là những
lỗi lầm nhỏ nhặt. Vì sự tu tập này đem lại
lợi ích cho chính
bản thân của
mình, chứ không phải
đem lại lợi ích
cho kẻ khác. Cho nên,
giới luật chế ra
cấm đoán
tu sĩ là không đúng với tinh thần tự giác của đạo
Phật.
Một người
ngoại đạo đến xin Phật tu hành theo Phạm hạnh của
Phật thì Đức Phật cho họ sống trong chúng bốn tháng. Nếu vị ngoại
đạo này thấy mình tự giác thích nghi sống
được đời sống Phạm hạnh thì đức Phật và
chúng Tăng chấp nhận cho họ xuất gia thành Tỳ Kheo. Còn nếu thấy tự mình
không thể sống
đời sống Phạm hạnh
được thì xin rời khỏi
Tăng đoàn, chứ không có ai bắt buộc
mình sống đời sống Phạm hạnh cả. Cho nên,
giới luật của Phật là chỉ
cho đức hạnh của một vị Sa
Môn hay
nói cách khác là quả vị của vị Sa Môn. Xin các bạn hãy đọc lại kinh Sa Môn Quả và kinh
Phạm Võng trong kinh Trường Bộ tập 1 thì các bạn sẽ rõ và không nghi ngờ lời
nói của chúng tôi là thiếu căn cứ kinh sách.
Ở đây,
chúng ta nên hiểu giới
luật của Phật là một pháp môn tu
tập vô lậu, chứ không phải là một
pháp luật quốc
gia. Cho nên, giới bổn ra đời chúng tôi nghĩ rằng không phải
Phật chế mà do sau này các Tổ nhận đệ tử
chỉ lấy số đông để tạo thành
một lực lượng đông
người,
ngõ hầu đối
phó với những lực lượng của các hệ phái khác, nên không chọn lựa kỹ lưỡng, thu
nhận người vào
tu bừa bãi,
vì thế đời sống của tu
sĩ đời chẳng
ra đời, đạo chẳng
ra đạo. Thấy nguy cơ trong các
Tăng đoàn nên
các Tổ chế giới luật cấm tu sĩ, nhưng lại gán cho Phật
chế sau 13 năm từ khi đức Phật chứng đạo. Các Tổ còn khéo dựng
lên nhóm
Lục Quần Tỳ
Kheo thường phạm giới, phá giới. Do nhóm Lục Quần Tỳ Kheo mà đức Phật chế
giới. Thực sự khi nghiên cứu về
kinh Nguyên Thủy, chính
bài pháp đầu tiên (Chuyển pháp luân lần đầu tiên dạy năm anh em Kiều Trần
Như) là đã dạy giới luật qua chân lý thứ
tư là ‚Đạo Đế‛ tức là Bát Chánh Đạo.
Thưa các bạn!
Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Mạng... không phải là giới luật sao?
Giới luật là pháp môn vô lậu. Vậy khi có Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ,
Chánh Mạng... thì làm
sao có lậu hoặc
được, làm sao có sát sanh, có trộm cắp, có tà dâm, có vọng ngữ, v.v..,
phải không các bạn?
Chính do tu sĩ phạm giới nên
các Tổ mới chế giới
luật ngăn cấm. Do đó, giới bổn ra đời thì tu sĩ Phật giáo càng phạm giới nhiều hơn, là vì có giới luật mới thấy
tu sĩ phạm
giới rõ ràng, khi chưa có giới luật
thì không thấy tu
sĩ phạm giới
là vì
chưa có giới
luật
nên không căn cứ định tội
được. Tu sĩ phạm giới là
vì các Tổ nhận đệ tử
bừa bãi, họ không tự nguyện, tự giác sống đời sống Phạm hạnh như Phật ngày xưa.
Vả lại các Tổ không lưu ý đến Phạm
hạnh và cũng không biết giới hành của đạo Phật là gì.
Xét trong
tam tạng kinh điển
của Phật giáo được kiết tập
từ Hán Tạng
phát triển của Bắc Tông đến Tạng kinh Nguyên Thủy Pali của
Nam Tông
vẫn không tìm thấy
các bộ ‚Giới Đức,
Giới Hạnh, Giới
Hành‛, chỉ tìm thấy trong những
bài kinh do Phật thuyết
có đủ
‚Giới Đức,
Giới Hạnh, Giới
Hành‛, mà không có giới cấm. Như
vậy rõ ràng giới cấm là do các Tổ chế
ra, còn Phật thì dạy: ‚Giới Đức, Giới Hạnh, Giới Hành‛.
Cho nên đọc
kinh sách Phật mà không xét thấu đáo thì chẳng hiểu đạo Phật là đạo tự giác, tự nguyện.
Vì thế khi mọi người
vào đạo Phật đều
phải tự nguyện
sống đời sống Phạm hạnh
để mong cầu được sự giải thoát, chứ không có ai bắt buộc họ. Cho nên
giới bổn Ba La
Đề Mộc Xoa sau 13 năm do chúng
Tỳ Kheo phạm
giới mà đức Phật chế ra để răn cấm
chúng Tỳ Kheo; đó là các Tổ tự đặt ra nói
như vậy, chứ
không phải sự thật
là vậy. Trong
bộ Đường Về Xứ
Phật tôi
có nói sau 13 năm
đức Phật chế giới
bổn là nói theo tạng Giới
luật. Dự định của
tôi là sau khi biên soạn bộ ‚Giới Đức, Giới Hạnh, Giới Hành‛ của Phật
thì sẽ chỉnh lại những điều sai trong giới
bổn của các Tổ.
Vì thế bộ sách
Mười Giới Đức
Thánh Sa Di, và bộ Giới Đức Thánh Tỳ Kheo Tăng và Tỳ
Kheo Ni này ra đời
là một tiếng
sét về Giới Luật của Phật giáo, khiến cho những ai
tu theo Phật giáo mà không sống đúng Bát
Chánh Đạo là những người
phi Phạm hạnh, phi Phật giáo; họ là Ma Ba Tuần trong Phật giáo; họ là
trùng trong lông Sư Tử. Trong những bộ Giới luật này được phổ biến rộng
rãi để cho tín đồ Phật
giáo hiểu biết một cách tường tận và phân biệt được đâu là tu sĩ thật,
đâu là tu sĩ giả. Nhờ đó tín đồ chân
chánh của Phật giáo sẽ tránh xa những người tu danh, tu lợi, tu giả dối, v.v..
Sau khi
nghiên cứu lại tất cả các bộ
giới thì chúng tôi xét thấy 37 phẩm trợ
đạo của đức Phật
là giới kinh. Giới
kinh không phải chế ra để
ngăn cấm đệ tử của
mình. Giới kinh là những kinh
nghiệm tu tập của đức Phật khi đạt
được cứu cánh
giải thoát hoàn toàn. Do lòng
thương tưởng đến chúng sanh, nên Ngài mới dạy lại cho con người, để mọi
người theo kinh nghiệm
đó mà tu tập để
được giải thoát
làm chủ sanh tử và chấm dứt luân hồi như Ngài.
Giới kinh là
những bài pháp dạy
tu hành như trên đã nói, nó có đầy đủ bốn đức. Cho nên nếu ai bảo rằng
giới kinh không
phải Phật thuyết thì người
đó chẳng hiểu
gì về Phật giáo
cả.
Bởi vậy,
xét cho cùng tận giới bổn Ba
La Đề Mộc Xoa ra đời là do các Tổ biên
soạn ra để ngăn cấm một số
tu sĩ Phật
giáo thời bấy giờ
giả danh tu sĩ Phật giáo, mượn đạo tạo đời, biến Phật giáo
thành một nghề
nghiệp sống, chạy theo danh lợi thế gian, làm điều phi
giáo lý Nguyên Thủy, tạo ra nhiều điều mê tín trong Phật giáo, làm trái với
chân lý của đạo Phật, khiến cho người đời sau trở thành những tín đồ sống trong ảo tưởng,
ngu ngơ, mê tín, lạc hậu, đánh mất đường lối tu hành giải thoát của Phật
giáo.
Đạo Phật là
đạo tự giác, tự nguyện, chứ không phải đạo
a dua, xu hướng chạy
theo phong trào thời thế. Đạo Phật là đạo như thật, vì như thật nên
người tu hành mới thoát
ra khỏi sự đau khổ
của kiếp làm
người, mới làm chủ
bốn chỗ sanh, già,
bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi.
Do đạo Phật
lợi ích thiết thực của kiếp làm người
như vậy, nên những
người theo đạo Phật là những người tự nguyện sống đời sống
Phạm hạnh tức là đời sống nghiêm trì giới luật, là để đạt được cứu cánh giải thoát hay nói cách khác là để không làm khổ mình,
khổ người và khổ chúng sanh. Đó
cũng là mục
đích để đạt được
tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.
Đây, chúng
ta hãy đọc lại một đoạn
kinh nói về một tu sĩ ngoại đạo tu theo hạnh con chó đến gặp Phật xin xuất gia
tu hành theo Phạm hạnh của Phật, Phật dạy:
‚- Này
Seniya, ai trước kia là ngoại đạo
nay muốn xuất
gia, muốn thọ đại
giới trong pháp và luật này
thì phải sống 4
tháng biệt trú. Sau
khi sống 4 tháng biệt trú chúng Tăng nếu đồng ý sẽ cho xuất gia, thọ đại giới để thành vị Tỳ
Kheo‛.
Như đoạn kinh trên ai muốn theo
Phật giáo tu hành
thì phải sống biệt trú bốn tháng theo quy định của đức Phật. Vậy biệt
trú nghĩa là gì?
Biệt trú có
nghĩa là sống độc cư một mình, sống
đúng Phạm hạnh của người
tu sĩ Phật giáo.
Người sống
biệt trú như vậy trong
bốn tháng thì mới được Phật và chúng Tăng chấp nhận cho xuất gia làm đệ
tử của Phật.
Đọc đoạn
kinh trên đây, vậy tất cả các bạn đã từng sống
trong tu viện
Chơn Như các bạn
đã từng chứng kiến biết bao nhiêu người
về đây xin tu hành,
nhưng có mấy
ai sống đúng
biệt trú, tức là sống đúng
ba đức, ba hạnh: ăn, ngủ, độc cư, nhẫn
nhục, tùy thuận,
bằng lòng chưa? Chỉ
cao lắm là một tuần lễ, cho đến một tháng là
họ đã phá hạnh biệt
trú (độc cư)
đi nói chuyện làm động cả tu viện,
và còn ăn ngủ, phi thời. Vì thế, họ không xứng đáng là đệ tử của tu viện Chơn
Như.
Từ ngày
nào cho đến giờ
các bạn cứ nhìn xem mọi người về đây xin tu hành, có người nào sống đúng hạnh độc cư không? Hầu hết đều phá hạnh độc
cư. Vì thế làm
sao chúng tôi chấp nhận họ là đệ tử của tu viện Chơn Như.
Đức Phật ra
điều kiện 4 tháng biệt trú, thì những người quyết tâm tu để cầu giải thoát tự
nguyện xin đức Phật sống biệt trú 4 năm.
Sống biệt trú bốn năm, chắc chắn các bạn không ai làm được phải không?
Sống biệt
trú 4 năm đó là những người tự nguyện sống trong giới luật của Phật giáo ngày
xưa; còn bây giờ những người
về tu viện
Chơn
Như tu tập có tự nguyện
sống được như vậy không?
Điều này thắp
đuốc đi tìm một
người như vậy, cũng không
tìm thấy. Phải không
các
bạn?
Thời nay tu
ăn, tu ngủ, tu nói chuyện, tu danh,
tu lợi, tu
chùa to, Phật lớn, v.v..
thì không thiếu gì người, còn người tu tập để cầu
giải thoát thì
không có. Tu viện Chơn
Như không mời thỉnh các bạn vào đây tu tập, nhưng các bạn
đã tự nguyện
vào, vậy cớ sao
các bạn không giữ
gìn Phạm hạnh.
Phạm hạnh ở đây
chỉ có
ăn ngủ, độc cư,
nhẫn nhục, tùy
thuận và bằng lòng. Chỉ có bấy
nhiêu đó thôi, thế mà các bạn không
giữ gìn được huống
là Phạm hạnh trong thời đức Phật: ba y một bát, thiểu
dục tri túc, tâm hồn
phóng khoáng như
hư không, trắng bạch
như vỏ ốc, thì liệu
các bạn có sống được không?
Từ bên Mỹ,
bên Pháp, bên Úc... đường xa diệu vợi,
hơn nửa trái đất, các bạn về
đây tu tập, cớ
sao lại không
giữ trọn Phạm hạnh,
không giữ trọn Phạm hạnh tức là sống không đúng
đời sống giới luật thì các bạn tu
tập cái gì! Rất uổng công, các bạn ạ!
Các bạn
có tin lời nói của tôi
không? Nếu tin sao các bạn sống phá giới, phạm
giới như
vậy? Để rồi các bạn tu
hành chẳng ra gì. Các bạn có thấy điều này chăng?
Trong thời đức Phật
còn tại thế
có dạy rằng: ‚Một người tu tập
theo Phật giáo phải hội đủ năm điều
kiện mới có thể tu tập đi đến cứu cánh giải thoát hoàn toàn”. Vậy
năm điều kiện ấy là gì?
1/ Lòng tin.
2/ Ít bệnh.
3/ Không
gian trá.
4/ Tinh tấn siêng năng.
5/ Trí tuệ.
Qua năm điều
kiện đức Phật đã dạy trên đây,
chúng ta nhận
xét về các bạn đã
và đang tu tập tại tu viện Chơn
Như, họ có tu tập, có giữ gìn đúng năm điều kiện này không?
Điều thứ nhất lòng
tin: Theo tôi nhận xét các bạn đến tu viện Chơn Như với lòng
bán tín bán nghi, tin chưa được trọn vẹn,
nhất là đối với
tôi, các bạn
còn đang dò xét.
Điều mà tôi nhận xét về các
bạn rất rõ, đó là tôi
dạy tu tập một đường
mà các bạn lại tu tập
một
ngả. Tôi dạy các bạn tu ba đức: nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng; sống
ba hạnh: ăn, ngủ và độc cư. Chỉ có ba đức, ba hạnh mà các bạn còn sống và
tu tập không
nổi như trên đã nói thì các bạn sống và tu tập pháp môn gì cho thành tựu được.
Do thiếu lòng tin nơi tôi nên không sống độc cư trọn vẹn,
thích tụ tập
nói chuyện và
thích ăn ngủ phi thời. Điều
thứ nhất các bạn đã phạm
phải lỗi
lầm rất lớn
thì con đường tu tập của
các bạn
đã đánh mất rồi. Khi thấy
không đủ lòng tin nơi
chúng tôi thì các
bạn hãy đi tìm
một pháp
nào khác thích
hợp hơn mà
tu tập. Còn ở đây phạm phải những lỗi lầm khiến cho
mình tu
không được mà người khác
cũng tu không được. Con đường tu
tập theo Phật giáo lòng tin là đệ nhất pháp.
Ai thiếu lòng
tin thì sự tu tập chẳng bao giờ có kết quả.
Điều thứ
hai tinh tấn siêng năng:
Các bạn không siêng năng,
ít đi kinh hành. Đó là
điều đáng trách. Các bạn cứ nghĩ rằng ngồi khoanh chân
kiết già là tu tập sao? Trong
khi hôn trầm, thùy
miên, vô ký,
ngoan không của các bạn cao ngút
tận mây xanh mà các bạn lười biếng không chịu đi kinh hành là một chứng tỏ bạn
không thể nào tu theo Phật giáo được. Phật giáo
tu tập nhằm đối trị
tâm tham, sân,
si. Đi kinh hành là pháp đối trị
tâm si. Các bạn có hiểu chăng?
Đi hai mươi
bước ngồi hít thở năm hơi thở là để đối trị
tâm lười biếng si
mê của các bạn,
thế mà các bạn
không tu tập. Không tu tập như vậy thì các bạn làm sao phá tâm si được. Trong
tam độc:
tham, sân, si,
người tu tập rất sợ về
tâm si
‚Chẳng sợ tham, sân chỉ sợ tâm
si‛, vậy mà các bạn không tu tập thì làm sao đối trị tâm si được. Phải
không các bạn?
Điều thứ
ba không gian
trá: Không gian trá tức là không
gian xảo, không nói láo, thường không dối gạt người. Các bạn tu hành là để giải
thoát cho các bạn, chứ không phải giải thoát cho tôi, cớ sao các bạn lại dối
trá. Tu tập giờ khắc nghiêm chỉnh là không dối người; giờ khắc không
nghiêm chỉnh là dối người;
người ăn uống ngủ nghỉ phi thời là dối người; người sống phá hạnh độc cư là
người dối người; người thích hộïi
họp nói chuyện là người ác khẩu là dối người. Điều tối kỵ của Phật giáo là những
người gian xảo dối
trá; những người
này tu hành không bao giờ tìm ra sự giải thoát. Họ
là những người không có đức thành thật; họ giống như nước rửa chân, chẳng dùng
được, phải đổ bỏ.
Điều thứ
tư trí tuệ: Không trí tuệ tức là thiếu sự
nhận xét hiểu biết, thiếu lập trường tức là
lập trường không
vững, thường bị
lôi cuốn vào những kiến giải, tưởng
giải của người khác hoặc chạy theo
xu hướng, a
dua theo phong trào, theo thế lực, theo danh lợi,
v.v..
Người thiếu
trí tuệ là kẻ ngu si, khôn dỏm, lanh lợi
trong xảo trá,
không hiểu pháp hành, mà
tỏ ra như mình hiểu, nên thường
tu tập sai pháp, tu tập không
đúng pháp, thành
ra bị ức chế tâm rối loạn
thần kinh, căng mặt,
nhức đầu, gây bao trở ngại cho đường tu tập.
Tu theo Phật
giáo mà thiếu
trí tuệ là một điều rất khó tu tập. Người thiếu trí tuệ
là người không chịu nghe lời dạy của thiện hữu tri thức, thường tu
theo kiến giải,
tưởng giải của
mình, đó là tu
theo sự hiểu
biết riêng tư,
thường cố chấp theo
những pháp nào đồng quan
điểm. Cho nên những
người ngoan cố thường sống trong cái ngu si của mình, không trí tuệ.
Điều thứ
năm ít bệnh: Người
có thân ít bệnh,
tu hành theo
Phật giáo rất dễ đạt được
kết quả.
Người có thân
thường mang bệnh tật, tu hành theo Phật giáo rất khó khăn, nhất
là người mới vào
tu lại có
thân bệnh thì càng
tu tập khó khăn nhiều hơn. Nếu không may gặp phải pháp
môn của kinh sách
phát triển thì thân
tâm dễ bị bệnh tật
nan y (bệnh
thần kinh).
Tu theo Phật
giáo khi thân bị bệnh tật mà không biết
pháp đối
trị là một
người chưa hiểu Phật pháp. Vì Phật
pháp là một phương Thánh dược trị tất cả
những bệnh nghiệp
của con
người. Cho
nên, thân có bệnh là có điều kiện để đánh đuổi giặc sanh tử. Nếu một người tu
theo Phật giáo mà có được những
cơ hội bệnh tật là điều
thuận lợi tốt để
tu tập. Nhờ
đó mà chúng ta mới hiểu được Phật giáo là một pháp
môn vi diệu vô cùng, đối trị bốn bệnh khổ: sanh, già, bệnh, chết của chúng
sanh.
Phần đông
những tu sĩ
Phật giáo đều mang
đầy ắp trong
đầu những sự hiểu biết tưởng
giải về kinh sách
phát triển, về thiền
định tưởng, nhưng đó không phải của Phật giáo, mà của
ngoại đạo. Cho
nên, khi tu viện
đón nhận những tu sĩ này vào, họ thường phá giới hạnh trong tu viện. Một
người phạm giới ảnh hướng đến nhiều người khiến cho sự đào tạo những bậc A La
Hán ở đây trở nên khó khăn vô cùng. Nếu
không chấp nhận họ thì bớt bạn thêm thù,
mà chấp nhận họ thì thêm
thù bớt bạn và còn làm mất trật tự của tu viện.
Thưa các bạn! Nếu
các bạn muốn đến tu viện
Chơn Như tu tập thì các
bạn phải xét mình
có đủ năm
điều kiện trên đây
mà đức Phật đã dạy
trong kinh số 85, lấy
tên của một cư sĩ trong thời đức Phật còn tại thế mà
đặt tên cho bài kinh này là Bồ Đề Vương Tử (Bodhijakumarasuttam).
Bài kinh ấy
giúp cho chúng ta thấy được những cái sai, cái khó để thực hành cho đúng những lời
dạy của đức
Phật: ‚Ở đây
này Vương Tử một vị Tỳ Kheo có
lòng tin tưởng sự giác ngộ của Như Lai,
Ngài là Thế Tôn, bậc A La
Hán, Chánh Đẳng Giác,
Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhơn Sư,
Phật, Thế Tôn.
2- Vị ấy ít
bệnh, ít não với bộ tiêu hoá được điều hòa, không quá lạnh, không quá nóng, trong trường hợp quá tinh tấn.
3- Vị ấy
không gian trá, xảo trá, tự mình xử sự
như chơn đối với Bậc Đạo Sư, đối với các vị có trí hay đối với các vị
đồng Phạm hạnh.
4- Vị ấy sống
tinh cần, tinh tấn từ bỏ
các bất
thiện pháp, làm cho khởi lên
các thiện pháp, kiên cố,
kiên trì không từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp.
5- Vị ấy có
trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sự sanh diệt
của các pháp, với sự thể nhập bậc Thánh
đưa đến
sự chân chánh đoạn diệt khổ đau‛.
Nếu các bạn
xét thấy mình có đủ năm điều kiện này
thì các bạn về tu viện tu tập, chúng tôi
sẽ hướng
dẫn các bạn
tu tập không
bao lâu sẽ đạt sự giải thoát, làm
chủ sanh, già, bệnh, chết. Còn nếu các bạn giữ
gìn năm điều
này chưa trọn vẹn
mà về tu viện tu tập thì chúng
tôi e rằng các bạn chỉ
phí cuộc đời,
làm mất thời gian
vô ích. Còn nếu
các bạn có thật sự quyết
tâm về tu viện tu tập để thật sự được giải thoát thì các bạn
hãy tin nơi tôi,
tôi sẽ giúp
các bạn vượt qua bệnh
tật và sự
vô minh của
các bạn bằng cách các bạn phải tự khắc phục
mình không nói láo, lừa dối Thầy, bạn, phải tự siêng năng, tinh cần khắc
phục hôn trầm, thùy miên, phải tự siêng năng tinh cần độc cư, nhiếp phục
không đi
nói chuyện với
người khác. Nhờ có
sống siêng năng tinh cần một mình (độc cư) để xả cho thật sạch tâm tham, sân,
si. Nếu các bạn có quyết tâm tu tập như vậy thì các bạn hãy về tu viện tu tập,
chúng tôi tin rằng các bạn sẽ thành tựu được
sự giải thoát trong kiếp này.
à
GIỚI
HÀNH THỨ NĂM
:
SẮC GIỚI
HÀNH
Bắt đầu học,
tu tập và muốn đạt được một đời sống SẮC GIỚI HÀNH nghiêm chỉnh thì phải thông
hiểu: giới đức,
giới hạnh và giới
hành. Vậy giới đức, giới hạnh
và giới hành của
sắc giới
hành là gì?
Giới đức sắc giới
hành là những lời dạy
đạo đức về đời sống của
con người đừng dính mắc
vào sắc tướng
(sắc giới) tức
là Chánh mạng.
Giới hạnh sắc giới
hành là những
lời dạy về Phạm hạnh
tức là oai
nghi tế hạnh
thường thể hiện qua sắc tướng (sắc giới) như: đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống, nói, nín,
tiếp giao với mọi người, v.v..
nhưng không dính mắc. Những
oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh hạnh nghiệp.
Giới hành thứ
năm thuộc về Sắc Giới. Chúng tôi xin nhắc lại Giới hành thứ hai. Giới hành thứ ba
và Giới
hành thứ tư
là sự phản tỉnh
lại thân hành,
khẩu hành, ý
hành. Sự phản tỉnh ấy rất lợi
ích cho đời sống của các
bạn,
giúp cho các bạn
có một cuộc sống Thánh thiện
không làm khổ
mình, khổ người,
khổ chúng sanh, biến cuộc sống thế gian thành cõi Cực Lạc, Thiên Đường,
khiến cho cuộc sống của loài người có một tình thương
chan hòa với nhau; không những chan hòa sự sống của
loài người mà chan hòa sự sống trong môi trường sống trên hành tinh này.
Còn Giới
hành thứ năm như thế nào? Xin các bạn vui
lòng đọc lại
bài kinh số 62 “Đại
Kinh Giáo Giới La Hầu La” (Maha- Rahulovadasuttam) trong kinh Trung Bộ thuộc tạng kinh Nikaya:
‚Này La Hầu
La, bất cứ sắc pháp nào, quá khứ, vị lai, hiện tại, nội
hay ngoại, thô
hay tế, liệt
hay thắng, xa hay gần,
tất cả sắc
pháp ấy phải
được quán sát như thật
với chánh trí tuệ:
‚Cái này không phải của ta, cái này không
phải là ta, cái này không phải tự
ngã của ta‛.
Xin các bạn nên đọc kỹ lại đoạn kinh trên và suy nghiệm quán xét
như thật với chánh trí tuệ của
các bạn: ‚Cái này không phải của ta, cái
này không phải là ta, cái
này không phải tự ngã của ta‛.
Thưa các bạn, vậy
cái này là
cái gì? Cái này là
thân của bạn,
là vợ con, là
cha mẹ, là
anh chị em,
là nhà cửa của cải tài sản, v.v.. của các bạn.
Ở đây
đoạn kinh Sắc Giới
hành này đã dạy cho chúng ta
có cái nhìn
thấu suốt qua tất cả các sắc tướng của vạn vật đang hiện
có xung quanh ta. Hiện giờ các bạn là những người đang mù mắt không thấy các sắc pháp trên thế gian này là
không thật có
(duyên hợp), mà lại
cho các sắc pháp
là thật có. Do
thấy như
thật có nên các bạn sinh
tâm tham đắm
và dính mắc sắc
pháp. Khi tâm các bạn dính mắc vào
các sắc pháp thì các
bạn phạm vào giới cấm tham lam.
Do tâm tham lam
các bạn sinh
ra chiếm hữu. Khi tâm chiếm
hữu thì các bạn thấy
thân này là bạn, là
của bạn, là bản
ngã của bạn; vợ con là của bạn, cha mẹ
anh em chị em là
của bạn, nhà cửa tài sản là của bạn,
nên khi có ai chạm
đến thì bạn sinh
ra tức giận thù
ghét. Luôn luôn lúc
nào cũng ưa thích
bảo vệ cái của
các bạn. Vì thế các bạn chịu khổ đau vô cùng. Nhưng sự thật các
pháp ấy không
phải là của các bạn. Các bạn nên dùng với chánh trí
tuệ tư duy quán xét thì thật
sự các pháp ấy không
có gì là của các bạn cả.
Chúng ta hãy
quan sát những người nằm trong nghĩa địa, dưới
lòng đất kia, thân
này có
còn gì là
thân của ta nữa, chỉ
còn là một nấm
đất bất tịnh hôi thối, phải không các bạn?
Rồi vợ con,
rồi cha mẹ, anh em, rồi của cải tài sản nhà cửa còn có gì là của ta nữa đâu?
Các bạn cứ xét
có đúng như lời Phật
đã dạy không: ‚Cái này không
phải của ta, là ta, là bản ngã của ta‛.
Khi nghe đức
Phật dạy đến đây thì chú bé La Hầu La
là một người
thông minh tuyệt
vời nên hỏi Phật:
- ‚Bạch Thế
Tôn, có phải chỉ sắc
mà
thôi?
Đức Phật trả
lời:
- Cả Sắc, thọ, tưởng,
hành, thức này
La Hầu La‛.
Qua những câu hỏi của
La Hầu La
và lời đối đáp của đức Phật. Chúng
ta nhận xét quả
thật chú
bé La Hầu
La là một
chú bé thông minh
nhất, nên mới
có câu hỏi ‚Bạch Thế Tôn, có phải chỉ có sắc mà thôi‛.
Nếu đặt
chúng ta vào vị trí của La Hầu La thì chúng ta không thể có câu hỏi như vậy được,
vì chúng ta không biết năm uẩn và cũng không thể ngờ được. Có đúng như vậy
không các bạn?
Đức Phật
nói sắc pháp tức là
nói về sắc uẩn,
sắc uẩn là phần vật chất, phần
có hình sắc, có tướng. Còn bốn uẩn
kia là phần
không hình sắc, không
có tướng. Vậy
mà câu hỏi của
La Hầu La thật là tuyệt vời, hỏi đúng lúc, hợp thời, câu hỏi ấy
mang đầy đủ
ý nghĩa về
tinh thần của các uẩn có thật nhưng
vô hình không sắc tướng.
Ví dụ: Chúng
ta đặt lại câu hỏi:
- Bạch Thế
Tôn, khi Thế Tôn nói thân này không phải của
ta, là ta,
là bản ngã của ta thì
thọ, tưởng, hành, thức này có phải là của ta không?
Khi được học kinh sách
Phật thì ai cũng biết
thọ, tưởng, hành,
thức là phần
không có hình sắc
(vô hình) nhưng
thật có luôn
luôn chúng ta cảm nhận rất cụ thể.
Lời nói của
đức Phật dạy La Hầu La là lời nói xác định
phần vật chất và những phần tinh thần trong thân phận của con người. Toàn cả
thân này không có một thứ gì là của ta cả.
Câu xác định
mạnh mẽ thẳng thắn tuyệt vời: thân, thọ,
tưởng, hành, thức
này không phải của
ta, không phải
là ta, không
phải là bản ngã của ta. Lời tuyên
bố này làm quả đất
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!