Ngài không
chấp nhận dòng giống, tướng tốt, tụng niệm và chú thuật, vì thế giới luật của
Ngài cấm tu sĩ ca hát và nghe ca hát tức là cấm tụng niệm ê, a giọng cao giọng thấp.
Trong đạo Phật
chỉ có tri kiến (trí tuệ) và giới
luật mới giúp
cho đệ tử của
Người thật sự giải thoát mọi khổ ách.
Hôm nay quý
Thầy tụng kinh, niệm chú, niệm Phật, chúng tôi nghĩ rằng đây không phải là đường lối của Phật giáo mà là một nghề tụng niệm của
Bà La Môn ngày xưa để trao đổi kiếm sống với
tín đồ, khi những vị
Bà La Môn
này còn tuổi trẻ,
thì lấy nghề tụng
niệm mà kiếm sống,
đến khi già các vị này
chuyên tu nên không còn tụng niệm nữa.
Đức Phật xưa
xuất gia tu hành cũng theo Đạo Bà La
Môn, nhưng không
tìm thấy sự giải thoát trong đạo
này, nên Ngài
phải tự vạch
ra cho mình một lối
đi. Những gì của
đạo Bà La Môn đúng
có sự tu tập giải
thoát chân thật thì Ngài chấp nhận, còn những gì tu tập không
giải thoát thì Ngài loại trừ bỏ ra.
Năm điều
kiện để trở thành
một Bà La Môn, Ngài chỉ chấp nhận hai điều kiện, còn ba điều kiện Ngài
loại bỏ như ở
trên chúng tôi đã
nói. Như
vậy chúng ta thấy rất
rõ đức Phật không chấp nhận 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp,
chỉ có
các nhà Đại Thừa
thường ca ngợi 32 tướng tốt
80 vẻ đẹp của
đức Phật. Rõ ràng như thế đây là Bà La Môn mạo danh Phật giáo. Xin Quý vị cứ suy ngẫm có đúng: “Kinh sách
Phát triển chính là kinh
sách của Bà La Môn?”.
Nghề chân
chính trong đạo Phật đó là
nghề đi xin ăn (Chánh Nghiệp), còn nghề tụng kinh, niệm chú, cầu an, cầu siêu,
cúng vong, tiễn linh, cúng
sao, giải hạn, làm tuần, làm tự
v.v.. là
tà nghiệp, đức Phật
không chấp nhận. Bài
kinh Sonadanda đã nói
lên tinh thần bài bác những pháp môn tụng niệm cầu cúng
không lợi ích cho đời sống mà
còn gây cho tín đồ
mê tín và lạc hậu.
Một vị Thánh
Tăng ngồi tụng niệm ê, a giọng cao, giọng
thấp theo nhịp tiếng
chuông, tiếng mõ giống
như đờn ca xướng
hát, ngâm vịnh thì oai nghi tế hạnh
này làm sao gọi là Thánh hạnh của bậc Thánh Tăng được.
Một vị Thánh
Tăng là phải sống trọn vẹn đầy đủ đức hạnh trầm lặng. Đức hạnh trầm lặng mới nói lên được oai nghi tế hạnh của
một bậc Thánh Tăng.
Vì trạng thái sống
trầm lặng ấy mới được gọi là sự sống
của bậc Thánh; còn ngược lại ngồi tụng niệm
ê, a như ca hát
hoặc nghe tụng niệm, nghe ca hát
thì các bạn nghĩ sao? Lúc bấây
giờ tâm hồn trầm lặng
có còn
không? Một vị Thánh
Tăng là phải sống trọn trong
trạng thái trầm lặng mới được gọi là
Thánh Tăng.
Thánh Đức Trầm
Lặng giúp cho chúng ta trở về sống với nội
tâm của mình.
Sống trở về nội tâm của mình là một đức hạnh tuyệt vời, vì nó là đức hạnh
không làm khổ mình, khổ người.
Do sự lợi
ích này
đức Phật cấm
các Tỳ
Kheo không
được nghe ca hát và tự ca hát.
Một vị Thánh
Tăng ngồi nghe ca hát hoặc tự mình ca
hát dù là bài ca loại nào cho đến những bài tán tụng những câu kinh tiếng kệ
cũng đều
thuộc loại ca hát.
Nên trong kinh Sa Môn Quả, kinh Sonadanda đức Phật đều không chấp nhận những lối tán tụng, niệm Phật
ê, a.
Gần đây có một
số tu sĩ và cư sĩ không thông hiểu đạo Phật, họ bắt chước
theo đạo Thiên Chúa soạn nhạc
Phật để sách tấn Tăng Ni tu học. Đó là một việc làm trái với mục
đích của Phật giáo. Phật giáo chấp nhận sống trầm lặng độc cư, nên đức Phật thường
nhắc nhở Tăng, Ni phải sống độc cư như con tê ngưu một sừng.
Đạo Phật là
đạo tự lực cứu mình ra khỏi sông mê biển
khổ của kiếp người
thì Thánh
hạnh trầm lặng
rất cần thiết cho sự sống về nội tâm của người tu giải thoát.
Người tu
theo đạo Phật mà không giữ được Thánh hạnh này
thì rất khó tìm sự
làm chủ sanh, già, bệnh, chết và
chấm dứt tái sinh luân hồi.
Còn ca hát
và nghe ca hát là còn
tâm dục của thế gian,
giọng ca tiếng hát của mình,
của người là thực
phẩm nuôi dưỡng
tâm dục. Còn nuôi
dưỡng tâm dục
thì làm sao ly dục
ly ác pháp được.
Đạo Phật mà
còn có những bài kinh, tán tụng giọng thấp, giọng
cao ngâm vịnh hát hò thì có khác chi là ngoại đạo Bà La Môn.
Người ta
không biết cho rằng
những bài kinh tán tụng
ê, a giọng cao thấp là ca
nhạc đạo. Đối với đạo Phật thì không có ca nhạc đạo, mà chỉ
có sự sống
trầm lặng để trở về với nội tâm thanh thản, an lạc và vô sự của mình.
Thánh Đức Trầm
Lặng giúp chúng ta sống về nội tâm của mình,
nhờ thế mà
ta nhận ra được mỗi
tâm niệm ác
và thiện nên
ta sẽ diệt ác và tăng trưởng thiện một cách dễ
dàng, nếu không nhờ đức hạnh trầm lặng thì ta
rất khó nhận ra được cái
tâm xảo trá của chính
chúng ta, nên rất khó ly dục ly ác pháp cho thật sạch.
Đức Thánh Trầm
Lặng là một Thánh hạnh tuyệt vời mà
cũng là một
pháp hành vi diệu giúp chúng ta ngăn và diệt ác pháp tận
gốc.
Cho nên GIỚI
KHÔNG NGHE CA HÁT VÀ TỰ CA HÁT thì chỉ
có trong đạo Phật mới có Thánh hạnh này. Thánh hạnh này rất xứng đáng là hạnh của
một bậc Thánh Tăng.
Tóm lại, người
tu sĩ Phật giáo nghe ca hát và tự ca hát là không phải tu sĩ Phật giáo đó là tu sĩ của Bà La Môn.
Để xác định
cho rõ ràng, người
tu sĩ Phật giáo
nghe ca hát và tự ca
hát (tụng niệm
cúng tế cầu khấn...)
là không phải
Thánh Tăng, Thánh Ni và
Thánh cư sĩ mà
là Ma Ba Tuần
đội lốt
Phật giáo để
phá hoại Phật
giáo. Xin quý Phật tử nên
lưu ý và để tránh
xa những loại tu sĩ này.
à
ĐỨC HẠNH
SA DI
Đức hạnh Sa
Di là phải lấy gốc cây làm giường nằm, lấy nghĩa địa làm nhà ở. Đó là tập hạnh buông xả, ly dục ly ác
pháp.
GIỚI
Đ ỨC SA
DI THỨ TÁM
:
KHƠNG NẰM GIƯỜNG
CAO RỘNG LỚN
Không nằm
giường cao rộng lớn là một ĐỨC
THANH BẦN. Người
xuất gia cũng
như những người tại
gia cần phải học hiểu và sống
cho đúng đức hạnh
thì mới xứng đáng
là đệ tử
của Phật.
Nằm giường
cao rộng lớn không
đúng oai nghi tế hạnh, không đúng
tư cách của một tu sĩ Phật giáo. Vì nằm giường
cao rộng lớn, gỗ quí
giá có
nghĩa là một
tu sĩ giàu
sang, trái ngược với hạnh thanh bần
của một tu sĩ Phật giáo.
Người tu sĩ
Phật giáo nằm giường cao rộng lớn thường ngủ thiếu tỉnh giác, lăn lộn dễ dàng, nằm sấp, nằm ngửa, nằm nghiêng, quay
lộn tứ hướng, v.v.. nằm ngủ như vậy có
đúng Thánh hạnh của một vị
Thánh Tăng không? Thưa quý bạn?.
Các bạn
nghĩ sao, với tư
cách một tu sĩ
nằm ngủ như vậy, các bạn có chấp nhận không?
Một tu
sĩ Phật giáo nằm giường
cao rộng lớn sang đẹp, mền êm nệm ấm là đã phá hạnh thanh bần của một vị Thánh
Tăng ‚xả phú cầu bần…‛.
Giới cấm
không nằm giường
cao rộng lớn là giới cấm giữ
gìn oai nghi tế hạnh
khi nằm ngủ của một bậc Thánh Tăng cho đúng Thánh hạnh tu hành giải
thoát.
Thánh hạnh
thanh bần của một vị tu sĩ Phật
giáo là đúng
nghĩa giải thoát
của nó, nếu ai sống ngược lại thì không đúng nghĩa.
Xưa đức
Phật Thích Ca
Mâu Ni từ bỏ
những thứ sang
giàu để chấp
nhận một đời sống, lấy gốc cây làm giường nằm. Đó là một
Thánh hạnh thanh
bần giải thoát
những vật chất thế gian của đức
Phật rất là tuyệt vời mà chúng ta cần phải noi gương. Chúng ta là những tu sĩ Phật giáo
hiện thời mà sao
lại quên
đi gương hạnh giải thoát
cao quý này? Lại nỡ để tâm
tham đắm giường
cao rộng lớn, để cho
đời mỉa mai Phật
giáo, thật là
đau lòng. Phải không các bạn?
Nếu đã
đi tu theo
Phật giáo thì phải
làm tròn bổn phận đạo đức
Thánh hạnh của
người tu sĩ Phật
giáo, có nghĩa
là giới luật
phải nghiêm chỉnh. Thà
không đi tu thì
thôi, chứ
đừng đi tu
mà vi phạm giới luật thì xấu hổ lắm các bạn ạ! Nếu đi tu phạm giới thì cởi áo
cà sa trả lại cho chùa,
đừng để mọi
người mỉa mai Phật giáo. Đó là trách nhiệm và bổn phận
của người tu sĩ Phật giáo.
Là một
du Tăng khất
sĩ làm sao mang theo
giường cao rộng lớn được,
vì đời sống của họ
phải rày đây,
mai đó, nay ở
chỗ này mai ở
chỗ kia. Chủ
trương của đạo Phật cũng
như gương hạnh của đức Phật chúng
ta là hàng đệ
tử của Người, không thể nào chối bỏ hạnh du Tăng khất sĩ được.
Chỉ có trụ thế
Tăng đời sống ở một
chỗ nên mới có giường cao rộng
lớn. Vì thế tất cả những
tu sĩ trụ thế Tăng đều
phạm giới, phá giới,
không những giới
luật này mà
còn nhiều giới khác nữa.
Chúng ta
xác định chắc
chắn giới
luật Phật bị phá hủy là do phần đông tu sĩ trụ thế Tăng.
Mục đích của đạo Phật là phải tu tập ly dục ly ác pháp. Cho nên, giới luật Phật là
hạnh ly dục ly ác pháp. Trụ thế Tăng vì không biết, không thông
hiểu mục đích
ly dục ly ác pháp của
đạo Phật, nên
luôn luôn phạm
giới, phá giới, bẻ vụn giới,
vì thế vô
tình hay hữu ý mà họ
đi ngược lại đường lối
tu tập của đạo Phật,
tâm luôn
luôn bám chặt vào vật chất thế gian. Cho nên hạnh thiểu dục tri túc, ba y một
bát họ không sao sống được,
giữ gìn được,
do vậy mà chùa to Phật lớn bắt đầu
phát triển mọc
lên như nấm, tốn hao biết bao nhiêu của đàn na thí chủ. Chúng
ta hãy nhìn
khắp trên hành
tinh này, sự tốn hao mồ hôi nước mắt của loài người đã đổ về
cho tôn giáo không biết bao nhiêu mà kể, nhưng tôn giáo đã đem lại những lợi
ích gì thiết thực cho chính họ hay chỉ
là một mơ ước, một hy vọng hão huyền?
Muốn có chùa
to Phật lớn, sống trong danh lợi vật chất đầy đủ thì họ phải làm sao?
Bằng mọi
cách để đạt được mục đích ấy, họ phải đẻ ra pháp môn bùa mê, chú thuật, thần
thông phép thuật,
kêu mưa gọi
gió, sái đậu thành binh, v.v.. Họ còn dựa vào sự mê tín của dân gian
còn lạc hậu, khi dân trí chưa cao, sản xuất
ra pháp cúng bái tụng niệm cầu siêu,
cầu an, cầu tài, cầu lợi, xem sao, bói quẻ, xem ngày giờ tốt xấu cất
nhà, cưới vợ, gả con, v.v..
Bằng mọi
cách để đạt được mục đích họ đẻ ra thế giới
siêu hình bày vẽ cảnh giới Cực
Lạc Tây Phương, Thiên Đàng, địa ngục để
lường gạt những người nhẹ dạ, non
lòng v.v.. Như vậy
cũng chưa đủ, nên bằng mọi
cách họ còn đẻ ra
những pháp
môn thiền tưởng,
thiền xuất hồn,
thiền kiến
tánh thành Phật v.v…
Từ chỗ
tu sai pháp,
phạm giới luật, đánh mất
Thánh hạnh thanh
bần ly dục ly ác
pháp, họ đã làm mất con đường
cứu kính giải
thoát của đạo Phật. Từ chỗ tu hành đã biến họ trở thành người giàu sang,
có chùa to Phật lớn, có vật chất đầy đủ không
thua kém gì người
thế tục. Mang tiếng đi tu chứ họ đâu có tìm thấy sự giải thoát
của thân tâm
mình; họ đâu
có tìm thấy mình
thoát ra khỏi vòng
thế tục ô nhiễm
và nhiều cay đắng, khổ đau.
Giới Thánh
Đức Thanh Bần
đã lập nên
một người tu sĩ đúng nghĩa xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo của Phật giáo. Thế
mà người tu sĩ Phật giáo hiện giờ sống
không đúng giới hạnh, giới đức,
thường vi phạm giới bổn, mà cứ ngỡ tưởng mình
tu đúng pháp,
mình là đệ tử của Phật, nào ngờ cuộc sống của quý vị đã xác
định quý vịï là tu
sĩ ngoại
đạo, sống theo dục lạc thế gian...
“Giới luật
là Thầy của mọi người. Giới luật còn là Phật giáo còn, giới luật mất là Phật giáo mất‛, đó là
lời di chúc sau cùng của đức Phật. Vậy mà tu sĩ Phật giáo hiện giờ phạm giới,
phá giới, bẻ vụn giới, lại còn cho người giữ giới là lỗi thời,
tu như vậy
không chứng đạo.
Những vị thầy ấy
Thánh Hạnh Sa Di chưa giữ trọn thì
làm Thầy thiên
hạ có xứng
đáng không, thưa quý vị?
Giới luật
giúp cho người tu sĩ ly dục ly ác pháp để có được một
tâm hồn thanh
thản, an lạc và vô sự. Với tâm hồn
thanh thản, an lạc và vô sự, đó là trạng thái ly dục ly ác pháp, phải không các
bạn?
Như vậy từng
mỗi giới luật của Phật có ly dục trong mỗi khía cạnh của tâm dục chúng ta.
Giới Đức
thánh Sa Di không
nằm giường cao rộng lớn
là giúp cho người
tu sĩ lìa xa
vật chất thế gian, xa lìa tâm dục thích êm ấm, sang đẹp, xa lìa tâm giàu sang,
sống tâm thanh bần, sống đời đơn giản
tri túc thiểu dục. Người tu sĩ mà còn cần giường
nằm là còn
dính mắc thì làm sao ra khỏi được nhà sanh tử.
Thân tâm của con người
là thân tâm đắm
nhiễm, khi người
tu sĩ xem
thường sự đắm nhiễm thì sẽ bị đắm nhiễm. Ví dụ: ta sống
quen hạnh lấy gốc
cây làm giường
nằm, thì ta nằm ngủ
rất dễ dàng,
còn những người
nằm giường cao rộng lớn
êm đẹp thì quen với
giường cao rộng lớn,
nên khi lấy gốc
cây làm giường
nằm thì ngủ rất khó khăn.
Nếu không
lập hạnh ly dục này
thì sự tu hành chỉ hoài công
vô ích, uổng phí một đời tu
hành.
Giới Đức
Thánh Sa Di không
nằm giường cao rộng lớn có mục
đích tạo cho du Tăng khất sĩ rày
đây mai đó. Cuộc sống rày đây mai đó là
cuộc sống không dính mắc. Giường cao rộng
lớn là một đối tượng không tiện lợi cho đời sống du Tăng khất sĩ.
Giới cấm
này có mục
đích giúp cho
chư Tăng thoát ra khỏi đời sống trụ thế Tăng. Có thoát ra khỏi
đời sống trụ thế Tăng
thì mới mong tìm thấy con đường giải thoát.
Đời sống chư
Tăng khất sĩ thì không có chùa to Phật lớn,
vì không có chùa to
Phật lớn nên đời sống
giải thoát và tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư
không, thật là an ổn và tự tại,
còn có chùa
to Phật lớn
thì không phải là du
Tăng khất sĩ.
Không phải là du Tăng khất sĩ thì đời không thể nào tự tại
vô ngại được.
Những du
Tăng khất sĩ
là những người biết
buông xả, biết
ly dục ly ác
pháp, biết tìm sự giải thoát ra khỏi vùng thế tục nhiều
cay đắng.
Giới không nằm
giường cao rộng lớn, nghe đơn giản
nhưng rất đầy đủ ý
nghĩa giải thoát của
một vị tu sĩ
Phật giáo. Một vị Thánh
Tăng mà còn nằm giường cao rộng lớn, gỗ quý giá thì Thánh hạnh Thánh
Tăng đâu còn nữa. Phải vậy không thưa quý vị?
Một vị tu sĩ
nằm giường cao rộng lớn mền êm, nệm ấm thì đâu còn có Thánh hạnh nữa; họ chỉ là một người
phàm phu tục tử, tâm
còn tham đắm vật chất về ngủ nghỉ; sống giống như một ông
quan, một nhà
vua, một người
giàu sang, v.v..
Giới Đức
Thánh Sa Di Thanh
Bần không cho phép một tu sĩ vi
phạm giới luật này, bởi vì vi phạm giới này thì sao còn được gọi là thanh bần? Đã là Thánh hạnh thanh bần thì
không nên phạm giới này, vì vi phạm giới này Thánh hạnh thanh bần không còn nữa.
Tóm lại, giới đức Thánh Sa Di Thanh
Bần này giúp cho người tu sĩ được tự tại giải thoát ly dục về ngủ
nghỉ về vật chất thế
gian mà người thế tục không thể làm được.
Vậy, hỡi các
bạn tu sĩ Phật giáo, từ chú Sa Di mới vào
tu cho đến những vị Đại Đức, Thượng
Tọa, Hoà Thượng, nên
nghiêm chỉnh giữ gìn giới luật
này thì mới xứng đáng là đệ tử của Phật,
thì mới xứng danh Đại Đức,
Thượng
Tọa, Hoà Thượng;
bằng ngược lại thì nên cởi áo cà sa trả lại cho Phật
giáo, vì Phật giáo
không chấp nhận những người tu sĩ như vậy. Những tu sĩ như vậy
là những tu
sĩ phá hoại
Phật pháp, là Ma Ba Tuần trong Phật
giáo.
Xin quý vị lưu ý:
‚Giới luật còn
là Phật
giáo còn, giới
luật mất là Phật giáo mất‛.
à
GIỚI
Đ ỨC SA
DI THỨ C
HÍN :
KHƠNG ĂN UỐNG
PHI THỜI
Không ăn uống
phi thời là một ĐỨC LY DỤC. Người xuất
gia cũng như những người
tại gia cần phải học.
Giới Thánh Đức
Ly Dục rất cần thiết cho người tu sĩ Phật giáo,
vì thế người
cư sĩ cũng như người tu sĩ khi đến
với Phật giáo phải một lòng cung
kính và
tôn trọng giới
luật này. Nó khởi
sự bắt đầu
xác định cho mọi người
thấy một tu sĩ có phải là một tu sĩ Phật giáo chân chánh hay không chân
chánh?
Nếu một
tu sĩ phạm
giới này thì không phải là tu sĩ
Phật giáo chân chánh. Nếu không phạm
giới này thì đây mới là tu
sĩ chân chánh của đạo Phật.
Nếu ai
không coi trọng
và tôn kính
giới luật này thì người ấy là tu sĩ ngoại đạo.
Ăn uống là sự
tiếp thu tứ đại bên ngoài để nuôi dưỡng tứ đại bên trong của sắc thân tứ đại
chúng ta. Nhưng
ăn uống phải
biết tiết độ, không
biết tiết độ
ăn nhiều quá (bội thực)
cơ thể cũng dễ
sanh ra bệnh tật,
ăn ít quá cũng
vậy. Chỉ có ăn
uống như thế nào để vừa đủ
cho cơ thể không thiếu mà cũng không thừa.
Trong thời
gian tu hành của đức Phật,
Ngài đã rút ra được một kinh nghiệm! Ăn nhiều quá thì thừa
dư chất bổ nên sắc thân
sanh ra sắc dục, thùy miên, hôn
trầm. Sắc dục, thùy miên, hôn trầm
cũng là một
loài dục của
tâm. Cho nên, người ăn nhiều dễ
sanh ra buồn ngủ, lười biếng, dâm
dục; nhưng nếu ăn ít quá thì cơ thể thiếu những
chất bồi dưỡng,
sanh ra yếu đuối, dễ bị bệnh tật và nhiều điều khác nữa.
Từ đời sống
vua chúa ăn uống
quá nhiều đến đời sống khổ hạnh ăn uống quá
ít. Đức Phật đã trải
qua kinh nghiệm cuộc sống của
mình như
vậy, nên Ngài
đã xác định: ăn
ngày một bữa là đủ cho cơ thể
có một sự sống tốt
đẹp.
Thưa
các bạn! Theo kinh nghiêm tu hành của chúng tôi, người tu sĩ làm việc nhiều
hơn người thế tục. Tại sao vậy?
Suốt 24 tiếng
đồng hồ người tu sĩ luôn luôn làm việc không
những bằng trí óc
mà còn lao động bằng tay chân cơ thể, họ có thể đi bộ
từ 5 đến 10 cây số, còn đầu óc làm việc không nghỉ ngơi, làm việc như vậy mà ăn
ngày chỉ có một bữa ăn, thế
mà vẫn khoẻ mạnh, thân
ít bệnh đau.
Người đời
không biết tưởng ăn nhiều là khoẻ mạnh, ăn
nhiều cơ thể
phải làm việc nhiều,
cơ thể tự động làm
việc nhiều thì người mau già, tuổi thọ bị giảm.
Các bạn cứ suy
nghĩ những lời
nói của chúng tôi, đừng có tin
ngay liền. Khi nào tin thì phải chứng nghiệm lời dạy của chúng tôi có kết
quả.
Chúng ta
nên hiểu ngày
ăn một bữa
khi ăn phải tốn
công sức rất
nhiều. Trước khi ăn bạn phải lo nấu nướng, trong khi đang
ăn uống bạn phải nhai nuốt, thực phẩm vào bao tử phải tiêu hoá, sau khi ăn xong
bạn phải rửa bát chén và dọn dẹp.
Nếu ngày ăn
ba bữa, quý bạn phải xét thấy rằng
quý bạn phải
bỏ ra một
người lo nấu nướng
dọn dẹp. Ngày ngày trôi
qua, ngày nào cũng như
ngày nào, việc
ăn uống chiếm
một phần lớn lao trong lao động của các bạn.
Khi bạn ăn
nhiều tâm bạn sinh ra dục, do nhiều dục bạn phải gặt hái lấy biết
bao nhiêu thứ đau khổ cho cuộc đời của bạn. Bạn có biết không?
Vì ăn uống phải
làm việc nhiều
như vậy, nên người
tu theo đạo Phật, chỉ
ăn ngày một bữa.
Vì thế, mà người
ta sống nhàn
nhã vô sự,
thoải mái.
Ngày một bữa giúp cho bạn có nhiều thì giờ ngồi chơi sống một mình. Khi cảm thấy sống một mình được an trú thì lúc bấy giờ thân tâm của bạn
thật là hạnh phúc.
Giới Thánh đức không ăn uống phi thời là để
xác định tu sĩ giả hay tu
sĩ thật như
chúng tôi đã nói ở trên.
Người giả tu,
tâm còn tham dục phần nhiều phải lộ diện về mặt ăn uống phi
thời.
Cho
nên, giới này
là để giúp cho
người cư sĩ dễ nhận xét
người tu sĩ Phật giáo
giữ giới luật đúng hay là sai.
Đúng là những
vị sư Thầy ấy phải ăn ngày một bữa. Sai là những vị Thầy ăn uống phi thời.
Như vậy hiện
giờ quý Thầy tu sĩ Phật giáo như thế nào?
Chắc chắn quý vị đãõ
rõ. Chỉ có một giới không ăn phi thời thì quý vị thấy
rõ sự thật tu sĩ Phật giáo hiện giờ chỉ là những tu sĩ chạy theo dục lạc
ăn, ngủ, danh lợi
chứ không phải ly dục như Phật dạy. Đó
là tu sĩ giả.
Giới Đức
Thánh Sa Di không
ăn uống phi thời giúp cho tu sĩ tám điều lợi ích:
1- Thứ nhất
có nhiều thì giờ tu tập.
2- Thứ hai
tâm ly dục về sự ăn uống.
3- Thứ ba cơ
thể ít bệnh tật.
4- Thư tư ít
buồn ngủ, hôn trầm.
5- Thứ năm xứng
đáng là một tu sĩ Phật giáo sống đời thiểu dục tri túc.
6- Thứ sáu đời sống
vượt hơn người chưa xuất gia.
7- Thứ bảy
cơ thể nghỉ ngơi ít làm việc.
8- Thứ tám
người cư sĩ rất mến phục
và tôn kính.
Muốn nhập
các loại định từ
Sơ thiền đến Tứ thiền và thực hiện
Tam Minh thì người tu sĩ phải ăn ngày một bữa, nếu không ăn một bữa được
thì chẳng bao
giờ nhập được các
loại Thánh định này và cũng không bao giờ thể hiện được Tam Minh.
Như vậy, chúng
ta thấy ăn ngày một bữa thật là quan trọng cho cuộc đời
tu học của chính
mình. Vì thế,
đức Phật dạy:
‚thừa tự
pháp chứ đừng
thừa tự thực phẩm‛. Chúng ta ai cũng biết: ‚Ăn để sống
để tu tập giải
thoát khỏi sanh, già,
bệnh, chết‛. Người quyết
chí tu hành thì chớ
nên ăn uống phi thời.
Người tu sĩ
Phật giáo là người muốn biến cảnh thế gian thành cảnh Cực Lạc, Thiên Đàng. Vì Cực
Lạc, Thiên Đàng là nơi để cho
tâm hồn của mọi người được an lạc, thanh tịnh và vô sự, chứ không phải là nơi sống để ăn uống, ca hát,
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!