30’ mà không
quên hơi thở tức là không có tạp niệm
xen vào thì đó là
các bạn đã
tu tập viên mãn
đề mục thứ nhất. Khi tu
tập viên mãn đề
mục thứ
nhất thì các bạn
nên xin Thầy
kiểm tra hơi thở để xin tu tập đề mục thứ hai.
ĐỀ M Ụ
C THỨ
HA I
2- Hít vô
dài tôi biết tôi hít vô dài; thở ra dài tối biết tôi thở ra dài. Đề mục này có mục đích
là làm giảm
nhẹ nơi tập
trung tâm. Theo Phật giáo không
được tập trung tâm một chỗ, vì tập trung tâm một chỗ rất nguy hiểm có thể làm rối loạn
các cơ và thần
kinh gây ra bệnh tưởng.
Khi tu tập đến đề mục
này thì chú ý vào
hơi thở
chậm và nhẹ,
vì khi tác ý như vậy thì hơi thở bắt đầu thở chậm và nhẹ một cách
tự nhiên, chứ không
dùng các cơ vận dụng
thở chậm và nhẹ.
Dùng các cơ vận
dụng thở chậm và nhẹ là sai. Ở
đây chỉ cần tác ý hơi thở chậm nhẹ thì tự động
hơi thở sẽ thở chậm
nhẹ, lúc bấy giờ chúng ta chỉ cần
tác ý theo đề mục đã trạch pháp câu: ‚Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài; thở
ra dài tối biết tôi thở ra dài‛.
ĐỀ M Ụ
C THỨ
BA
3- Hít vô ngắn
tôi biết tôi hít vô ngắn;
thở ra ngắn tôi biết tôi thở ra ngắn. Đó là
đề mục
thứ ba của Định
Niệm Hơi
Thở, khi chúng ta muốn hơi thở ngắn
thì tác ý câu
này: “Hít vô ngắn tôi biết tôi hít
vô ngắn; thở ra ngắn tôi biết tôi thở ra ngắn‛. Đây là cách điều khiển
hơi thở ngắn bằng pháp
như lý tác ý.
Xin các bạn lưu
ý. Do tu tập về hơi thở nên phải làm chủ được hơi thở. Muốn thở dài
thì hơi thở dài, muốn
hơi thở ngắn
thì hơi thở ngắn. Khi nào chúng ta thở dài thở ngắn mà
không thấy có sự rối lọan
hô hấp đó
là chúng ta đã
thành công làm chủ hơi thở. Riêng
về phần tu tập
hơi thở thì nên
tu tập hơi thở bình
thường là tốt nhất,
không nên vận dụng hơi thở dài hoặc hơi thở ngắn.
ĐỀ M Ụ
C THỨ
TƯ
4- Cảm giác
toàn thân tôi biết
tôi hít vô; cảm
giác toàn thân tôi
biết tôi thở
ra. Đây là đề mục dời tụ điểm không
còn thấy hơi thở
ra vô tại nhân
trung nữa. Mỗi lần hít thở cảm nhận sự rung động toàn thân.
Trong pháp Thân Hành Niệm dạy: ‚Cảm giác
thân hành tôi biết
tôi hít vô; cảm giác
thân hành tôi biết tôi thở ra‛.
Chỗ này tu tập khi nào
từng hơi thở cảm nhận được
sự rung động của toàn thân thì đó là kết quả của đề mục này.
ĐỀ M Ụ
C THỨ
NĂ M
5- An tịnh thân hành tôi
biết tôi hít vô;
an tịnh thân hành tôi biết
tôi thở ra. Đây
là một đề mục rất
quan trọng trong sự tu
tập mà đức Phật thường nhắc nhở: ‚Nhiếp tâm và
an trú tâm‛. Từ đề mục thứ nhất đến đề mục thứ tư là những
đề mục nhiếp tâm,
còn đề mục thứ năm này là đề mục an trú tâm, chứ không còn
là đề mục
nhiếp tâm nữa. Đề mục này
rất quan trọng và lợi
ích to lớn trong
việc đẩy lui các
chướng ngại pháp
trên thân, thọ, tâm
và pháp. Đề mục này
tu xong cũng giống như
người lính đánh trận
có chiến hào,
vì thế tất cả cảm thọ không thể tấn
công được. Đây là phương pháp làm chủ bệnh mà Tứ Niệm Xứ thường dạy:
‚Trên thân quán
thân để khắc phục tham
ưu‛. ‚Trên tâm
quán tâm để khắc
phục tham ưu‛. ‚Trên thọ
quán thọ để khắc
phục tham ưu‛. ‚Trên pháp
quán pháp để khắc
phục tham ưu‛. Các bạn nên lưu ý đề mục này nó rất quan trọng trong sự tu tập làm
chủ sanh, già, bệnh, chết.
ĐỀ M Ụ
C THỨ
SÁ U
6- Cảm giác
tâm hành tôi biết tôi
hít vô; cảm giác
tâm hành tôi biết
tôi thở ra. Đề
mục này là để hướng
dẫn chúng ta
ý thức nhận xét sự hoạt động của
tâm theo từng
hơi
thở ra vô
chứ không phải
biết hơi thở ra
vô bình thường. Do đó,
mỗi lần hít vô
hay thở ra chúng ta đều lắng nghe
tâm đang có niệm hay không niệm. Khi tu tập lắng nghe tâm từng hơi thở mà thấy tâm lặng lẽ bất động
không một niệm xen vào
trong suốt 30’ hay 1
giờ là chúng ta đã đạt được kết quả tu tập về đề mục này.
ĐỀ M Ụ
C THỨ
BẢ Y
7- An tịnh
tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh
tâm hành tôi biết
tôi thở ra. Khi tâm
chúng ta đang bị động
mà không có
cách nào làm cho nó an được, chúng ta sử dụng ngay đề mục
này bằng phương
pháp như lý
tác ý:
‚An tịnh tâm
hành tôi biết tôi hít vô;
an tịnh tâm hành
tôi biết tôi thở‛. Cứ mỗi lần tác ý như vậy là chúng ta cảm nhận như
tâm chúng ta có một sự an ổn trong
im lặng và mỗi lần hơi thở ra vô
là tràn ngập sự an ổn của thân
và tâm. Nếu kết quả
này kéo dài từ một giờ đến 2 giờ là chúng ta đã hoàn thành đề
mục
này.
ĐỀ M Ụ
C THỨ
TÁM
8- Quán thân
vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra. Khi thân tâm được an trú
trong hơi thở vô, hơi thở ra thì suốt trong
thời gian tu tập hơi thở
các bạn thỉnh thoảng
tác ý câu
này: ‚Quán thân vô thường tôi
biết tôi hít
vô; quán thân vô thường
tôi biết
tôi thở ra‛. Nương vào hơi thở vô ra và tác ý như vậy thì giúp cho các bạn
có một nội lực mạnh mẽ thân vô thường thật
sự. Từ đó
thân kiến kiết sử
bị đoạn dứt. Đây là
tu tập Định Niệm
Hơi Thở câu hữu với Tứ Niệm Xứ.
ĐỀ M Ụ
C THỨ
CHÍN
9- Quán thọ vô
thường tôi biết
tôi hít vô; quán
thọ vô thường tôi biết tôi thở ra. Đề
mục này tu tập như đề mục thứ tám
quán thân vô thường để thấm nhuần thọ vô thường thật sự khiến khi thân
có bệnh tật khổ đau tâm không dao động sợ
hãi. Đó là mục đích của đề mục này. Vậy muốn tâm bất động trước các cảm
thọ thì đề mục
này phải cần
siêng năng tu tập không được biếng trễ. Đây là tu tập Định
Niệm Hơi Thở câu hữu với Tứ Niệm Xứ.
ĐỀ M Ụ
C THỨ
M Ư Ờ I
10- Quán tâm
vô thường tôi biết tôi hít vô; quán
tâm vô
thường tôi biết tôi thở ra. Người ở
ngoài đời cũng
như các tôn
giáo khác trong đó
có Đại thừa,
Thiền Tông, Tịnh Độ
Tông, Pháp Hoa Tông, Mật Tông v.v.. đều cho tâm
này là linh hồn,
là Phật tánh,
là Tánh
Không, là
Chơn như, là trí tuệ Bát Nhã, là bản thể của vạn hữu v.v.. Đó là một sự hiểu biết
lầm lạc bằng ảo tưởng, tâm
là một xứ
trong Tứ Niệm Xứ: Thân, Thọ, Tâm,
Pháp. Cho nên quán tâm vô thường
cũng như quán
thọ hay quán thân vô thường vậy.
Hằng ngày
quán tâm vô thường để
chúng ta không bị kiến
chấp Linh hồn, Phật
tánh thường hằng của tà giáo ngoại đạo. Và luôn nhờ có quán tâm vô thường
nên từng tâm niệm sanh khởi chúng ta không bị dính mắc và chắp đắm. Đây là
tu tập Định Niệm
Hơi Thở câu hữu với Tứ Niệm Xứ.
ĐỀ M Ụ
C THỨ
M Ư Ờ I M ỘT
11-
Quán các
pháp vô thường tôi
biết tôi hít vô; quán các pháp vô
thường tôi biết tôi thở ra.
Đây là một đề mục
tu tập hơi thở
trong pháp môn Tứ Niệm Xứ để thấm nhuần các
pháp đều vô thường, nhờ thế các
pháp đến với chúng ta là chúng ta
đều buông xả sạch, vì chúng ta hiểu:
‚Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!
Chớ giữõ làm
chi có ích gì?
Thở ra chẳng lại còn chi nữa,
Các pháp vô
thường buông xuống đi!
Đề mục này
siêng năng tu tập khi đã thấm nhuần thì có ích lợi rất lớn, đó là nhìn các pháp mà
không dính mắc,
không chấp trước.
Đây là tu tập Định Niệm Hơi Thở
câu hữu với Tứ Niệm
Xứ
ĐỀ M Ụ
C THỨ
M Ư Ờ I H A I
12- Quán
ly tham tôi
biết tôi hít
vô; quán ly tham tôi biết tôi thở
ra. Theo lời đức Phật dạy chỉ
cần từ bỏ được tâm tham là nhập vào Niết Bàn, chấm dứt tái sanh luân hồi.
Như vậy hằng ngày
các bạn thường
tác ý câu:
‚Quán ly tham tôi biết tôi hít vô; quán ly
tham tôi biết tôi thở ra‛.
Khi tâm tham đã được ly
ra thì tâm chúng ta
luôn luôn thanh thản,
an lạc và vô sự. Tâm
thanh thản, an lạc và
vô sự là
tâm bất động
trước các ác
pháp và các cảm thọ.
ĐỀ M Ụ
C THỨ
M Ư Ờ I B A
13- Quán
ly sân tôi
biết tôi hít
vô; quán ly sân tôi biết tôi thở ra.
Nếu một tâm sân đã được từ bỏ sạch
thì Niết Bàn ở tại đó. Chỉ
cần chuyên tu tập một đề mục
này từ bỏ được tâm
thì con đường tu của Phật giáo
đâu mấy khó khăn.
Phải không các bạn?
Đức Phật đã đem lời dạy
này ra bảo đảm với chúng
ta:
‚Điều này
đã được Thế
Tôn nói đến, đã
được bậc A
La Hán nói đến. Và tôi đã được nghe. Này
các Tỳ Kheo hãy từ bỏ một pháp, Ta bảo đảm
cho các Ngươi
không đi đến lại (tái
sanh). Thế nào
là một pháp?
Sân, này các Tỳ
kheo là một
pháp các Ngươi hãy
từ bỏ. Ta bảo đảm
cho các Ngươi không đi tái sanh. Thế Tôn nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến‛. Theo lời dạy trên
đây chúng ta chỉ cần
tu tập một đề
mục này
cũng đủ chứng
đạo quả giải
thoát, chấm dứt tái
sanh luân hồi chỉ trong
một đời này mà thôi.
ĐỀ M Ụ
C THỨ
M Ư Ờ I B ỐN
14- Quán từ bỏ
tâm tham tôi
biết tôi hít vô; quán từ bỏ tâm tham tôi biết tôi thở ra. Đề mục này
tu tập cũng
giống như đề mục
‚Quán ly
tham…‛, nhưng ở đây ‚Từ bỏ‛ mạnh hơn. Vậy khi tu tập ly được tâm tham thì
chúng ta lại kế tiếp tu tập từ bỏ tâm
tham thì lại thấm nhuần
nhiều hơn và tâm
tham sẽ bịï diệt
trừ.
ĐỀ M Ụ
C THỨ
M Ư Ờ I L Ă M
15- Quán từ
bỏ tâm sân tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ
tâm sân tôi biết tôi thở ra. Đề
mục này tu tập cũng
giống như đề mục
‚Quán ly
sân‛ nhưng ở đây nó mạnh hơn là do
‚Quán từ bỏ
tâm sân‛. Nếu người nào bền chí tu tập, chỉ một đề mục này
cũng đủ làm chủ
sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.
ĐỀ M Ụ
C THỨ
M Ư Ờ I S Á U
16-
Quán đoạn diệt
tâm tham tôi biết
tôi hít vô; quán đoạn diệt tâm tham tôi biết tôi thở ra. Đề mục
tu tập này có một sự quyết liệt mạnh mẽ hơn những đề mục trên vì ‚đoạn diệt tâm
tham‛. Ở trên chỉ có ‚ly‛ và ‚từ bỏ‛
mà thôi. Tại sao chỉ có tâm tham mà phải ba đề mục tu tập cẩn thận như vậy?
Kính thưa các bạn! Tâm tham dục là một nguyên nhân
sinh ra muôn thứ khổ đau của loài người.
Vì thế, nó rất quan trọng đệ nhất trong các pháp ác. Cho nên, tu tập tới đề mục
này các bạn phải có sự quyết định mạnh mẽ
không thể lôi thôi với tâm tham dục được.
ĐỀ M Ụ
C THỨ
M Ư Ờ I B Ả Y
17- Quán đoạn
diệt tâm sân tôi biết tôi hít vô; quán
đoạn diệt tâm sân tôi biết tôi thở ra. Đề mục này cũng có một sự quyết định cuộc
đời tu hành của mình
được hay không được. Nếu một người
tu hành mà
tâm sân còn thì có
nghĩa lý gì là
một tu sĩ. Phải
không các bạn?
Sân là một
tính rất xấu và cực ác, lúc sân nó có thể giết người làm bất cứ một việc gì, lúc sân, nó
cũng không sợ bất cứ một thứ
gì. Biết sự nguy hiểm của
tâm sân như vậy,
nên chúng ta quyết
liệt đoạn diệt tâm sân tận gốc
không còn để một chút xíu trong tâm. Phải chấm dứt ngay liền. Chính
dứt được tâm sân là Niết
bàn ngay liền tại đây, đâu có xa gì?
ĐỀ M Ụ
C THỨ
M Ư Ờ I T Á M
18- Quán tâm
định tỉnh tôi biết tôi hít vô; quán tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra. Đây là đề mục
phá tâm si.
Các bạn phải cố
gắng tu tập với đề mục tu tập này cho nhuần nhuyễn. Khi tu tập đã nhuần nhuyễn
thì không bao giờ có hôn trầm thùy
miên và vô
ký đến thăm các bạn. Nếu các bạn
tu tập chưa nhuần nhuyễn thì các bạn sẽ bị
hôn trầm thùy
miên đánh gục. Hôn trầm thùy miên là một pháp cực ác đối với những người
hành theo Phật giáo.
ĐỀ M Ụ
C THỨ
M Ư Ờ I C HÍN
19- Với tâm giải thoát
tôi biết tôi
hít vô; với tâm giải thoát
tôi biết tôi thở ra. Đây
là đề mục
cuối cùng của Định
Niệm Hơi Thở, khi tất cả các đề mục trên
đều đã hoàn tất viên mãn thì đến
đề mục này là
tâm bất động hoàn
toàn có nghĩa
là tâm lúc
nào cũng thanh
thản, an lạc
và vô sự tức là tâm ở trạng thái không
phóng dật. Xưa đức Phật đã xác định cho chúng ta biết trạng thái này là cứu
cánh Niết Bàn: ‚Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật, muôn
pháp lành cũng đều nơi đó sinh ra‛.
à
GIỚI
HÀNH THỨ HAI
MƯ ƠI BA:
GIỚI HÀNH
NHÃN CĂN
Bắt đầu học,
tu tập và muốn đạt được một đời sống GIỚI HÀNH NHÃN CĂN nghiêm chỉnh thì phải
thông hiểu: giới đức, giới hạnh
và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và
giới hành của
giới hành nhãn căn là gì?
Giới đức, giới
hành nhãn căn là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh
nghiệp.
Giới hạnh,
giới hành nhãn
căn là những lời dạy
về Phạm hạnh tức là
oai nghi tế hạnh
thường thể hiện qua giới hành nhãn căn như: nói, nín,
tiếp giao với mọi người,
v.v.. Những oai nghi tế hạnh
như vậy được gọi
là Chánh nghiệp.
Mỗi con người
sanh ra trên đời
này đều phải có đủ sáu căn đó là:
1/ Nhãn căn
2/ Nhĩ căn
3/ Tỷ căn
4/ Thiệt căn
5/ Thân căn
6/ Ý căn
Sáu căn này
tức là mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý.
Hôm nay chúng
ta tu học về giới
hành nhãn căn. Chúng
tôi xin giảng
dạy về phần này. Vậy tu tập về giới hành nhãn căn
như thế
nào?
Trước khi muốn
học về giới hành nhãn căn thì chúng
ta hãy lắng
nghe đức Phật dạy La Hầu La: ‚Này La Hầu La, con nghĩ
thế nào? Con mắt là thường hay là
vô thường?
- Bạch Thế Tôn là vô thường.
- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
- Bạch Thế Tôn là khổ.
- Cái
gì vô thường, khổ chịu sự
biến hoại thời có hợp lý chăng, khi
quán cái ấy:
‚cái này
là của
tôi, cái này là tôi, cái
này
là tự ngã của
tôi?‛.
- Thưa không vậy, bạch Thế Tôn‛.
Cuộc vấn đáp
giữa đức Phật và La Hầu La, chúng ta đã
rút ra được một bài học, từ sự quán xét
và tư duy của
mình về giới hành
nhãn căn tức là con
mắt. Con mắt của
ta là chất
duyên hợp: đất, nước, gió, lửa cấu hợp thành;
khi con
mắt tan
rã thì đất trả
cho đất, nước trả
cho nước, gió trả
cho gió, lửa trả
cho lửa; khi trả xong ta chẳng
còn cái gì là ta, là của ta, là bản ngã của ta nữa. Phải không các bạn?
Đủ các
duyên hợp lại
thành mắt; hết duyên tan rã nó chẳng còn gì. Như vậy mắt
đâu phải là ta, của ta, bản ngã của ta; mắt chỉ là
một dụng cụ của
nhân quả duyên
hợp để nhân quả
dùng nó tiếp
xúc và thấy mọi
vật; do tiếp xúc và thấy mọi vật mới
sinh ra các cảm thọ; từ các cảm thọ mới
sinh ra dục ái, dục ái tức là lòng ham muốn dính mắc chấp trước của ta. Do sự dính mắc chấp
trước của ta nên ta mới hiểu lầm lạc con mắt là ta, là của ta, là bản ngã của
ta. Do sự lầm chấp như vậy mới
sinh ra vô số lậu
hoặc; lậu hoặc tức là
sanh, già, bệnh,
chết ưu bi sầu khổ từ kiếp này đến kiếp khác.
Mục đích của giới
hành tu tập
này là để giúp ta hiểu đúng mọi sự vật như thật. Như
vậy con mắt là vật vô thường là khổ đau. Đó là điều hợp lý mà không thể có ai
chối cãi phủ nhận được. Phải không các bạn?
Khi học tu giới hành
con mắt ta nên in
đậm trong trí và
quyết chắc, tin chắc
con mắt là vật vô thường là sự khổ đau, không phải của ta, là ta, là bản
ngã của ta.
GIỚI
HÀNH THỨ HAI
MƯ ƠI BỐ
N :
GIỚI HÀNH SẮC
TRỈN
Bắt đầu học,
tu tập và muốn đạt được một đời sống
GIỚI HÀNH SẮC
TRẦN nghiêm chỉnh thì phải
thông hiểu: giới đức, giới hạnh
và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và
giới hành của
giới hành sắc trần là gì?
Giới đức giới
hành sắc trần
là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức
là Chánh nghiệp.
Giới hạnh,
giới hành sắc trần là những lời dạy về Phạm hạnh tức
là oai nghi tế hạnh thường
thể hiện qua giới
hành sắc trần
như: nói, nín, tiếp
giao với mọi
người, v.v.. Những oai
nghi tế hạnh
như vậy được gọi
là Chánh nghiệp.
Vậy con mắt
để làm gì? Con mắt
dùng để trông thấy hình
sắc của các
pháp trần. Vậy pháp trần là gì?
Trước khi trả
lời câu hỏi này, chúng ta hãy lắng
nghe đức Phật dạy La Hầu La:
‚Này La
Hầu La,
con nghĩ thế
nào? Sắc trần
là thường hay vô thường?
- Bạch Thế
Tôn, là vô thường.
- Cái gì vô
thường là khổ hay lạc?
- Bạch Thế
Tôn là khổ.
- Cái gì vô
thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy:
‚cái này
là của
tôi, cái này là tôi, cái
này
là tự ngã của
tôi?‛.
- Thưa không vậy, bạch Thế Tôn‛.
Tất cả pháp
trần đều gồm có không ngoài sáu pháp:
1/ Sắc trần
2/ Thinh trần
3/ Hương trần
4/ Vị trần
5/ Xúc trần
6/ Pháp trần
Khi quán thấy
sáu pháp trần này là vô thường, là khổ,
là chịu sự biến
hoại, nó
không phải là ta, của ta, bản ngã của ta. Vậy ta còn ưa thích nó làm gì;
nó là pháp khổ, mang đến khổ cho ta. Cho nên từ đây chúng ta phải có đôi mắt
nhìn thấy các pháp trần là thấy sự khổ
đau; nó
Trưởng lão
Thích Thông Lạc
chẳng hạnh
phúc gì mà chấp nhận,
mà dính mắc; cần phải tránh xa và
thường nhắc tâm chớ nên ưa thích, phải từ bỏ, phải đoạn lìa.
Nhờ sự tu tập
thấy biết sáu pháp trần này là pháp khổ đau nên quyết tâm xa lìa, từ bỏ, vì thế chúng
ta mới đủ
can đảm sống
và chấp nhận một đời sống ba y một
bát, với tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không, chẳng còn một
pháp nào làm vướng bận tâm ta. Chùa
to, Phật lớn,
nhà cửa cao rộng, tiền bạc châu báu nhiều cũng không
mê hoặc ta, cũng không làm
cho ta ưa thích. Danh lợi
dù cao sang tột đỉnh, ta xem như mây khói giữa hư không, như nước chảy qua cầu.
Hiểu thấu rõ
các pháp trần không phải của ta, là ta,
là bản ngã,
thì ta từ bỏ
chúng xa lìa chúng dễ
dàng, chẳng bao giờ còn nuối tiếc, luôn luôn sợ hãi chúng. Cho nên, mỗi lần
có ai cúng dường cho mình một vật dùng
gì, một món ăn gì hoặc tiền bạc y áo chúng ta đều sợ hãi, vì những vật
đó là rắn độc sẽ giết ta chết trong giới luật, và làm ta mất đường đi đến sự
giải phóng trong mặt trận sanh tử luân hồi.
Sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp là những pháp đáng lưu ý và cần phải tránh xa, từ bỏ. Là
người tu
sĩ Phật giáo,
ta phải sống
như Phật
‚chứng đạo dưới gốc
cây, chết nằm dưới
gốc cây mà chết‛.
Sống được như vậy sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp
trần mới không
tác động tâm ta được.
GIỚI
HÀNH THỨ HAI
MƯ ƠI LĂM :
GIỚI HÀNH
NHÃN THỨC
Bắt đầu học,
tu tập và muốn đạt được một đời sống GIỚI HÀNH NHÃN THỨC nghiêm chỉnh thì phải
thông hiểu: giới đức, giới hạnh
và giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của giới hành nhãn thức
là gì?
Giới đức, giới
hành nhãn thức là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh
nghiệp.
Giới hạnh,
giới hành nhãn
thức là những lời dạy
về Phạm hạnh tức là
oai nghi tế hạnh
thường thể hiện qua giới hành nhãn thức như: nói, nín,
tiếp giao với mọi người,
v.v.. Những oai nghi tế hạnh
như vậy được gọi
là Chánh nghiệp.
Trên đây,
chúng ta đã học về Giới hành nhãn
căn. Giới hành sắc trần
và tiếp đến là
Giới hành nhãn thức. Vậy giới hành nhãn
thức như thế nào?
Trước khi muốn
tu học về giới
hành nhãn thức thì chúng
ta hãy lắng
nghe đức Phật dạy
La Hầu
La: ‚Này La Hầu
La, con nghĩ thế nào, nhãn
thức là thường hay là vô
thường?
- Bạch Thế Tôn, là vô thường.
- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
- Bạch Thế Tôn, là khổ.
- Cái gì vô thường, khổ chịu sự biến hoại
thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy:
‚cái này là
của tôi, cái này là tôi, cái này là bản ngã của tôi?‛.
- Thưa không vậy, bạch Thế Tôn‛.
Đọc những đoạn
kinh vấn đáp trên đây của đức Phật và
La Hầu La
chúng ta rút ra
được một bài pháp
tu học có hiệu quả xả tâm
ly dục ly ác pháp diệt ngã, diệt
tâm tham, sân, si, v.v.. dễ dàng, không
có khó khăn,
không có mệt nhọc, không có phí sức và kết quả giải
thoát rất thực tế, rõ ràng, cụ thể.
Đoạn kinh
này đức Phật đã xác định: “Nhãn thức (tánh thấy) là vô thường,
là khổ là biến hoại, không thường
hằng, di dịch, thường thay
đổi”, không như Đại thừa
và Thiền Tông nghĩ nó là thần thức, là Phật tánh. Đoạn
kinh này đã làm đảo lộn cái hiểu của Đại Thừa và Thiền Tông mà
từ xưa đến
nay cho thấy cái
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!