rung động,
bởi vì lời
tuyên bố đi ngược lại sự
hiểu biết của loài người từ xưa đến nay.
Thưa các bạn,
nói về sắc uẩn là nói về vạn vật có hình
sắc, có vóc dáng, có hình tướng,
cho nên chúng ta phải hiểu rộng đừng hiểu hạn hẹp sắc uẩn chỉ nói riêng về bản
thân của con người là không đúng. Ở
đây phải hiểu tất cả vạn
vật có hình sắc đều không phải là ta,
không phải là của ta, không phải là bản ngã của ta. Vậy nó là của ai?
Từ xưa đến
nay ai cũng nghĩ thân tâm này là của ta, là ta, bản ngã của ta. Thế mà bây giờ
Đức Phật
lại nói không
phải của ta,
là ta thì làm đảo lộn cả sự hiểu biết của con người.
Khi đức Phật dạy La Hầu La thì Ngài bảo La Hầu La, phải dùng
chánh trí tuệ mà
tư duy suy xét. Nhờ
chánh trí tuệ tư duy
quán xét
ta mới thấy như thật, các pháp không có vật gì là ta, là của ta cả.
Cái hiểu biết
của con người từ xưa đến nay không phải là cái hiểu biết chánh trí tuệ mà là
cái hiểu biết tà trí tuệ; do sự hiểu biết đó
khiến cho con người lầm chấp có cái ta, cái của ta, cái bản ngã của ta,
nên thường chịu nhiều đau khổ, phiền não, v.v..
Tà trí tuệ
tức là tưởng
tri, tưởng tri là cái hiểu không đúng như thật. Chính cái hiểu
biết không đúng như thật đã đưa con người vào vòng lẩn quẩn của nhân quả nghiệp
báo không có lối thoát ra.
Do sự hiểu
biết không đúng như thật nên mới chấp thân
tâm này là ta, là của ta. Vậy
thân tâm này là của ai như đã hỏi ở trên?
Thưa các bạn,
thân tâm này là của nghiệp lực nhân quả.
Nó là dụng cụ của nhân quả. Cho nên đức
Phật nói: ‚Con người là thừa tự
của nhân quả‛.
Nghiệp lực
nhân quả luôn luôn ở sát bên thân tâm
con người như hình với bóng.
Thân tâm con người chỉ
là dụng cụ của
nghiệp lực nhân quả để nó sai bảo.
Nếu một người
có trí tuệ thì nhận ra ngay được điều
này tức là nhận ra được thân
tâm chúng ta là tên nô lệ của
nhân quả, nó sai thân tâm này làm gì thì thân tâm phải làm theo.
Ví dụ: Nghiệp
nhân quả muốn
chúng ta
‚đi ngủ‛ là
thân tâm làm theo ‚đi ngủ‛; muốn chúng
ta “đi ăn”
là thân tâm
làm theo ‚đi ăn‛;
muốn chúng ta
‚sân giận‛ là
thân tâm làm theo ‚sân giận‛; muốn
chúng ta ‚phiền não‛ là thân tâm làm theo ‚phiền não‛; muốn
chúng ta bệnh
đau là thân tâm làm theo ‚bệnh đau‛, v.v..
Ví dụ 1:
nghiệp lực nhân quả sai bảo thân
tâm muốn
cái nhà, thì thân
tâm sanh ra ham muốn cái nhà.
Ví dụ 2:
Khi có người chê
hay mạ lị mạt sát
thì nghiệp lựïc bảo phải sân giận, căm tức,
thù ghét, tức tối thì ngay đó thân tâm làm theo: sân giận, căm tức, thù ghét, tức
tối, v.v..
Ví dụ
3: Khi thấy
người khác phái
thì nghiệp lực sai bảo thân tâm ưa thích người này không ưa thích người
kia thì thân tâm cũng làm
theo.
Ví dụ 4: Khi
thấy tiền vàng ngọc ngà châu báu, nghiệp lực sai bảo thân tâm ưa thích muốn
có những
vật sang đẹp và
tiền bạc nhiều
thì thân tâm làm theo.
Như vậy,
thân tâm chúng ta là
tên nô lệ của nghiệp lực nhân quả, chứ thân tâm có
cái gì của ta đâu. Các bạn cứ nhận xét có đúng vậy không?
Thưa các bạn!
Do những ví dụ trên đây các bạn đã nhận
ra: sắc, thọï, tưởng,
hành, thức, (thân tâm) là của
nghiệp lực nhân quả, chứ các bạn chẳng có gì gọi là thân tâm của các bạn cả. Nếu là
thân tâm của
các bạn thì các bạn phải
có quyền với
nó, bảo sao nó phải nghe theo vậy. Thân các bạn đau bệnh, các bạn bảo nó đừng
có đau bệnh, nó có nghe theo các bạn không? Tâm các bạn giận hờn,
các bạn bảo
nó đứng giận hờn, nó có nghe theo các bạn không?
Qua những
lời dạy trên
đây các bạn có
hiểu không? Các bạn có biết mình từ lâu đã
hiểu lầm lạc không? Lâu nay các bạn nghĩ rằng thân tâm này là của các bạn. Nếu
quả thân tâm của các bạn sao các bạn điều khiển nó không được, mà để cho nghiệp
điều khiển nó vậy.
Chúng tôi
xin nhắc lại một lần nữa, các bạn
có bao giờ muốn mình
tức giận không? Chắc
là không, phải
không các bạn?
Nhưng thân tâm các bạn có
nghe các bạn đâu. Khi có người chửi mắng các bạn thì các bạn tức
giận liền. Như vậy thân tâm của các bạn không phải của các bạn. Có đúng như vậy
không?
Các bạn có
bao giờ muốn thân của các bạn bệnh
không? Thế sao nó
bệnh các bạn bảo
nó không bệnh, nó
đâu có nghe
các bạn như trên đã nói. Có phải vậy không?
Các bạn có
bao giờ muốn thân các bạn chết không? Chắc là
không, phải không
các bạn? Thế sao khi thân tâm các
bạn chết, các bạn bảo nó đừng chết, nó có nghe các bạn không?
Như vậy
thân tâm không
phải là của
các bạn thì vật chất xung quanh
các bạn như nhà cửa, tiền bạc, của cải, xe cộ làm sao của
các bạn được.
Khi các bạn
chết, các bạn có mang theo những vật gì yêu quý nhất của các bạn không.
Ngay cả
vợ con các bạn,
các bạn cũng
không mang theo được. Ngày xưa Trang Tử người nước Trung Hoa nói: ‚Vợ chết trước
là vợ mình‛. Lời
nói này chỉ
đúng một phần
nhỏ trong thời gian hiện tại mà thôi, chứ thời gian quá
khứ và tương lai thì vợ con ta có phải còn là của ta nữa không? Nhà cửa, của cải,
tiền bạc ngày nay ta làm ra nó nhưng nó không phải của ta, vì ta có mang theo
được vật gì đâu khi ta chết. Phải không các bạn?
Vì thấy
như thật, đức Phật đã
xác định:
‚Sắc, thọ,
tưởng, hành, thức, không phải là ta,
không phải là của
ta, không phải là bản ngã của ta‛. Khi nghe lời dạy này chú bé La Hầu La tỉnh
ngộ ngay liền: thân tâm này và tất cả các pháp trên thế gian không có gì là ta,
là của ta, là bản ngã của ta thì còn gì mà tham đắm. Nên ngay cả lúc bụng đói
đi xin ăn, chú bé La Hầu La
đã giác ngộ
được điều này nên không
còn tha thiết
ăn uống nữa
mà xin đức Phật trở về thất tu tập.
Đây chúng
ta nghe tiếp
đoạn kinh kế:
‚Rồi tôn giả La Hầu
La tự nghĩ. Ai có thể
hôm nay được Thế Tôn trực tiếp giảng dạy với bài giáo giới này mà còn có thể đi
vào làng khất thực?‛.
Chú bé
La Hầu La tuổi trẻ,
bé thơ có sự
hiểu biết không thua
người lớn và suy nghĩ
rất chín chắn. Cái hay nhất của chú là dám nghĩ, dám làm, dù cho người lớn cũng không thể nào sánh kịp. Khi chúng ta đọc
đoạn kinh này mới thấy La Hầu La trí
tuệ tuyệt vời.
Có phải vậy không các bạn?
Cứ thử
nghĩ xem và so
sánh bạn
với La Hầu La thì bạn đâu phải
không nghe những lời Phật dạy này.
Có thể nói rằng bạn
đã từng nghe lời dạy này quá nhiều
trong các kinh sách Nguyên Thủy, nhưng
các bạn có
dám bỏ ăn uống
như chú bé
La Hầu La
không? Khi biết thân tâm
này và các
pháp không có vật gì là của
ta, là ta,
là bản ngã của ta,
thì chú bé La Hầu La không còn tha thiết đến ăn uống và
vui đùa với những cái không phải của mình,
không phải là mình nữa; vì
không phải của
mình mà có cố bảo vệ giữ gìn
thì cuối cùng cũng
không phải là của mình được. Khi
hiểu thật rõ như vậy nhưng ai dám
làm như La Hầu La, một
chú bé
miệng
còn hôi
sữa mà dám cả gan bỏ
ăn lo tu tập thì thật là vĩ đại.
Lời dạy này
rõ ràng như vậy, thế mới thấy mọi người đang sống trên hành tinh này thật là
điên đảo, vô
minh. Cái không
phải của mình mà cứ cho là của mình, là mình,
là bản ngã của mình. Từ chỗ hiểu sai lầm chấp đó đã đưa loài người vào
con đường ác, con đường tội lỗi, con đường
đau khổ bất tận.
Vì lầm chấp
như vậy đến khi chết
mất rồi, tứ đại trả về cho tứ
đại, mà vẫn còn cho rằng: ‚Sau khi chết còn có sự sống, tức
là còn có
linh hồn‛. Ôi! Thật là vô minh, sống
trong điên đảo tưởng ‚sau khi chết còn có những gì?‛. Trí tuệ không sáng suốt,
sống trong ảo tưởng nên điên dại, hễ có người chết thì đi rước mấy ông thầy
cúng đến tụng niệm, cầu siêu
cho linh hồn tiêu diêu
nơi miền Cực Lạc. Thật là một việc
làm nhảm nhí, mù quáng, ngu ngốc, tốn công, tốn của mà còn bị người trí chê cười
là mê tín, lạc hậu, v.v..
Khi thấu hiểu
thân ngũ uẩn
này không phải của
ta, không phải
là ta, không
phải là bản ngã của ta, nên ngay
khi đang đi khất thực với đức Phật và được nghe một bài pháp tuyệt vời, La Hầu
La từ biệt đức Phật trở về thất của mình,
ngồi xuống dưới một gốc
cây, kiết già lưng thẳng, an trú niệm trước mặt, để quán xét
thân hành, ý
hành, khẩu hành và lý vô ngã mà đức Phật vừa dạy xong, để cho thấm nhuần.
Thưa các bạn! Các bạn còn nhớ lại
bài kinh đầu tiên Giáo
Giới La Hầu
La mà đức Phật
đã dạy cách
thức tu tập phản tỉnh
giới thân hành, giới khẩu hành và giới ý hành.
Do bài giáo
giới đầu tiên
đó mà chúng
ta biết chắc La Hầu La an trú niệm trước mặt là niệm thân hành nghiệp,
khẩu hành nghiệp và ý hành nghiệp.
Ai cũng
biết bài Giáo
Giới La Hầu
La ở rừng Am
Bà La là dạy ba giới
hành rất tuyệt vời. Nhờ bài pháp phản tỉnh thân hành
nghiệp, khẩu hành nghiệp và
ý hành nghiệp, nên
tâm La Hầu La
đã ly dục
ly ác pháp
khá nhiều, có phần
thanh tịnh. Đến
khi được đức Phật dạy kinh Đại Giáo Giới La Hầu La thì Ngài ngộ
rất nhanh: ‚Các pháp trong thân, ngoài
thân, đâu có pháp
nào là của
mình, là mình, là bản ngã của mình như
vậy còn tham
lam, ham muốn giàu sang, danh lợi
cho ai? Ăn uống, ngủ nghỉ
cho ai? Giận hờn,
ganh tị cho ai? Phiền
não khổ đau, lo rầu cho ai? Vui
chơi, dục lạc cho ai, v.v..‛.
La Hầu
La hiểu rõ vấn đề
này rất quan trọng
nên không chần
chừ mà hãy
lo tu tập
ngăn và diệt
những thân hành nghiệp ác, khẩu hành
nghiệp ác, ý
hành nghiệp ác để tâm
ly dục ly ác pháp hoàn toàn.
Lúc bấy giờ
La Hầu La an trú thân hành nghiệp, khẩu hành
nghiệp và ý
hành nghiệp, khi nghiệp nào khởi ra thì Ngài
tư duy phản tỉnh
ngăn và diệt, không
cho ác pháp
xâm chiếm vào thân,
tâm của Ngài
và Ngài tu tập
như vậy từ ngày này đến ngày khác. Tất cả các thân hành nghiệp ác, khẩu hành
nghiệp ác, ý hành nghiệp ác không còn nữa. Nhưng không phải tất cả thân hành
nghiệp ác, khẩu hành nghiệp ác, hay ý
hành nghiệp ác nào
cũng chế ngự và đuổi đi một cách
dễ dàng được.
Thưa các bạn!
Các bạn có hiểu thân hành nghiệp, khẩu hành nghiệp và ý hành nghiệp là gì chưa?
- Thân hành
nghiệp là thân làm một việc gì, khẩu hành nghiệp là miệng nói một việc gì, ý hành nghiệp là ý suy nghĩ một điều
gì.
- Các bạn
có hiểu nghĩa an trú niệm trước mặt là
làm như thế nào chưa?
- An trú niệm trước
mặt có nghĩa
là đặt một đề tài, rồi ở trên đề
tài đó say mê quán xét và tư duy.
Ví dụ: Ta
xét thấy trong một ngày vừa qua, thân
hành nghiệp nào của ta
đã tự làm khổ
mình, khổ người thì ta đặt thân nghiệp ấy
ra tư duy suy nghĩ, để rồi ta kết luận
thân hành nghiệp mà ta đã làm là hành động do thân ta làm khổ
ta, khổ người
và khổ cả
hai. Hành động như vậy nhất định
dù có
chết ta cũng không làm.
Khẩu hành
nghiệp, ý hành nghiệp ta cũng đưa ra đặt niệm trước mặt và tư duy như vậy, từ
đó ta rút ra những kinh nghiệm của các thân hành nghiệp trong hiện tại, ta
không để xảy ra thân, khẩu, ý hành nghiệp tự hại, hại người và hại cả
hai nữa. Và chính
sự tu tập như vậy gọi là
“giới hành tam nghiệp‛. Có
tu tập giới hành tam nghiệp như vậy thì Mười Giới Đức
Thánh Sa Di không
hề vi phạm. Bởi
vì Mười Giới Đức
Thánh Sa Di vi phạm
đều phải do từ thân hành,
khẩu hành, ý
hành; ngoài thân hành,
ý hành, khẩu
hành ra thì không có nơi
vào vi phạm giới luật cả.
Muốn giữ
gìn Mười Giới Đức
Thánh Sa Di nghiêm chỉnh
thì chỉ có sự phản
tỉnh thân hành, khẩu hành,
ý hành như đức Phật
đã dạy La Hầu La.
Sự phản tỉnh
ấy là trực hạnh, chánh hạnh, thắng hạnh của Thầy Sa Di.
Trực hạnh, chánh
hạnh, thắng
hạnh của Thầy Sa Di hoàn mãn là
Thánh Đức của
người tu sĩ Phật giáo.
Ở bài
kinh Tiểu Giáo Giới
La Hầu La ở rừng Am Bà
La này chỉ dạy cho chúng
ta thấy một giới cấm trong giới bổn
là giới không nói vọng ngữ, một giới cấm
này là đại diện cho mười giới cấm Sa Di như đã nói ở trên. Muốn
không phạm giới nói vọng ngữ hay không phạm mười giới Sa Di thì phải phản tỉnh thân, khẩu, ý hành
nghiệp tức là
phải sống trực
hạnh, chánh hạnh, thắng
hạnh trên thân,
miệng, ý của mình.
Chính trên
thân, khẩu, ý hành đúng trực hạnh, chánh hạnh, thắng hạnh thì không bao giờ làm khổ mình,
khổ người và khổ chúng sanh.
Xá Lợi
Phất, bổn sư của La Hầu La, thường
hay để ý đến đệ tử của
mình. Từ hơn mấy tháng nay ngày nào cũng thấy La Hầu Lạ
thường ngồi dưới tán
cây, kiết già, lưng
thẳng, an trú niệm trước mặt.
Xá Lợi Phất
biết rằng nhân
duyên đệ tử của
mình đã đến lúc
chín mùi như trái
cây. Vì thế, Ngài đến trước
La Hầu La
và bảo rằng:
‚Này La Hầu
La, hãy tu tập sự tu tập nhập
tức niệm xuất
tức niệm (niệm hơi thở vô
hơi thở
ra). Này La Hầu La tu tập niệm hơi thở vô
hơi thở ra
làm cho sung mãn, được quả lớn,
được lợi ích‛.
Sau khi được
Thầy bổn sư dạy như vậy, La Hầu La mới lưu ý và trực nhận ra khi đạt được niệm
thân hành nghiệp, khẩu hành nghiệp và ý hành nghiệp không còn trong ác pháp hại
mình hại người và hại cả
hai thì thân tâm
thanh thản, an lạc
và vô sự.
Khi tâm được ở
trong trạng thái ấy thì tâm lại biết rõ hơi thở vô, hơi thở ra nhẹ nhàng
và thông suốt.
Thường thấy
hơi thở vô ra
như vậy nhưng La Hầu
La đâu có để ý, đến khi Thầy
Bổn Sư dạy: ‚Hãy
tu tập niệm hơi thở vô
hơi thở ra...‛, thì Ngài rất ngạc nhiên, vì thường ngày tu hành chánh kiến, chánh tư duy trên
thân hành, khẩu hành, ý hành thì đã thấy hơi thở vô ra như vậy. Còn
bây giờ lại bảo hãy
tu tập hơi thở vô ra. Vậy tu tập hơi thở vô ra như
thế nào?
Câu hỏi ấy
luôn luôn ám ảnh trong đầu La Hầu La mà
không có câu
đáp. Sau bao ngày tư duy không
tìm ra đáp án. Ngài
nghĩ đến Đức Thế Tôn sẽ giải đáp được câu hỏi này.
GIỚI
HÀNH THỨ SÁU:
ĐỊA GIỚI
HÀNH
Bắt đầu học,
tu tập và muốn đạt được một đời sống ĐỊA GIỚI
HÀNH nghiêm chỉnh thì phải thông
hiểu: giới đức,
giới hạnh và giới
hành. Vậy giới đức, giới hạnh
và giới hành của địa giới hành là
gì?
Giới đức địa
giới hành là những lời dạy
đạo đức về đời sống của con người tức là
Chánh Nghiệp.
Giới hạnh địa
giới hành là những lời dạy
về Phạm hạnh tức
là oai nghi tế hạnh
thường thể hiện qua những hành động như đất khi nói, nín, tiếp
giao với mọi
người, v.v.. Những
oai nghi tế hạnh
như vậy được
gọi là Chánh nghiệp.
Địa giới
hành nghĩa là gì?
Địa giới hành
có nghĩa là
hành động như đất. Người tu theo
Phật phải giữ
gìn tâm mình như đất. Chúng ta
hãy lắng nghe đức Phật dạy La Hầu La giữ
gìn tâm như đất:
‚Vào một buổi chiều sau khi từ
thiền định đứng dậy đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi
đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên. Tôn giả La Hầu
La bạch Thế Tôn:
‚Bạch Thế
Tôn! niệm hơi thở ra
hơi thở vô được tu tập
như
thế nào? Làm
cho sung mãn như thế nào để được
quả lớn, lợi ích lớn?‛.
Trong khi
được hỏi như
vậy đức Phật không trực tiếp trả lời về hơi thở mà lại
trả lời nghe như không ăn nhập gì với câu hỏi. Nếu các bạn không bền lòng, bền chí ngồi nghe hết bài pháp
thì chắc chắn các bạn sẽ
không hiểu bài pháp này chút nào cả. Vì bài pháp này có
nhiều giới chứ không phải
có một giới đất
không, mà hơi thở
ra, vô cũng là một giới
hành đấy các bạn ạ!
Địa Giới Hành Đức Thánh
Sa Di. Muốn thực hiện
địa giới hành
đức Thánh Tăng, Thánh Ni, Thánh Sa Di thì phải thực hiện theo những lời
dạy dưới đây:
‚Này La Hầu
La cái gì thuộc về nội thân, thuộc về cá nhân, kiên cứng thô phù, bị chấp thủ
như tóc, lông,
móng, răng, da thịt, gân, xương,
tuỷ, thận, tim, gan, hoành cách mô,
lá lách, ruột,
màng ruột, bao tử,
phân và bất
cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc
cá nhân như vậy, này
La Hầu La được
gọi là nội địa giới,
những gì thuộc nội địa giới và những
gì thuộc địa ngoại giới đều thuộc về địa giới. Địa giới ấy phải được quán sát
như thật với chánh trí tuệ như sau: ‚Cái
này không phải là của ta, cái
này không phải là
ta, cái này
không phải là tự
ngã của ta‛, sau khi
thật quán sát địa giới với
chánh trí tuệ như vậy thì con sẽ
sanh yểm ly đối với địa giới, tâm
từ bỏ địa giới‛.
Qua những lời dạy của
đức Phật trên
đây, chúng ta nhận
xét về lời dạy
này đâu có
liên quan đến hơi thở vô, hơi thở ra phải không các
bạn?
Thưa các bạn! Các bạn nên đọc lại đoạn
kinh dưới đây thì rõ:
‚Này các Tỳ
Kheo, nếu các Tỳ Kheo
muốn rằng các niệm tư
duy được đoạn tận thì định niệm hơi thở vô hơi thở ra
này phải được
khéo tác ý‛. Các bạn
hiểu rõ lời dạy này chứ.
Theo lời dạy
trên đây chúng
ta cần phải nương theo hơi thở vô
và hơi thở ra
để tu
tập giới đất, nhờ nương theo
hơi thở vô
và hơi thở ra nên tâm ta được an trú và tĩnh lặng;
khi tâm
được an trú
và tĩnh lặng
thì ta đưa đề tài địa
giới quán sát với chánh trí tuệ của mình.
Vì thế ông Xá Lợi Phất
khi thấy La Hầu
La chuyên tâm tu tập nên cố ý nhắc khéo:
‚Này La Hầu La hãy tu
tập niệm hơi thở
vô, hơi thở
ra, làm cho sung mãn được quả lớn, được lợi ích lớn‛.
Do lời nhắc
khéo này, nên La Hầu La đến thưa hỏi Phật.
Và bây giờ
chúng ta mới có
những bài giới hành để học và tu tập với pháp môn hơi thở.
Theo những đề
tài tu tập nào cũng phải nương vào hơi thở vô và hơi thở ra thì ta mới có đề
tài quán tác ý theo hơi thở tu tập theo Giới hành.
Ví dụ: Khi
ta quan sát địa giới, không phải là của ta,
là ta, là bản ngã của ta thì
chúng ta không cần
quan sát nữa mà cứ theo định
niệm hơi thở này khéo tác ý như lời dạy trong kinh.
Chúng tôi
cho một ví dụ để các bạn tu tập sau khi
quán sát một pháp nào như thật với chánh trí tuệ. Ví như có một người cha vừa mới
mất khiến tâm
ta đau khổ, nhớ
thương, ta nên đưa đề
tài này ra quán xét và tư duy: ‚Thân tứ đại của cha ta là do duyên hợp,
nó là dụng cụ của nhân quả chứ nó đâu
phải là thân
của cha
ta, cớ sao ta
lại ngu si
như vậy, lầm chấp nó là thân của cha ta, lại đi khóc cái thân nô
lệ của nhân
quả, có ích lợi gì cho ta,
cho mọi người‛. Đó
là cách thức
tư duy quán xét dùng tri kiến để xả
tâm ly dục ly ác pháp.
Còn quán thân
này ‚không phải
là ta, là của
ta, là bản ngã của ta hít
vô tôi biết tôi hít vô,
thở ra tôi biết tôi thở ra‛ đó là
phương pháp thực hành vô ngã của địa giới hành
mà ông Xá Lợi Phất
khéo nhắc nhở La
Hầu La đấy các bạn ạ!
Xin nhắc
lại câu trên:
‚địa giới này không phải là của ta,
không phải là ta, không phải bản
ngã của ta,
hít vô tôi biết
tôi hít vô, thở ra tôi biết
tôi thở ra‛. Đây là câu Trạch Pháp Giác Chi dùng để tác ý kết hợp với hơi thở, biến thành một
pháp môn độc đáo tuyệt vời. Chúng
ta cứ theo
câu tác ý
này và nương vào
hơi thở vô,
hơi thở ra khéo
tu tập như vậy
thì kết quả sẽ
mang đến vô
ngã như thật. Trên đây là địa giới
hành thứ sáu tu tập tâm vô ngã các bạn nên ghi nhớ.
à
GIỚI
HÀNH THỨ BÂY :
THỦY GIỚI
HÀNH
Bắt đầu học,
tu tập và muốn đạt được một đời sống
THỦY GIỚI HÀNH
nghiêm chỉnh thì phải thông
hiểu: giới đức, giới hạnh
và giới hành của
nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới
hành của thủy
giới là gì?
Giới đức thủy giới
hành là những
lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh
nghiệp.
Giới hạnh thủy
giới hành là những lời dạy về Phạm hạnh tức
là oai nghi tế hạnh
thường thể hiện qua thủy
giới hành như: nói,
nín, tiếp giao với mọi người,
v.v.. Những oai
nghi tế hạnh như vậy được gọi là
Chánh nghiệp.
Muốn tu tập thủy
giới được nghiêm chỉnh không có vi phạm và kết quả giải thoát
rõ ràng thì chúng ta hãy nghe đức Phật dạy La Hầu La:
‚Này La Hầu
La, thế nào là thủy
giới? Có nội thủy giới, có ngoại
thủy giới. Và này La Hầu La thế
nào là nội thủy giới? Cái gì
thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc
nước
thuộc chất lỏng,
bị chấp thủ
như: Mật, đàm, niêm dịch,
mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ
da, nước miếng, nước
mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu
và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân,
thuộc cá nhân, thuộc chất lỏng, bị chấp
thủ như
vậy, này La Hầu La, được gọi là thủy giới. Những gì thuộc nội
thủy giới. Và
những gì thuộc ngoại
thủy đều thuộc
về thủy giới,
thủy giới ấy phải
được quán sát như thật với chánh trí tuệ như sau: ‚cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái
này không phải tự
ngã của ta‛.
Sau khi như thật quan sát thủy
giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sinh yểm ly đối với thủy giới, tâm
từ bỏ thủy giới‛.
Với thủy giới
chúng ta tu tập cũng như địa giới vậy,
nghĩa là chúng
ta phải nương vào
hơi thở vô ra mà
tác ý: “Máu, mủ, đờm và những chất lỏng trong thân ta không phải của ta, không phải là
ta, không phải bản ngã của, ta phải từ bỏ yểm ly xa lìa đừng dính mắc; hít
vô tôi biết tôi hít
vô, thở ra tôi biết
tôi thở ra‛. Các bạn phải
nhớ tu tập
câu này thường xuyên,
chừng nào thấy
tâm yểm ly nhàm
chán thật sự,
có nghĩa là
nhàm chán ăn
Văn hóa Phật
giáo truyền thống – tập 1
uống, ngủ
nghỉ phi thời tức là không còn dính mắc vào ăn ngon, ăn nhiều bữa; mặc đẹp, mặc
sang nữa. Đó là đã ly dục tham.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!