Một vị
Thánh Tăng còn
ăn thịt chúng sanh
và uống rượu
như Tế Điên
Tăng Hoà Thượng và Tuệ Trung
Thượng Sĩ thì còn
nghĩa lý gì là một Thánh Tăng. Giới Thánh Đức Hiếu Sinh và Giới Thánh Đức Minh Mẫn đã xác định những vị Tăng này
không phải Thánh
mà là Ma Ba Tuần trong
Phật giáo đội lốt Phật
giáo để phá hoại
Phật giáo, khiến
cho tu sĩ đời
sau bắt chước mà
đánh mất Thánh
hạnh của Phật
giáo.
Những Thánh
Đức trên đây đã xác định rõ ràng: ‚Một vị
Thánh Tăng là phải sống với
oai nghi tế hạnh như
thế nào mới được gọi là Thánh, chứ không
phải chỉ có
vài ba thần thông
tưởng mà gọi là
Thánh được‛. Một tu
sĩ gọi là
Thánh Tăng mà
không minh mẫn còn đắm chìm trong
men rượu, còn bưng ly rượu uống thì hành động như vậy làm sao gọi là Thánh Tăng
được. Phải Không quý vị?
Oai nghi tế
hạnh của năm Thánh Đức trên chưa tròn đủ, thì không
được xem đó là một vị
Thánh Tăng của Phật giáo, mà chỉ được xem đó là một tà sư ngoại đạo, dù vị tu sĩ đó có đủ thần thông pháp thuật.
Thần thông pháp thuật chỉ là một phương tiện dùng để lừa đảo người, chứ chẳng
có ích lợi gì cho ai cả.
Năm giới
Thánh Đức trên
tuy sống trọn vẹn, nhưng lại không giữ trọn Thánh Đức
tự nhiên, còn trang điểm
làm dáng, làm đẹp,
còn đeo chuỗi hạt, còn mặc y
áo sang đẹp, v.v.. lúc nào cũng tỏ ra bệ
vệ trong bộ
áo cà sa giống như một vị tướng soái, một quan quyền
của vua chúa, v.v.. (giới thứ sáu cấm không trang điểm).
Cách thức
ăn mặc trang
điểm làm dáng sang đẹp, bệ vệ
oai phong như một tướng lãnh, tất cả những
oai nghi tế hạnh đó không đúng là oai nghi tế hạnh của một vị Thánh Tăng.
Một vị
Thánh Tăng mà
còn trang điểm làm
đẹp thì chưa phải là một vị Thánh
Tăng đúng nghĩa của đạo Phật.
Một vị Thánh
Tăng còn làm dáng, làm đẹp thì đã
đánh mất ý
nghĩa cao quý Thánh
Hạnh của một bậc Thánh.
Ba mươi hai
tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp là thuộc về chấp
tướng của Bà
La Môn Giáo,
chứ đạo Phật không chấp nhận điều này. Chúng ta hãy đọc lại
kinh Sonadanda trong kinh Trường
Bộ thuộc
Tạng kinh Việt Nam
thì sẽ thấy đức Phật bác bỏ tướng tốt và các vẻ đẹp của một
Bà La Môn.
Người tu
sĩ còn trang
điểm sửa sang làm đẹp thì đạo Phật
xem đó là
tà sư ngoại đạo không đúng tư cách của một tu sĩ Phật
giáo.
Đức Phật
chấp nhận các
đặc tướng tự nhiên của
mỗi con người, khi tu
tập theo pháp của Ngài thì không được ức chế làm sai
các đặc tướng đó. Vì các đặc tướng đó hiện có nơi mỗi người là
do nghiệp nhân
quả của nhiều
đời trước, cho nên
tùy theo đặc
tướng mà nhiếp phục tâm mình để ly
tham dục và đoạn diệt các ác pháp, khiến cho tâm thanh tịnh hoàn toàn không còn
ô nhiễm sáu trần. Nhờ tâm không ô nhiễm sáu trần nên bảy giác chi xuất hiện, nhờ
có đủ
bảy giác chi
mà chúng ta sử dụng nhập bốn
định và thực hiện
Tam Minh. Mục đích tu hành là
như vậy, chứ
không phải cần ở chỗ tướng tốt đẹp trai, đẹp gái.
Trang điểm làm đẹp
để có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp mới tu chứng quả
thì không đúng quý bạn ạ!
Trong hàng đệ tử của Phật, ông A
Nan là người có tướng tốt đẹp
trai, nhưng lúc Phật
còn sống ông tu hành có chứng đắc đâu? Ông thường bị người khác
phái quấy nhiễu,
khiến con đường tu hành của ông tiến rất chậm chạp, mặc dù ông rất thông
minh nhớ dai.
Thân này bất tịnh
do bốn đại duyên
hợp lại mà thành ra thân người, nên rất là uế trược,
hôi thối
có gì mà
quý, mà đẹp. Theo
truyền thuyết của Đại thừa thân Phật
có 32 tuớng tốt,
80 vẻ đẹp
nhưng khi Đức Phật
chết người ta đem đốt
còn một nắm
tro tàn và một số
xương vụn cháy chưa hết, gọi là xá lợi, rất là bất tịnh. Khi đốt cháy
tiêu ra tro bụi
thì còn có gì 32
tướng tốt, 80 vẻ
đẹp nữa không? Màu da
vàng ánh như hoàng kim của Phật còn có nữa không?
Bởi vậy
trong 10 giới cấm của thầy
Sa Di giới thứ sáu cấm thầy
Sa Di không được trang điểm làm đẹp
làm dáng, vì
làm đẹp làm dáng có
mục đích nuôi
dưỡng tâm sắc dục. Tâm sắc
dục là tâm dẫn đầu vào con đường sanh tử luân hồi, người
dứt tâm sắc dục là nguời chấm dứt
con đường sanh tử
luân hồi. Nếu
không chấm dứt tâm sắc dục
thì thân tâm khó
mà thanh tịnh, thân tâm không
thanh tịnh thì khó mà nhập các loại
thiền định và khó
mà thực hiện Tam minh
được. Cho nên quý thầy trang điểm y áo sang đẹp chuỗi cỗ, chuỗi tay đi đứng
bệ vệ có người hầu, kẻ hạ, đó
là quý thầy
đã nuôi tâm sắc dục khiến cho người khác phái đam mê
ham thích gần gũi để tạo
duyên sanh ra tình dục. Đức Phật
đã hiểu điều
này nên Ngài
đã nói:
‚Ta không
thấy một sắc
nào cám dỗ và xâm
chiếm tâm người Nam bằng sắc của
người nữ, ngược lại cũng như vậy...”.
Cho nên trang
điểm làm đẹp là
có ý làm cho người
khác phái để
ý đến mình.
Để ý để làm
gì? Để nuôi
lớn tâm sắc dục tức
là tạo thành con đường sanh tử luân hồi mãi
mãi không bao giờ dứt.
Người tu
sĩ Phật giáo
vì sự nghiệp
giải thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi nên phải chấm dứt
tâm sắc dục.
Người nào tu
hành mà còn trang điểm làm đẹp,
làm dáng thì nên trả y áo lại cho
nhà chùa
để trở về thế tục sống
như người cư sĩ còn
quý hơn và
còn không mắc nợ
của đàn na thí chủ.
Chỉ có giới
này sẽ xác định cho quý vị biết căn cơ tu hành của quý vị có tu tới nơi tới chốn
hay không, quý vị tự biết mình rõ hơn ai
hết.
Sáu giới
Thánh Đức trên đây chưa đủ để chấp nhận một vị Thánh Tăng, Thánh Ni đệ tử của Phật. Nếu quý vị sống chưa đủ trọn vẹn
Thánh Đức Hạnh trầm lặng độc cư. Thường
lấy kinh tụng niệm theo
nhịp mõ, tiếng trống
làm công phu tu
hành của mình, thì chúng
tôi e rằng công phu như vậy
chẳng có kết quả gì gọi là
ra khỏi nhà sanh tử luân hồi. Bởi
vì, tụng niệm ê, a giọng cao, giọng thấp theo tiếng chuông tiếng
mõ thì cũng giống như ca hát, cho nên có một nhạc sĩ danh tiếng ở nước ta nghiên cứu và cho
rằng đó
là ca nhạc Phật
giáo. Đúng
vậy chúng
tôi từng nghe
những thầy ứng
phú đạo tràng tụng
niệm giống như ca
hát bộ,
cải lương theo tiếng đàn, tiếng phách, kèn, trống, sáo, tiêu,
v.v.. Cho nên
nghi thức tụng niệm
trong các chùa
hiện giờ là
đi ngược lại Phật
giáo, phạm vào giới cấm
không ca hát hoặc
nghe ca hát của đạo Phật
(giới thứ bảy cấm
không nghe ca hát hoặc tự ca hát).
Bởi vì tụng
niệm hay ca hát là làm mất sự yên lặng trong
không gian của
những bậc Thánh Tăng
đang sống. Khi một tu
sĩ tụng niệm hay ca hát
thì Thánh Đức Trầm Lặng sẽ mất
đi. Thánh Đức Trầm Lặng mất đi thì
đời sống của một
tu sĩ giải
thoát không còn
ý nghĩa. Cho nên giới cấm không ca hát hay nghe ca hát là muốn bảo vệ Thánh
Hạnh Độc Cư để thực hiện
cho bằng được sự giải thoát
sanh tử luân hồi. Một vị Thánh
Tăng phải sống trong Thánh hạnh độc cư
trầm lặng thì mới đầy đủ ý nghĩa của một
bậc Thánh. Một bậc Thánh Tăng không thể nào
dùng tứ thời
công phu của quốc sư Ngọc Lâm tụng niệm ê, a giọng cao giọng
thấp theo tiếng chuông, tiếng mõ, tiếng trống, tiếng kèn, tiếng đàn như ca hát
được. Sống tụng niệm như vậy
có khác nào
là đào kép
hát bộ, hát cải lương, có khác
nào như những ca sĩ trên sân khấu.
Một vị Thánh
Tăng mà chuyên tán tụng niệm tứ thời công phu theo
kiểu Đại Thừa giáo thì không còn
ý nghĩa Thánh đức trầm lặng độc cư nữa. Và như vậy chỉ là một nhà sư tụng niệm
chứ không phải
là bậc chân
tu cầu giải
thoát. Hình thức tụng
niệm chỉ là một Bà
La Môn hành nghề
mê tín kiếm sống như
bao nhiêu nghề khác của thế gian.
Một người tu
sĩ Phật giáo mà không sống trầm lặng độc cư
được thì rất khó cho
vị ấy muốn giữ gìn tâm không phóng dật.
Và con đường tu tập chứng quả
A La Hán
không còn nữa. Bởi vậy, một vị tu sĩ phải thấy Thánh đức trầm lặng độc cư là
một hành động
mang đến một đời sống Thánh
thiện. Đời sống
Thánh thiện độc cư trầm lặng là một bí quyết để thành tựu thiền
định và Tam Minh. Nếu
ai tu hành mà
sống không đúng
Thánh đức này
thì sự tu hành hoài
công vô ích, dù
có tu suốt
bao nhiêu đời cũng không
nhập định được và
cũng không thể thực hiện Tam Minh
được.
Cho nên
Thánh Đức Trầm Lặng Độc Cư là một thánh hạnh quan trọng nhất cho một người tu
sĩ tìm tu giải thoát.
Sống với
Thánh Đức Trầm Lặng Độc Cư
như vậy còn chưa đủ mà còn phải sống đúng Thánh Hạnh Thiểu Dục.
Một vị
Thánh Tăng mà
còn nằm giường cao rộng lớn, gỗ quý
sang đẹp thì mất hết ý
nghĩa giải thoát của vị Thánh Tăng. Người tu sĩ còn nằm
giường cao rộng lớn
là người sống không
thiểu dục tri túc,
không đúng hạnh của
người tu sĩ Phật giáo (giới thứ tám cấm không nằm giường cao rộng lớn).
Đức Thiểu Dục
Tri Túc rất cần thiết để lập thành Thánh
hạnh của một bậc Thánh
Tăng, của một du Tăng khất sĩ.
Phật dạy:
‚Cạo bỏ râu tóc, đắp
áo cà sa, sống
không nhà cửa, không gia đình, ba y một
bát, tâm hồn trắng
bạch như
vỏ ốùc, phóng khoáng
như hư không‛.
Qua lời dạy này chúng ta xét thấy: ‚Một đời sống Thánh thiện là phải
thiểu dục tri túc tận cùng như vậy, mới được
gọi là bậc Thánh giải
thoát, còn sống
ngược lại thì
không giải thoát‛. Như vậy, chúng
ta xét thấy
các nhà tu Đại thừa có chùa to Phật lớn, có vật chất thế gian đầy đủ,
tu như vậy
có lập hạnh
thiểu dục tri túc chưa? Tu như vậy có giải thoát chưa?
Xin các bạn nên
lưu ý. Người
tu sĩ Phật giáo
thiểu dục tri túc,
thường lấy gốc
cây làm giường nằm, lấy tay làm gối, lấy trời làm màn, lấy
đất làm chiếu,
có sống như vậy mới xứng
đáng là bậc Thánh
Tăng, Thánh Ni trong
đạo
Phật.
Tám Thánh đức
trên đây
chưa đủ cho một vị Thánh
Tăng, Thánh Ni đệ
tử của Phật,
mà còn phải sống cho trọn với Thánh đức ly dục.
Một vị
Thánh Tăng, Thánh
Ni mà còn ăn uống nhiều bữa như: sáng ăn, trưa ăn, chiều
ăn, có khi tối còn ăn thêm thì còn nghĩa lý gì gọi là Thánh Tăng, Thánh Ni ly dục.
Một vị Thánh Tăng, Thánh Ni thường
sống ly dục,
nên ngày chỉ ăn có một bữa cơm, đủ để
nuôi sống thân tứ đại, và luôn luôn tích cực làm lợi ích cho chúng sanh
bằng gương Thánh hạnh, bằng những lời dạy đạo đức chân
tình, bằng những lời
khuyên nhủ an ủi thiết tha để
giúp cho mọi người thoát ra hoàn
cảnh khổ đau, như
vậy, ngày một bữa
cơm mới thật sự xứng đáng thọ dụng của đàn na tín thí, còn ngược lại
ăn nhiều quá, ba bốn bữa trong ngày thì không xứng đáng thọ dụng. Tu sĩ
mà ăn
nhiều bữa là
mang nợ của
đàn na thí chủ, kiếp này trả chưa xong thì kiếp khác phải trả nữa, trả mãi
mãi... (giới thứ chín cấm không ăn uống phi thời).
Thân tứ đại
là khối bất tịnh, hôi thối, uế trược
có gì là tốt đẹp,
quý báu
đâu mà ta phải
xem nó là quan trọng. Hằng ngày nó phải
luôn luôn tiếp nhận tứ đại bất tịnh
bên ngoài (thực
phẩm). Nuốt
vào những thứ bất tịnh
hôi thối ấy, có hạnh phúc
gì đâu mà chúng
ta ưa thích. Những người ưa thích
thực phẩm, ưa thích ăn uống là những
người ngu si,
vô minh; đồ ăn
uống là
bất tịnh uế trược mà cứ mãi
mê tham ăn thì thật
là đáng trách
đáng chê. Cuộc sống
của họ
chẳng có ý
nghĩa gì, chỉ ăn, ngủ, đi cầu và
dâm dục, toàn là sống trong
sự nhiễm ô bất tịnh. Đời sống của họ, họï đang chui vào
một cái bao đựng đầy đồ hôi thối. Thật
là đáng thương
vậy!
Cuộc sống
con người chỉ còn biết bon chen chà đạp,
tranh đấu giết hại lẫn nhau bằng cách này
hoặc cách khác
cũng chỉ vì ăn,
ngủ, đi cầu và
dâm dục… Thật là
vô vị không
có nghĩa lý gì
cả.
Sống chỉ
có thích những
điều tệ hại, bất
tịnh như vậy, mà mọi người hãnh diện một cách hả hê khi
đạt được mục đích ấy.
Đạt được mục đích để làm gì? Để mà khổ đau. Phải không các
bạn?
Thánh Đức Ly
Dục giúp cho chúng ta sống trong cuộc đời đầy đau khổ mà
thoát ra đau khổ, giúp
cho chúng ta liễu
sanh thoát tử, giúp cho chúng ta làm chủ sanh, già, bệnh, chết
và chấm dứt luân hồi. Vì thế,
ăn ngày một bữa là
chúng ta ly
dục, ly si, ly sân và lìa sắc dục một cách rõ ràng và cụ thể.
Người sống
ngày ăn một bữa thì ít ham ngủ nghỉ, thường tỉnh thức, về
thân thì sắc dục cũng giảm bớt, về tâm thì sân hận cũng lui bước
v.v..
Thánh đức
ăn ngày một bữa đã
giúp cho tâm hồn chúng ta thanh
thản trong cái ăn, cái ngủ, cái sắc dục, cái giận hờn và tất cả bệnh tật trong
thân cũng được giảm xuống một cách rõ ràng,
chứ không như
các nhà Đại thừa tham dục
ăn uống ngày
ba bốn bữa, nên
thường lý luận ăn nhiều sẽ
có sức khỏe để tu tập, còn ăn
ít ngày một bữa là ép xác tu hành không chứng đạo. Lối lý luận
này là phi Phật giáo.
Tại vì Thầy trò của đức Phật ngày
xưa đều ăn ngày chỉ có một bữa mà chứng đạo.
Thời nay mọi
người vì không hiểu biết Thánh Hạnh Ly Dục, nên lý luận theo kiểu tà giáo ngoài
đạo tham ăn, tham uống, tham ngủ, tham dục lạc thế gian, tham giàu sang danh tiếng, nên
quý thầy theo
kinh sách phát triển thường
sống bệnh tật khổ đau, đi
bác sĩ, nằm nhà
thương và thuốc thang uống không bao giờ
dứt.
Nếu muốn biết
rõ một vị Thánh Tăng đệ tử của đức Phật thì
hãy xem đời sống của họ. Họ
sống đúng
mười Giới Đức
Thánh Sa Di, không hề
vi phạm, nhất là
ngày ăn một bữa chỉ để
nuôi thân. Chính
lối sống như vậy
tâm họ mới ly
dục. Nhờ tâm
ly dục nên
oai nghi tế hạnh
của họ thể hiện rõ
ràng qua mọi hành động
sống mà ai cũng dễ nhận thấy, đó là sống đúng Thánh hạnh của một tu sĩ giải
thoát. Do Thánh hạnh này mà
không có một
người nào dám khinh chê nhạo báng Phật giáo.
Hiện giờ Phật
giáo bị mọi người khinh chê, phỉ
báng là do những
tu sĩ Bà
La Môn mượn danh
Phật giáo, phá mười Giới Đức Thánh
Sa Di không còn một giới nào là không phạm, họ sống không
hiếu sinh, không
buông xả, thân tâm không thanh tịnh, không chân thật,
không minh mẫn, không thiểu dục, không
đơn giản, không sống trầm lặng độc cư, không ly dục, không ly
tham. Do không sống
đúng đời sống của
một tu sĩ
Phật giáo nên
họ đánh mất Thánh
hạnh khiến cho mọi
người khinh chê, phỉ
báng và xem thường
Phật giáo. Trước
mặt thì họ chắp tay
xá lạy, làm ra
vẻ kính
trọng, nhưng sau lưng họ
xem quý thầy
chẳng ra gì. Họ gọi quý thầy bằng
thằng thầy chùa
này, bằng thằng thầy chùa kia, quý Thầy có biết không?
Chín Giới Đức
Thánh trên đây chưa đủ để xác định là
một vị Thánh
Sa Di, nếu một
tu sĩ giữ gìn trọn vẹn chín giới
trên đây mà giới thứ mười không tròn đủ người
tu sĩ này còn cất giữ tiền bạc của
báu. Còn cất giữ tiền bạc của báu là chưa sống một đời sống ba y một bát của một
vị Thánh Sa Di. Nếu đời sống của một vị Thánh Tăng chưa ly tham, còn cất giữ tiền
bạc, chưa có lần nào mặc
chiếc y phấn tảo (vải bỏ
thô xấu) thì chưa xứng đáng là một
vị Thánh Tăng (giới thứ mười cấm cất giữ tiền bạc châu báu).
Nếu đời sống
của một vị Thánh Tăng mà sống không ly
tham, không thiểu
dục tri túc, còn cất giữ tiền bạc
thì làm sao tâm hồn trắng bạch
như vỏ ốc,
phóng khoáng như
hư không được.
Cho nên giới
thứ mười Phật dạy: ‚người tu sĩ không được cất giữ tiền bạc của
báu‛. Không cất giữ tiền bạc của báu
là Thánh hạnh ly
tham. Người tu
sĩ sống được như
vậy mới được gọi là Trưởng Lão
Thánh Tăng, Thánh Ni.
Một bậc
Thánh Tăng, Thánh Ni đã ra khỏi cuộc đời đầy
ô trược và
các ác pháp thì không còn bị nô lệ cho tiền bạc, không còn
bị nô lệ cho tiền bạc mà còn cất giữ tiền bạc, thì làm sao ra khỏi cuộc đời đầy
ô trược và ác pháp. Bởi vì còn cất giữ
tiền bạc là còn bị tiền bạc chi phối tâm
hồn. Người
còn bị tiền bạc chi phối tâm hồn thì người ấy chưa phải là Thánh Tăng, Thánh
Ni. Cho nên, những
người mới tu tập mà cất giữ tiền
bạc thì tâm hồn
còn bị chi phối bởi tiền
bạc thì thử hỏi
làm sao tránh khỏi
tâm không phóng dật, phóng niệm.
Thánh Hạnh Ly
Tham mà không
giữ trọn vẹn thì đi tu cho mất
công, chỉ mất thời gian vô ích chứ có ích lợi gì cho bản thân.
Muốn đạt được
thiền định và Tam
Minh mà tâm còn phóng dật, phóng niệm thì làm sao đạt được thiền định,
Tam Minh.
Còn cất giữ tiền bạc thì tâm
làm sao ly dục được, vì
tiền bạc là một ác
pháp, là một chướng
ngại pháp rất lớn
cho con đường tu tập giải thoát của Phật giáo.
Tâm không
phóng dật, phóng
niệm thì tâm sẽ nhu nhuyễn dễ sử dụng,
tâm có nhu nhuyễn dễ sử dụng thì mới đạt
được chỗ rốt ráo thâm sâu của đạo Phật.
Xưa đức Phật
đã chẳng bảo: ‚Ta thành chánh giác là nhờ tâm không phóng dật‛.
Bây giờ quý
vị Tăng, Ni cứ khư khư cất giữ tiền bạc như
các nhà sư Đại
thừa, thì làm sao tâm
quý vị không
phóng dật. Tâm
phóng dật
thì dù quý vị có
tu trăm muôn
ngàn kiếp cũng chỉ uổng công mà thôi.
Đối với đạo Phật
người tu sĩ
còn cất giữ tiền
bạc là chưa xứng
đáng làm Thầy
ai cả. Vì Thánh
hạnh ly tham
chưa tròn đủ thì người
tu sĩ này cũng
chỉ là một
người tầm thường
như bao nhiều người khác. Ngoài chiếc áo cà sa, với chiếc đầu cạo trọc,
hiểu biết lặp lại những tưởng giải của người
xưa tức là
bã mía của một số kinh sách
phát triển Đại thừa và những bài kinh nghi
thức tụng niệm của Ngọc
Lâm quốc sư trong thời đại triều
nhà Thanh bên Trung Quốc, chứ tâm họ
cũng chỉ là tâm tham, sân, si như bao nhiêu
người khác. Họ không
có những kinh nghiệm tu tập giải
thoát để truyền đạt lại cho chúng
ta. Vì thế họ đâu xứng đáng
làm thầy.
Kính thưa
quý vị! Khi chưa ra khỏi nhà sanh tử tức là tâm quý vị chưa ly tham đoạn
ác pháp thì quý vị còn ham thích tiền bạc.
Nếu muốn xa
lìa tâm tham thì quý vị phải giữ gìn giới
không cất giữ tiền bạc
cho nghiêm túc. Tại sao các
thầy tu theo
kinh sách phát triển không ly tâm
tham được?
Tại vì
quý thầy còn cất giữ tiền bạc. Cất
giữ tiền
thì tâm tham làm
sao quý thầy lìa được. Vì thế, các Tổ dựa vào giới kinh của Phật
mà chế ra giới
cấm này là để giúp cho quý thầy ly tham
đoạn ác pháp.
Một vị được
gọi là Thánh Tăng, Thánh Ni mà
còn cất giữ tiền bạc
thì làm sao gọi là
Thánh được. Phải không các bạn?
Thánh mà còn
cất giữ tiền bạc thì đó là Thánh ‚dỏm‛, chỉ là một phàm phu tục tử còn ham
thích sống trong cuộc đời này, cuộc đời đầy ô
trược và ác pháp. Còn cất
giữ tiền bạc là quý vị chưa muốn
ra khỏi biển đời bất tịnh, ô trược nhiều
cay đắng và khổ
đau. Hầu hết các
nhà Đại thừa vẫn còn ham thích lặn hụp trong biển trần tục, nên tiền bạc,
chùa to Phật lớn họ chưa buông bỏ được.
Tóm lại, Mười
Giới Đức Thánh Sa Di mà một người tu
sĩ Phật giáo
cũng như người cư sĩ muốn tìm tu giải thoát ra khỏi nhà sanh
tử luân hồi thì phải giữ
gìn trọn vẹn những Thánh hạnh này.
Dù tu
sĩ hay cư sĩ
mà đã giữ trọn vẹn 10
giới cấm
này, sống đúng
10 thánh hạnh
thì chúng tôi bảo
đảm con đường
giải thoát sẽ không còn xa nữa, chắc chắn họ sẽ đạt được
kết quả làm chủ thân tâm như ý muốn.
Mười Giới Đức
Thánh Sa Di này, nếu ai sống nghiêm chỉnh không hề vi phạm trước mặt
cũng như sau
lưng thì những tu sĩ này là những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni tại thế gian mà
không còn phải
tu tập gì nữa
cả. Còn những
ai là tu sĩ mà sống không đúng mười giới Thánh Đức này
thì chỉ là một
loài Ma Ba Tuần trong Phật giáo.
Chỉ có mười giới này
mà thôi, quý vị cư
sĩ sẽ nương vào đó mà chọn cho mình một
vị Thầy gương mẫu Thánh hạnh, một vị Thánh Tăng, Thánh Ni xứng đáng để cho quý
vị cung kính cúng dường và
tôn trọng, để cho
quý vị
lấy đó làm gương hạnh buông xả
nơi tâm mình, để cho quý vị noi theo
gương hạnh đó, thì ngay đó quý vị sẽõ
tìm ra một lộ trình cứu
cánh chân chánh cho chính mình.
Chỉ có mười giới
này mà thôi,
quý vị sẽ nương vào
đó mà không
còn sợ lầm đường, lạc lối,
không còn sợ
tu sai lạc
vào tà giáo
ngoại đạo, lạc vào cảnh giới tưởng, thiền tưởng v.v..
Chỉ có
10 giới này
mà thôi, quý vị sẽ nương vào đó mà nhận xét ai là Thánh Tăng,
Thánh Ni và ai
là Ma Vương đội lốt Phật giáo để lừa gạt tín đồ.
Chỉ có mười
giới này mà thôi, Phật giáo sẽ hưng thịnh
hay suy tàn, quý vị đều nhận
thấy rất rõ ràng, không còn bị ai lừa dối được.
Những lời
chúng tôi nói trên đây có những điều chi sơ sót mong quý vị cảm thông. Vì ước
muốn của chúng tôi là tu sĩ Phật giáo phải ra tu sĩ Phật giáo, đời thì phải cho
ra đời, đạo thì phải cho ra đạo, đừng để đạo
đời lẫn lộn mà nguy hại đến thanh danh của Phật giáo.
HẾT PHẦN I
PHẦN
hai
VĂN HĨA
SA DI
à
Lời nói đầu
Khi biên sộn Mười Giới Đức Thánh Sa Di tập
I, chúng tơi dựa theo bộ Giới Bổn Patimoka (Ba La Đề Mộc Xoa) thuộc Hán Täng.
Đọc läi tồn bộ sách này chúng
tơi câm thçy việc
biên sộn Giới Đức Thánh Sa Di cị
phỉn thiếu sịt rçt lớn về
oai nghi tế hänh cûa một tu sï Phật
giáo, nhưng khơng phâi là sự thiếu sịt 24 oai nghi tế hänh do các Tổ
đã biên sộn lưu hành trong các chùa. Bộ
giới luật Sa Di chỵ cị giới cçm mà thiếu sịt Giới Đức, Giới hänh, Giới
Hành, khiến cho người
đọc giới khơng biết pháp hành và sống
như thế nào để sống
được đời sống Phäm
hänh mà khơng
hề vi phäm một lỗi
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!