở  ra, hơi thở  vô  là  những  lời dạy  về  Phạm hạnh  tức  là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua giới hành niệm  hơi  thở  ra, hơi  thở  vô  như:  nói,  nín,  tiếp giao  với  mọi  người,  v.v..  Những  oai  nghi  tế hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.
Trước  khi muốn  tu  tập  về  giới  hành  niệm hơi thở ra, hơi thở vô thì các bạn hãy lắng nghe lời đức Phật dạy La Hầu La: ‚Này La Hầu  La, hãy tu tập sự tu tập về niệm hơi thở vô, hơi


thở  ra,  làm  cho  sung  mãn, nên  được  quả lớn,  được  lợi  ích  lớn.  Và  này  La  Hầu  La, thế  nào  là  tu  tập  niệm hơi  thở  ra,  hơi  thở vô  làm  cho  sung  mãn nên  được  quả  lớn, được lợi ích?‛.
Ở  đây  lời dạy  này  có  những  danh  từ  khó hiểu như: làm cho sung mãn, được quả lớn, được lợi ích lớn. Vậy làm cho sung mãn như thế nào? Được quả lớn, được lợi ích lớn như thế nào?
Chữ  sung  mãn  có  nghĩa  là  đầy  đủ,  sung túc, tràn đầy, dư thừa không thiếu hụt. Tóm lại, trước  khi thực  hiện  nghĩa  này  thì phải  tập  an trú tâm trọn vẹn trong hơi thở. An trú tâm trọn vẹn trong hơi thở tức là biết hơi thở vô, hơi thở ra một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, thoải mái, an lạc, đó là làm cho tràn đầy sung túc, dư thừa, không thiếu về niệm hơi thở.
Quả lớn là gì?

Quả  lớn  có  nghĩa  là  kết  quả  to  lớn  của  sự tu  tập  về  hơi  thở  vô,  hơi  thở  ra. Quả  lớn  còn nghĩa là kết quả của sự tu tập đạt được  sự giải thoát  một  cách  cụ  thể  rõ  ràng,  hay  nói  cách khác  là  làm  chủ  được sanh, già,  bệnh,  chết  tức là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ.
Được lợi ích lớn là gì? Lợi ích lớn có nghĩa là:


1- Đời  sống được  an vui, hạnh  phúc  không có  ác  pháp  nào  làm  dao động  được  tâm,  tâm luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự, thường thản nhiên trước mọi dục lạc thế gian, mọi sự cám dỗ vật chất, mọi ác pháp, v.v..
2- Làm  chủ  được tuổi  già  có  nghĩa  là  khỏe mạnh quắc thước như một thanh niên cường tráng.
3- Làm chủ được mọi bệnh tật không sợ ốm đau như người thường tục.
4- Làm  chủ  được   sự  sống  chết,  muốn  sống thì sống, muốn chết thì chết.
5- Chấm dứt tái sanh luân hồi.

Trên  đây  là  năm  điều  lợi ích lớn  của  kiếp sống làm người do tu tập hơi thở vô, hơi thở ra.
Vậy  trước  khi muốn  tu  tập  giới  hành  hơi thở  vô,  hơi  thở  ra thì chúng  ta  hãy  lắng  nghe đức  Phật dạy La Hầu La: ‚Ở  đây  này La Hầu La,  vị Tỳ Kheo đi  đến khu  rừng, đi  đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống và ngồi kiết già,   lưng   thẳng và   an   trú   chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác, vị ấy thở vô, vị ấy thở
ra‛.

Đọc  đoạn   kinh  này  chúng  ta  cần  lưu  ý những  từ  sau đây:  khu  rừng,  gốc  cây,  ngôi  nhà


trống,  ngồi  kiết già,  lưng  thẳng,  an trú  chánh niệm trước mặt, tỉnh giác.
Vậy  khu  rừng,  gốc  cây,  ngôi  nhà  trống  là địa  điểm  để tu tập, có nghĩa là tìm  nơi chốn yên tịnh,  vắng  vẻ  để  tu  tập  hơi  thở  vô,  hơi  thở  ra. Nếu  địa điểm không  tìm  được như  trên  đức Phật đã  dạy, thì sự tu tập về hơi thở vô hơi thở ra rất khó khăn. Các bạn lưu ý những lời dạy này,  vì  nó  rất  cần  thiết  cho sự  tu  tập  của  các bạn, xin  các bạn nên nhớ kỹ. Các bạn đừng cho rằng  bất  cứ  nơi  đâu  tu  cũng  được thì đức  Phật dạy điều này để làm gì? Có quan trọng đức Phật mới  dạy  như  vậy.  Đừng  nghe  theo  những  nhà Đại thừa và Thiền tông. Họ chỉ nói suông: ‚Bất cứ  chỗ  nào tu  cũng  được, tu  trong  bốn  oai nghi, tu trong công việc làm‛. Lời nói này đi ngược lại lời dạy của đức Phật.
Ngồi kiết già là gì?

Ngồi  kiết già  là  tư  thế  ngồi  xếp  bằng  tréo hai chân đan vào nhau. Đó là tư thế ngồi của người  tu  thiền  định. Tư thế  ngồi  này  rất  vững chắc  để   thân  tâm  dễ  gom  vào  một  đối  tượng thân hành nội (hơi thở).
Ví  dụ: Đi,  đứng,  nằm  ngồi,  co tay,  duỗi chân,  ngước  nhìn,  nói  nín,  ăn,  nhai  nuốt,  hơi thở   vô,   hơi   thở   ra,  v.v..  đều   là   thân   hành,


nhưng  phải  rõ  tất  cả  thân  hành  của  thân  là thân  hành  ngoại  chỉ  trừ  có  hơi  thở  là  thân hành nội. Như vậy chúng ta phải hiểu rõ mới có thể tu tập được.
An trú chánh niệm là gì?

An trú chánh niệm là ở  yên ổn trong niệm chân chánh. Niệm chân chánh là gì?
Trong đạo Phật có bốn chỗ niệm chân chánh:
1/ Niệm thân.

2/ Niệm thọ.

3/ Niệm tâm.

4/ Niệm Pháp.

Chữ  chánh  niệm  ở  đây  gồm  chung  có  4 niệm,  như vậy  an trú chánh  niệm tức là  an trú trong  bốn  niệm.  Vậy  an trú  bốn  niệm  một  lần có  được không?  An  trú  bốn  niệm  một  lần  là  tu tập  Tứ  Niệm  Xứ.  Cho nên  Tứ  Niệm  Xứ  còn  gọi là Chánh Niệm.
Ngoài bốn niệm: thân, thọ, tâm, pháp còn có niệm nào khác nữa không?
Trên thân gồm có hai niệm:

1.  Thân hành niệm nội.

2.  Thân hành niệm ngoại.


Trên thọ gồm có ba niệm:

1-  Niệm thọ lạc.

2-  Niệm thọ khổ.

3-  Niệm thọ bất lạc bất khổ. Trên tâm gồm có hai niệm:
1-  Niệm tịnh.

2-  Niệm động.

Trên pháp gồm có hai niệm:

1-        Niệm thiện.

2-        Niệm ác.

Ở  đây, bài pháp này đức Phật đang dạy La Hầu La về  hơi  thở  vô,  hơi  thở  ra, vì thế  chánh niệm  ở   đây  phải  hiểu  là  thân  hành  niệm  nội, tức  là  hơi  thở  vô  hơi  thở  ra. Vậy  an trú  chánh niệm trước mặt tức là an trú hơi thở vô, hơi thở ra ở  trước mặt.
Tỉnh  giác  nghĩa  là  gì? Tỉnh  giác  nghĩa  là biết rất rõ ràng từng chi tiết nhỏ, biết rất kỹ lưỡng,  biết  không  có  mờ  mịt một  chút  xíu nào cả.  Ở   đây  chúng  ta  nên  hiểu  đức  Phật  dạy La Hầu  La  phải  biết  rất  kỹ  từng  hơi  thở  vô,  từng hơi thở ra.
Người giữ gìn giới hành hơi thở vô hơi thở ra có nghĩa là tu tập an trú trong hơi thở vô hơi


thở  ra phải  biết  rất  rõ  ràng,  không  được  để quên, để mất, để mờ mịt hơi thở vô ra.
Vì tâm chúng ta hay quên (vô ký) nên phải dùng pháp tác ý dẫn tâm tỉnh giác mãi mãi làm cho tâm  sáng  suốt  thấy  biết  rất  rõ  ràng  từng hơi thở vô, ra: ‚Hít  vô  tôi biết  tôi  hít vô,  thở ra tôi biết  tôi  thở ra‛. An trú  được trong  hơi thở  là  đạt  được căn  bản  về  phương  pháp  tu Định Niệm Hơi Thở.
Để  thực hiện  giới hành  này  chúng ta  nên theo lời đức Phật dạy Tôn Giả La Hầu La mà tu tập như sau:
Trước  tiên  chúng  ta  tìm nơi  vắng  vẻ,  yên tịnh,  rồi  tập  ngồi  kiết  già  lưng  thẳng,  sau khi tập  ngồi  kiết già  lưng  thẳng  được  có  nghĩa  là ngồi  tréo  chân  mà  không  thấy  khó  chịu,  hoặc đau hoặc tê chân chừng nửa tiếng đồng hồ. Khi ngồi được nửa tiếng đồng hồ yên ổn thì mới đặt niệm  hơi  thở  vô,  hơi  thở  ra trước  mặt  và  tác  ý như sau: ‚Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết  tôi thở ra‛.  Khi tác  ý  xong  câu  này  ta truyền lệnh: ‚Hít‛, truyền lệnh xong ta mới hít vô, tỉnh giác rất kỹ theo hơi thở vô. Sau khi hơi thở  vô  hết  ta truyền  lệnh  “Thở‛,  khi truyền lệnh xong ta mới thở ra và phải sáng suốt tỉnh giác  theo  hơi  thở  ra. Cứ  như  vậy  mà  tu  tập  1 phút.  Nếu  tu  tập  1 phút  sức  tỉnh  giác  rất  tốt


không quên hơi thở nào, có nghĩa là trong một phút không bao giờ ta quên hơi thở, mà cũng có nghĩa  là  trong  một  phút  không  có  một  niệm vọng tưởng nào xen vào được.
Nếu  một  phút  tu  tập  tốt,  ta  tăng  lên  2 phút, rồi 3 phút, rồi 4, 5 phút. Sau khi đạt được
5 phút rấtù tỉnh giác hơi thở ra vô, ta tăng 6, 7,
8, 9, 10. Sau khi tăng  lên  10 phút  ta  soát  xét xem lại  toàn  bộ  cơ thể  có  xảy  ra trạng  thái  gì không?
Ví  dụ: nặng  đầu,  nặng  mặt,  choáng  váng chóng  mặt,  v.v..  Khi có  những  trạng  thái  như vậy  xảy  ra thì nên  báo  cho Thầy  biết  để  kịp thời sửa lại cho đúng cách tu tập để không bị ức chế tâm khiến thân không rối loạn cơ bắp và thần kinh, v.v..
Trong  giới hành  về  hơi  thở  vô,  hơi  thở  ra có 19 đề mục tu tập:
 ĐỀ  M Ụ C  THỨ  NH Ấ T

1- Hít vô  tôi  biết  tôi  hít  vô,  thở  ra tôi biết  tôi  thở  ra.  Đó  là  đề  mục  thứ  nhất  để  tu tập  nhiếp  tâm  trong  hơi  thở.  Đề  mục  này  tập trung  tâm  tại  nhân  trung  giữa  hai  lỗ  mũi,  biết hơi  thở  ra vô  tại  chỗ  đó,  chứ  không  được  theo hơi  thở  vô  lồng  ngực  và  ngược  lại  hơi  thở  từ lồng ngực chạy ra. Nếu các bạn nhiếp tâm được



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!