Lời bạt
Làm người ai
cũng biết khen và chê, nhưng phải hiểu rõ, khen chê như thế nào đúng và như thế
nào sai?
Cho nên vấn
đề khen chê rất quan trọng trong cuộc sống chung đụng và va chạm với mọi người.
Người ở đời không
mấy ai lưu ý
đến vấn đề này, cho nên khi được khen không cần biết đúng
sai, phải trái như thế
nào, nhưng tâm họ vẫn
hân hoan, vui mừng
ra mặt và còn tỏ ra thiện cảm, ưa thích người
khen mình;
ngược lại khi bị chê bai hoặc bị nói xấu, thì tỏ lộ nét mặt căm tức, giận hờn
khổ đau, thù ghét, mất thiện cảm… không
ưa thích người đó.
Lúc bấy giờ họ
không cần biết người khác chê đúng hay chê sai, chỉ biết tức giận và cố trả thù
là trên
hết.
Người tu sĩ
Phật Giáo không
nên để tâm bị
chi phối bởi lời khen hay tiếng chê như vậy,
mà phải hiểu cho
rõ ràng: khen như thế nào là khen đúng và khen như thế
nào là
khen sai. Chê
cũng vậy, chê
như thế nào là chê đúng và chê như thế nào là chê sai.
Do sự hiểu
biết rõ
ràng như vậy, cho nên khi được khen không vội mừng vui, khi
bị chê không vội buồn bã. Theo như lời đức Phật đã dạy: “Này các Tỳ Kheo, nếu có người hủy
báng Phật, hủy
báng Pháp,
hủy báng
Tăng, các ngươi chớ có vì vậy mà
sanh lòng công
phẫn, tức tối,
tâm sanh phiền muộn,
thời như vậy sẽ
có hại cho các ngươi, làm cho các
người đau khổ, không ích lợi gì? Các ngươi phải nói rõ những điều không đúng sự
thật là không đúng sự thật: “Như thế này, điểm này không đúng sự thật; như thế
này, điểm này không chính xác; việc này không có giữa chúng tôi, việc này không
xảy ra giữa chúng tôi”.
Lời dạy trên
đây của đức Phật, chúng ta nên nhớ cho thật kĩ để khi gặp những ai khen hay chê
mình thì chớ có vui mừng hay công phẫn, tức giận, đó là tự mình làm cho mình
đau khổ. Phải không các bạn?
Khi chúng ta
bị chê bai, bị chỉ trích, bị nói xấu, v.v.. Chúng ta đừng vội căm
tức, mà nên
xem xét người chê bai nói xấu mình hay người khác, họ là người như thế nào? Lời chê của họ có đúng hay
sai. Chê họ có dựa đúng
vào những tiêu chuẩn
đạo đức làm người hay không (giới luật)?
Nếu khen,
chê mà không đúng tiêu chuẩn đạo đức này (giới luật) là khen, chê sai. Khen chê
sai là người không có chánh tri kiến, người
không có chánh
tri kiến là người hay làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai, người như vậy
rất tội nghiệp chúng ta nên tha thứ và thương yêu
họ.
Khi được
khen hay bị chê thì chúng ta muốn biết rõ đúng hay sai thì cần phải dựa vào giới
luật đức hạnh của Phật giáo như trên đã
nói. Phải sáng suốt nhận định nếu lời khen kia đúng giới luật, đó là họ khen
đúng, còn ngược lại khen không đúng giới
luật là khen
sai. Chê cũng vậy chê người phạm giới là chê đúng, chê người không phạm giới là
chê sai. Chê người phạm giới mà người ta không
phạm giới là
mình nói xấu người ta, là mình
chê sai, mình sẽ bị tội lỗi, phải trả nhân quả tội ác mà không tránh khỏi.
Chúng ta hãy lắng nghe lời Đức Phật dạy: “Này
các Tỳ Kheo,
nếu có người tán thán khen Ta, thời các người không nên
hoan hỉ, vui mừng, tâm không nên
thích thú vì hoan hỉ vui mừng thích thú thời sẽ có hại cho các người”.
“Này các Tỳ
Kheo, các người hãy công nhận những gì đúng
sự thật là đúng sự thật. Như thế
này, điểm này đúng sự thật, như thế này, điểm này chính xác, việc này có giữa
chúng tôi, việc này đã xảy ra giữa chúng tôi”. Đây là lời khuyên của đức Phật,
chúng ta cần phải lưu ý những
lời dạy này,
vì nó có một giá trị lợi ích rất lớn đối với đời sống của chúng ta.
Khi chúng ta
muốn khen hay chê ai cũng phải dựa
vào giới luật,
vì giới luật là tiêu chuẩn đạo đức,
đúng đắn cho lối sống Thánh thiện
của mọi con người. Cho nên người phạm giới luật là người đáng chỉ
trích, đáng khinh chê, còn ngược lại người nghiêm trì giới luật là người đáng
được khen, đáng được ca tụng: “Này các Tỳ kheo, đấy là những vấn đề không quan
trọng nhỏ nhặt, chỉ thuộc giới luật, mà kẻ phàm phu dùng để tán thán Như Lai”.
Đúng vậy, muốn
khen hay chê ai chúng ta đều dựa vào giới luật thì sự khen chê mới đúng nghĩa.
Vậy giới luật là gì?
Giới luật là
thiện pháp như trên đã nói, giới luật là đạo đức làm Người, làm Thánh; giới
luật là pháp
môn vô lậu,
thường mang
đến những kết quả giải thoát thực tế, cụ thể, rõ ràng hiện tại, không có thời gian
chờ đợi cho những người
tu sĩ Phật giáo, đến
để mà thấy kết quả
ngay liền.
Giới luật gồm có nhiều
giới, mỗi giới đều có tính chất đặc thù riêng về đức và
hạnh của
nó. Vì thế,
nó mới được
mang tên là “Giới Vô Lậu”, nó mới được mọi người cung kính và tôn trọng,
chính nó mới đem lại sự an vui
hạnh phúc cho
cá nhân của mọi
người; chính nó
mang lại sự êm ấm hạnh phúc cho từng mỗi gia đình; chính
nó cũng
mang lại trật tự, an ninhï
cho xã hội và phồn vinh thịnh trị cho đất nước quê hương xứ sở.
Bởi vậy, giới
luật là một pháp môn rất quan trọng và
vô giá đối với đời sống
của con người. Người không có giới luật là
người vô đạo
đức, thường sống làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Vì thế, mọi
người ai ai cũng cần phải học hiểu giới luật,
vì học hiểu giới luật
thông suốt là cả một sự lợi ích rất lớn,
nó sẽ giúp cho mọi người vượt lên
mọi sự khổ đau của kiếp làm người và nó
chuyển hóa luật nhân quả, khiến cho nhân
quả không còn tác dụng trên thân tâm của chúng ta nữa. Nhờ thế,
chúng ta đã biến cảnh sống
thế gian thành cảnh
giới Thiên Đàng,
Cực Lạc, một cảnh sống mà mọi người đều ước mơ.
Kính ghi,
Trưởng lão
Thích Thông Lạc
C HƯƠ NG I
GIỚI LUẬT
SỰ LỢI ÍCH
THIẾT THỰC,
CỤ THỂ TRONG
ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY CỦA MỌI NGƯỜI
ÍCH LỢI CỦA
GIỚI LUẬT LÀ TIẾNG GỌI THIẾT THA CỦA ĐỨC PHẬT ĐỐI VỚI TÇT CÂ CHÚNG SANH
Do sự lợi íc h r
ất lơ ùn
c ủa giới luật
nên tiếng gọi t hiết tha, nhiệt
tì nh cu ûa đức Phật Thíc h Ca Mâu
Ni đối với mọi
ngư ời đã, đang
và sẽ tu theo
Phật giáo. Những
ai muốn t u theo Phật gi áo thì
phải thấy giới
luật là những
hành động sống Thánh thiện tu yệt vời, đầy đủ đức hạnh nhân
bản làm người – sống không
làm khổ mì nh,
kho å người , khổ c ả hai. Nếu một
ngươ øi sống đúng
như vậy t hì ươ ùc
nguyện một điều
gì thì điều ấy se
õ thành hiện t hực , cho nên lơ øi t hiết
t ha kêu gọi ấy mãi mãi còn
vang dậy trong
tai c húng tôi : “Này các T ỳ K heo hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ
gi ới bo ån, sống p
hòng hộ
với sự p hòng
ho ä của gi ới bổn,
đa ày đủ oai
nghi chánh hạnh, thấy
sự nguy hi ểm
trong các lỗi nhỏ nhặt,
chơn cha ùnh lãnh
thọ và học
tập ca ùc học giới ”. K hi nghe những
lời kêu gọi t hiết t ha, tràn đầy lòng
yêu thươ ng của đức Phật Thíc h Ca Mâu Ni c ác bạn
có bao giờ co
n ti m
rung động trư ớc những lời dạy bảo , kêu gọi này không?
Kính t
hưa các
bạn! Khi đọc đến đoạn kinh này
chúng tôi không thể c ầm được giọt
nước mắt , con tim c húng tôi se
thắt lại, nhói
đau nghĩ đến lòng yêu t
hươ ng chân thật đối với
chu ùng sanh thật là vô bờ bến của
Người. Tì nh t hương của cha, mẹ đối với co
n cái
như núi cao, như
biển rộng, sông dài,
như ng so sánh với tì nh
thươ ng của đức Phật còn
kém xa các bạn ạ!
Do cảm thông
đư ợc lòng yêu thương
của đức Phật
Thích Ca Mâu Ni
nên chu ùng tôi qu
yết tâm
cố giữ gìn giới luật
trọn đời, t hà chết chứ sống không
hề vi p hạm một lỗi
nhỏ nhặt nào. Nhờ đó mà t âm c húng tôi ly du ïc
ly ác pháp được c ác bạn ạ!
Kinh Ươ ùc
Nguyện có mười
sáu điều ước nguyện.
Năm điều ước ngu
yện đầu
tiên là những điều ước nguyện cho cuộc sống
thế gian, còn mư
ời một điều sau là
những điều ước
nguyện c ho cuộc sống xuất thế
gian.
Trong cuộc sống
hằng ngày con người ai ai cũng ước nguyện
c ho mọi người t hươ ng
mến, yêu quý, cu ng kính,
tôn trọng mình
v.v.. Đó là sự ư ớc nguyện t hứ nhất tro ng bài ki nh
này:
Như õng lời
dạy trong kinh Ước Nguyện chúng ta xét t
hấy do giư õ
gì n giơ ùi luật mà sự ươ ùc
nguyện thành tựu như
ý. Đúng vậy, một
ngươ øi sống đúng giới luật , sống
không l àm khổ mì
nh, khổ
người ,
khổ cả
hai thì làm sao mọi ngư ời
không t hương yêu, kí nh
trọng ngươ øi ấy đư ợc. Phải
không c ác
bạn?
Xét đoạn
kinh trên đây chúng
ta nhận thấy giới
luật là một p
háp môn
làm nền tảng vững
chắc c ho sự t u học căn bản của
Tăng, Ni và cư sĩ đúng c hánh Phật pháp.
Nếu ai sống vi p hạm,
bẻ vụn gi ới
lu ật, làm hỏng mất nền tảng giới lu ật của Phật giáo, là làm
mất con đường tu tập giải t
hoát của
mình. Làm mất co n đường tu tập giải t hoát cu ûa Phật giáo t
hì không bao giơ ø
tu t ập làm c hủ bốn sự
khổ đau của kiếp người :
sanh, gi à, bệnh,
chết và chấm dứt
luân hồi
sanh tử. Người
phạm giới , phá
giơ ùi là người l àm mất chánh
pháp của Phật;
l à người co ù tội rất nặng với Phật giáo.
Bởi vậy,
ở đơ øi làm
người không ai ước
nguyện c ho mì nh
khổ đau , c hịu nhiều
t ai ư ơng, hoạn nạn
v.v.. K hi chu ùng ta đến với Phật
Giáo l à đến với sự ươ ùc nguyện t hoát khổ, hoặc
nhờ sư ï che chở gia hộ của Thần, Thánh,
chư Phật, chư Bo
à Tát, c ho bệnh tật
tiêu trừ, t ai
qua nạn khỏi, chư ù có
mấy ai đến với Phật
giáo mà ư ớc
ngu yện c ho mình đau khổ bao giơ ø. Phải không các bạn?
Như ng sự ước nguyện
ấy có đ ạt
được như ý muốn
hay không là còn tùy ở tôn gi
áo mì nh đang
theo. Nếu
tôn gi áo đó
đã xây dựng một thế gi
ới siêu hình ảo tưởng t hì
tôn gi áo đó sống không thực
tế. Hầu hết các tôn gi áo
trên hành tinh này đều dựng le ân một t hế giơ ùi siêu hì nh ảo tưởng
(cõi Trời, cõi Cực Lạc
, cõi Thiên Đàng,
cõi Niết Bàn v.v..)
để sống an ủi tinh thần trong mơ tưởng, cho nên những người theo c ác
tôn gi áo ấy t hường sống trong mê tín, không thực tế, thiếu khoa học, t hiếu đạo đức,
nên luôn sống
dựa vào cơ
bút, t hần quyền, ảo giác , cúng tế, cầu nguyện v.v.. “Mo ät tôn
giáo mà k hông chứng mi nh được k hoa
học la ø tôn giáo mê tí n.
Một nền khoa học mà
kho âng chứng mi nh được đạo đức là
nền
k hoa học giết sự so áng trên hành ti nh”.
Riêng Phật
gi áo không dạy tí
n đồ của
mình sống trong ảo tưởng của thế
giới siêu hình, không nhờ
oai lư ïc chư Thần,
chư Thánh, chư Phật , c hư Bồ Tát từ bi gia hộ cư ùu khổ, cứu nạn v.v.. mà phải sống rất t
hực tế
bằng những hành
động toàn thiện cu ûa
mình không l àm
khổ mình, khổ
người , khổ tất cả
chúng sanh tức
là ngăn ác diệt ác pháp,
sanh thiện tăng
trưởng thiện pháp.
Đó là tinh t hần
tự lực , tự cường tro ng
thie än pháp
chuyển ác nghiệp t hành phươ ùc báo vô lậu 1.
1 Vô lậu:
không còn đau khổ
Kính t hư a
các bạn?
C ho nên sự ư ớc nguyện của
Phật giáo muốn
đ ạt t hành kết qu
ả an
lạc , hạnh phúc thật sự, thì phải
kèm t heo những hành động sống toàn
thiện, tư ùc là sống đúng
giơ ùi luật , không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt
nào. Có sống đúng những
hành động thiện
(giơ ùi luật) như vậy,
thì sư ï
ước ngu yện kia mới
được toại nguyện,
còn ngược l ại sống
không đúng những
hành động thiện (giới
luật ), t hì sự ước
nguyện kia sẽ không thành tựu.
Kính t hưa
các bạn!
Những hành động
thiện
là gì?
Như õng hành
động thiện là những hành động
do thân,
khẩu và ý của mình,
không làm kho å mình,
khổ ngươ øi và
không làm khổ tất c ả c
húng sanh. Những hành động thiện ấy là “GIỚI ĐƯ ÙC, GIỚI
HẠN H, GIỚI HÀ NH”.
Vì thế,
kinh Ước Nguyện dạy rất rõ
ràng: “Này các Tỳ K
heo có ước ngu yện:
“Mong ra èng ta được các đồng
Phạm hạnh thương me án, yêu quý,
cung kí nh và
tôn trọng!”. T ỳ K
heo ấy phải thành
tựu vie ân mãn giới l uật,
kiên trì, nội tâm tịch tĩ
nh, k hông gián đoạn thiền định, thành
tựu quán hạnh,
thí ch sống tại các trụ x ứ k hông tịch”.
Xét qu a đoạn
ki nh trên chúng
ta t hấy khi muốn
ước nguyện một điều gì để đạt được ư ớc nguyện
ấy t hì tâm bắt buộc
phải có đủ
sáu điều kiện. Trong
sáu điều kiện c
ủa tâm
t hì điều kiện “giơ ùi
luật” là hàng đầu
, nếu giới luật
không gi ư õ gìn nghiêm
c hỉnh t hì không
bao gi ờ có “sự
kiên trì giữ gì n”. K hông
bao giơ ø
có sự kiên
trì giữ gì n thì chắc c hắn
phải vi p hạm những
lỗi nhỏ nhặt trong
giới l uật , mà
đã vi p hạm những
lỗi nho û nhặt tro ng giới luật , t hì nội tâm
không đư ợc “ tịch tĩnh”. Nếu nội
tâm không được
tịch tĩ nh t hì “thie àn định”
sẽ bị gi án
đoạn; t hiền đị nh
sẽ bị gián đoạn t hì “quán
hạnh” sẽ không t hành
tựu ; quán hạnh sẽ
không t hành tựu t hì không bao
gi ơ ø thích sống “ độc cư”, tức
là an tru ù
một mì nh
nơi không tịc h vắng vẻ.
Một người
giư õ
gìn giới lu ật
nghiêm chỉ nh, không hề
vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào
thì ho ï thành tựu l uôn
năm tr ạng t hái
kia cu ûa t âm, do thành tư ïu luôn năm trạng t hái kia của tâm thì sư ï ước nguyện
điều chi, họ
cũng sẽ đạt được như ý.
Phần đông những
nhà học gi ả
xưa và nay không
có kinh nghiệm tu
hành, nên gặp đoạn ki nh
này họ không giải
thích nổi. Vì thế, họ tưởng rằng đây l à sáu p háp tu t ập,
nhưng sư ï t hật chỉ
có một
pháp duy nhất là gi ới luật . Giới
luật nghiêm trì thì có sáu tr ạng t hái giải tho át:
1- Giới luật
thanh tị nh.
2- Kiên trì
giữ gìn.
3- Nội tâm tịch
t ĩnh.
4- Không
gián đoạn thiền định.
5- Thành tựu
quán hạnh.
6- Thíc h sống
t ại các trụ xứ không tịc h.
Nếu c hia r
a làm sáu pháp như vậy là c ác bạn đã hiểu sai, hiểu không đúng. Vì thế,
các bạn hiểu giới luật và t hiền đị nh là hai pháp . Họ quên rằng giới
lu ật là
thư ùc ăn của
thiền định, nếu không
co ù giới luật t hì
không có t hiền
đị nh, cho nên thành tựu
viên mãn gi ới
luật là có thiền định. Vì
lẽ đó, đức Phật dạy: “GIƠ ÙI
SIN H ĐỊ NH”, ngoài
giới lu ật đi tìm t hiền định t
hì không bao giơ ø
có t hiền định.
Kinh t hưa c
ác bạn!
Thiền Tông và Đại Thư øa bỏ giơ ùi luật tu t hiền định, vì thế
sự t u tập c ủa ho ï chỉ
uổng công c hẳng
bao giờ gặt hái được những kết quả
thiền đị nh làm chu û sanh, già, bệnh,
c hết và chấm dứt lu
ân hồi,
c ho nên như õng
ngư ời tu theo Thiền
Tông và Đại
Thư øa là những
người bo û mồi bắt bóng.
Ví dụ: Một
người giữ gìn giới luật nghiêm túc không
hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào
trong giới bổn t hì nội tâm sẽ kiên
trì, không bao gi ơ ø gặp khó khăn
bỏ cuộc, nhưng khi tâm đã kiên trì trong giới
lu ật thì nội tâm
đươ ïc tịch tĩ nh.
Đó l à một lẽ đươ
ng nhiên. Nội
tâm được tịc h
tĩ nh t hì
tâm t hiền
định2 không gi án
đoạn, nội t âm
thiền
định
không gián đoạn
thì t ất cả hạnh đều t hông suốt,
do tâm hạnh
được thông suốt t
hì người
ấy thích sống một mì nh nơi chỗ
yên lặng vắng vẻ, vì thế họ không thíc h hội
họp nói chu yện với một ai
hết.
Đoạn ki nh
trên viết rất
cô đọng khiến
cho những ngư ời tu
hành chưa chứng
rất khó hiểu . Sau
khi được giải thíc h
xo ng mọi người
r ất de ã hiểu. Phải không các bạn?
Vậy xin c
ác bạn
hãy đọc lại đoạn ki nh
này một lần nư õa,
để thấy sự
liên hệ mật
thiết kết thành một c hùm kết
quả trạng thái
an lạc , vô sư ï của giơ ùi lu ật
một c ách rõ
ràng và cụ t hể: “T ỳ Kheo
ấy p hải thành
tựu viên mãn giới l uật,
kiên trì nội
tâm tịch tĩnh,
không gián đoạn
2 Thiền
định là sự
than h tịnh c ủa tâm,
có n ghĩa la ø
ta âm trong sạc h hết th
am sân,
si, chứ khôn g phải
tâm vắng lặng không niệm th iện, n iệm
ác.
thiền đị
nh, thành tựu quán hạnh, thích so áng
tại các tr ụ
xứ không tịch”.
Đoạn kinh này
cũng giống như
tro ng kinh Thập Nhị
Nhân Du yên. Hễ
duyên này có
thì duyên ki a có, du
yên này
không t hì duyên
ki a không. Vì thế, ở đây c húng t a nên hiểu: Gi ới lu ật có thì kiên trì có, kiên
trì có thì nội tâm tịch tĩnh có; nội tâm tịc h tĩnh có thì thiền định không
gián đoạn có; t hiền định không gi án đoạn có, t hì
quán hạnh thành t ựu
có, quán hạnh
thành tựu có, t
hì thích sống độc
trú một mì nh
có. Như vậy, c
húng ta xét thấy giới luật rất quan trọng trên đư ờng tu tập để
đi đến cứu
cánh gi ải tho át.
Có đúng như vậy không c ác bạn?
Do giới luật
có tầm quan trọng và lợi ích r ất lớn như vậy, nên
người tu hành
theo Phật gi áo cần
phải lưu ý. Bơ ûi vì gi ới lu ật là
pháp vô lậu , l à sự
giải thoát c hân
t hật của một
ngươ øi sống đúng giới
lu ật. Cho nên
tro ng kinh Ước Ngu yện
dạy: “Muốn ước nguyện
một đi ều gì
thành tựu viên mãn điều ấy thì
giới luật là phải gi ữ gìn nghi êm chỉnh”.
Hầu hết
như õng tu sĩ t heo Phật gi
áo tu
theo kinh sách p hát
triển Đại Thừa
và Thiền Tông không biết giới lu ật có tầm quan trọng lợi íc h lớn như vậy,
nên xem thường
giới lu ật, coi giới lu ật
không hợp t hời , không p hải là pháp môn tu hành chân chánh
t hiền định. Vì thế, sư thầy lớn, sư
thầy nhỏ
đều ru û
nhau vi p hạm và bẻ vu ïn
những giới luật một c ác h vô trác h nhiệm. Họ không biết xấu hổ, không nhận ra đó là nếp sống Phạm hạnh ly dục
ly ác p
háp của
những bậc Thánh
Tăng, Thánh Ni và Thánh
cư sĩ. V à
cũng c hí nh đó l à
Thánh hạnh cu ûa những bậc Thánh A La
Hán.
Giới luật
là một p háp
môn để mọi
người sống có đức hạnh làm
Người , làm Thánh. Vì thế,
nó mang đến những sư ï lợi íc h t
hiết t hực c ho cuo äc sống hằng ngày cu
ûa c húng ta, như ng mấy ai đã đe å ý đến nó,
và còn nhiều
người cho nó lỗi thời , không
hợp vơ ùi t hời
đại hiện nay. V
ậy c húng t a hãy
lắng nghe đức Phật
dạy những sự lơ ïi íc h của giới lu ật
về đời sống tạ
i gi a cũng như đời sống
xuất gia.
ĐIỀ
U LỢI ÍC
H THỨ NH ẤT C ỦA G IỚI
LU ẬT:
ƯỚC NGUYỆN CHO MÌNH
Điều lợi
ích t hiết t hực
t hứ nhất của Giới
luật là
sự ước ngu yện
c ho mình được mọi ngư ời thươ ng yêu,
quý mến, cu ng
kí nh, tôn trọng
như trên đã nói .
Muốn được lòng
ti n vững c hắc
t hì chúng ta hãy sống đúng giơ
ùi luật
để thấy sự ư ớc
nguyện t hành hiện thư ïc. C ho nên điều ước
nguyện thứ nhất l à điều ước
ngu yện để được mọi ngư ời thươ ng yêu qu ý
kí nh. Vậy c húng
ta hãy nghe l
ời Phật dạy: “Này
các Tỳ Kheo, ne áu
T ỳ K heo co ù
ước nguyện:
“Mo ng rằng ta được đồng
Phạm hạnh thương me án, yêu
quý, cung kính, tôn trọng, Tỳ
Kheo sống p hải
thành tựu viên mãn
gi ới l uật, ki ên
tr ì, nội tâm tịch
tĩ nh, không gián đoạn thiền định,
thành tựu quán hạnh, thích sống tại
các trú xứ k hông tịc h”.
Thư a
các bạn!
Theo như lời Phật d ạy
trên đây t hì khi nào giữ gì n giơ ùi lu ật đươ ïc nghiêm t úc thì có năm đức hạnh
khác đươ ïc viên
mãn như trên đã
nói. Các bạn đư
øng nhầm
l ẫn năm đức hạnh này l à năm pháp tu . Năm đức này gồm có:
1- Đức kiên Trì.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!