Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

VĂN HÓA PHẬT GIÁO TRUYỀN THỐNG TẬP 1-9


nhĩ nhặt nào trong giới bổn.  Cho nên, bộ giới luật
phỉn đỉu này  chúng tơi biên sọan  chỵ nịi lên được phỉn giới Đức Thánh  thuộc tiểu giới cûa giới tướng, cđn phỉn giới hänh và giới hành đäi giới tướng thì chưa cị, cho nên  chúng tơi  muốn bổ sung  thêm cho Mười Giới Đức Thánh  Sa  Di này  được đỉy đû  hơn, vì thế  chúng  tơi  phâi   dựa   theo  lðch sử  Phật   giáo trong  Giới Kinh mà biên sộn. Vậy giới kinh cûa Thỉy Sa  Di mà đức Phật  đã däy  là những  bài kinh nào?
Như  các bän đã biết trong lðch  sử Phật  giáo Thỉy Sa  Di đỉu tiên trong  Đäo Phật  là Thỉy Sa Di La Hỉu La. La Hỉu La là đứa con trai  độc nhçt cûa đức Phật,   được đức Phật  chçp nhận  cho xuçt gia vào lúc cđn bé thơ mới 10 tuổi 3.
Trong Kinh Trung Bộ, tập 2 và tập  3 thuộc täng  kinh Việt Nam,  cị ba bài kinh däy  về giới hành



3  “Thập Đại Đệ Tử Chuyện” có ghi  La  Hầu La xuất gia
năm mười tuổi.

Văn hóa Phật giáo truyền thống – tập 1

cho những  người  cđn trê tuổi mới vào tu tập.  Đị là những  bài kinh đức Phật  đã  däy  giới luật  về  giới đức,  giới  hänh  và giới  hành  cho La  Hỉu La.  Những bài   kinh  đị  cị tên   là  kinh  Giáo   Giới  La  Hỉu  La  ở rừng  Am - Bà - La (Ambalatthika Rahulavadasuttam),   Tiểu Kinh  Giáo  Giới La  Hỉu La  và  Đäi  Kinh  Giáo Giới La Hỉu La.
Ba  bài kinh này chúng tơi triển khai biên sộn thành  một  bộ  Giới Hänh  và Giới Hành  Đức Thánh Sa Di phỉn II së mang  läi  đỉy đû  những  oai nghi chánh hänh trong  Giới Hành cûa một Thỉy Sa Di đúng nghïa cûa đäo Phật,  từ phàm phu trở thành một bậc Thánh A La Hán vơ lậu hồn tồn.
Việc làm này  cị mục đích hẳn hoi là chçn chỵnh läi bộ luật Sa Di mà từ xưa đến nay trong các chùa
đều lçy  đị làm sách gối đỉu nằm  cho các vð  mới xuçt gia tu học.
Kính  thưa  các bậc tơn  túc đức cao, trí  rộng! Nếu trong  bộ giới luật  này  cđn cị những  điều chi sơ


sịt,  xin các bậc Tơn  Túc vui lđng  chỵ däy  cho. Chúng
tơi thành thật  muơn vàn biết ơn khi nhận  được những  cao kiến để kỳ tái  bân  tới së cị sự bổ sung thêm cho bộ sách được hồn  chỵnh hơn.
“Một  cåy làm chẳng nên non, ba cåy chụm läi nên  hđn núi  cao”,  một  mình khơng thể làm nên  việc lớn  cho muơn  người, làm  lợi  ích  chung   cho  Phật giáo,  mà  cỉn phâi  cị nhiều người  chung lưng đåu cật cùng làm. Vì muốn đem läi  lợi ích cho những người  tu theo Phật  giáo cị tåm  huyết, cị ý chí quyết tìm đường  giâi  thốt  ra  khĩi bốn  sự đau  khổ cûa kiếp người: sanh, già, bệnh,  chết, cho nên chúng tơi khơng  nệ  tài  hèn trí  mọn  biên  sộn  bộ  sách này, khởi đỉu làm tiếng  chuơng cânh tỵnh,  nên khơng thể tránh khĩi những  sự thiếu khuyết, kính mong quý vð lượng thứ cho.
Kính ghi,
Trưởng  lão Thích Thơng Läc




























TIỂU SỬ

LA HỈU LA



LỜI GIỚI  THIỆU

LỊCH SỬ SA DI ĐẦU TIÊN
TRONG ĐẠO PHẬT




Muốn  tìm hiểu về   Giới  Luật,  Giới Đức, Giới Hạnh  và Giới Hành của người mới  vào tu tập theo Phật giáo, mà trong giới tín đồ  đạo Phật thường gọi là Thầy Sa Di. Vậy Giới luật, Giới đức, Giới  hạnh và Giới hành của Thầy Sa Di như thế nào? Những bài kinh nào  dạy về  giới đức, giới hạnh và giới hành đó và   ở đâu?

Muốn tìm hiểu được những điều này  xin các  bạn vui lòng đi ngược lại dòng lịch sử cách đây 2555 năm  để nghiên cứu một Thầy   Sa Di trong những thầy Sa Di đầu tiên trong Phật giáo. Đó là Thầy Sa Di La Hầu La.



LA HỈU LA

MẬT HẠNH ĐỆ NHẤT


CẬU BÉ HẠNH  PHÚC

Đức  Phật  của  chúng  ta,  khi còn  là  Thái Tử  của  Vương Thành  Ca Tỳ  La, đã  kết  hôn với Công  Chúa  Da Du Đà  La  thành  Câu  Lợi. Vào năm  Thái  Tử  và  Công  Chúa  19 tuổi4   thì sanh hạ  La  Hầu  La.  Thái  Tử  rất  vui  mừng,  nhưng không phải sự vui mừng như tình thương người đời  khi sinh  con, mà  vì Thái  Tử  nhiều  lần  xin vua cha đi xuất gia đều không được chấp thuận. Vua  Tịnh Phạn  có  nói:  “Trừ  khi nào  có  được đứa  cháu  đích  tôn  thì mới  cho phép  Thái  Tử
xuất  gia”5. Hiện tại  Thái  Tử  có  La Hầu La như



4  “Thập Đại Đệ  Tử  Chuyện”  ghi  lại  năm Thái  Tử  19  tuổi khi Da Du Đà  La sanh La Hầu  La được 7 ngày  thì  Thái Tử rời hoàng cung vào ngày mùng 8 tháng 2 đi xuất gia.
5   Người  viết  lịch  sử  này  có  ghi  rõ  ngày,  năm,  tháng,
không  biết  có  đúng  thật  sử  không?  Ở   đây chúng  tôi chỉ ghi  lại  theo  bản dịch  của  Sư Cô  Như  Đức,  xin  các  bạn cảm  thông,  vì đây  không  phải là  những  trang sử  nói  về La Hầu  La mà  là  những  trang kinh  nói  về  giới  luật  của Thầy  Sa Di,  nhưng  theo  ngày  tháng  này  được  hệ  phái Bắc Tông chấp nhận


ý Phụ Vương, nguyện vọng xuất gia sẽ đạt được, bảo sao Thái Tử không vui mừng.
Trong  đêm  Thái  Tử   sắp  rời  hoàng  cung, vào  ngày  mùng  8  tháng  2, lúc  ấy  La  Hầu  La mới sinh  được 7 ngày. Vương Phi Da Du Đà La đang ôm La Hầu La trong tay và nằm ngủ. Thái Tử  vén  rèm  nhìn  hai  người  lần  cuối,  và  quay lưng, leo lên lưng ngựa, vượt thành ra đi. Từ đó, La Hầu La đã  mất bóng người cha thân yêu của thế gian.
Nhưng  Thái  Tử   xuất  gia  tu  hành  thành Phật,  từ  một  Thân  phụ  đổi  thành  Thân  sư, về sau độ La Hầu La thành chánh quả, đó mới thật sự người cha đệ nhất của thiên hạ.
La  Hầu  La  mất  cha, được mẹ  và  ông  nội thương yêu, là vương tôn độc nhất vô nhị. Chuỗi ngày vô tư lự trôi qua trong cung điện, đến khi vừa hiểu biết, trong  tâm hồn trẻ thơ của La Hầu La  cũng  cảm  thấy  không  có  cha  là  một  điều đáng buồn. Nhưng  bù lại, cậu bé được mẫu thân rất  cưng chiều, đó  là  niềm  vui duy nhất  của La Hầu  La,  là  nguồn  an  ủi,  là  người  che chở  cho cậu. Trong  thâm cung vắng vẻ, La Hầu La cũng là  nguồn  hy  vọng  của  Vương  Phi,  hai  mẹ  con nương nhau cùng sống qua năm tháng.
Có  người  nói  Da  Du  Đà  La  phận  nữ  nhi khổ mệnh, La Hầu La là đứa bé bất hạnh đáng


thương,  nhưng  đó  là  nói  theo  thường  tình thế gian.  Nỗi  khổ  tâm,  đáng  thương  của  họ  chỉ trong  thời  gian  ngắn.  Hễ  có  hy  sinh  lớn  tất thành  tựu  kết  quả  lớn.  Về  sau, nhờ  sự  hóa  độ của  đức  Phật,  Da Du Đà  La  và  La Hầu  La đều xuất gia tu hành được chứng quả A La Hán. Đó mới  là  bậc  nữ  lưu  vinh  hạnh  nhất,  và  đứa  bé hạnh phúc nhất.
Trước giờ cáo biệt, Thái Tử cũng định bế đứa con đang ngủ một tí, nhưng sợ làm động Da Du Đà  La  thức  dậy,  lại  cản  trở  việc  xuất  gia, nên  khi nhìn  con lần  cuối,  Ngài  đã  nói:  “Hãy đợi  đến  khi  Ta  thành  Phật,  sẽ  trở  lại  thăm con”. Đức Phật xem tất cả chúng sanh như La Hầu La, một La Hầu La không quan trọng bằng vô số  La Hầu La đang trông đợi tình thương của Phật.  Đức  Phật  đã   ban  cho  chúng  sanh  bao nhiêu lòng thương rộng lớn, thì ở  trong hoàn cảnh  của  La  Hầu  La,  lại  càng  dễ   được hưởng lòng từ bi của Phật. Cho nên chúng ta đừng cho rằng sự việc La Hầu La mất phụ thân từ nhỏ là bất  hạnh đáng thương. La Hầu La, con của bậc đại  Thánh,  được  nuôi  dưỡng  trong  tình thương cao rộng như trời đất, là một cậu bé hạnh phúc nhất đời.

CẬU BÉ KHÔNG BIẾT MẶT CHA


Đức  Thế  Tôn  thành  đạo  được ba năm,  từ nước   Ma  Kiệt   Đà   phương  Nam   về   thăm   cố hương. Trên từ vua Tịnh Phạn, dưới đến nhân dân dòng họ Thích,  đều ra ngoài thành nghênh đón Phật, chỉ có Da Du Đà La và La Hầu La không tham dự trong  đoàn người ấy.
Trong tâm bà Da Du nghĩ thầm: “Khi Ngài đi xuất gia, ta đã vì Ngài chịu hết mọi nỗi khổ, Ngài mặc y phục bạc màu, ta ở  trong cung cũng mặc giống Ngài, ta nghe Ngài tu khổ hạnh ăn ngày một bữa, ta cũng tập làm  theo. Ta đối với Ngài như vậy, thật hết lòng, nếu Ngài còn nghĩ đến ta, tự nhiên sẽ đến cung thăm ta’’.
Mười năm không gặp Phật, lòng Da Du Đà La  cũng  như  mọi  người  đều   muốn  diện  kiến Ngài nhưng vì lễ phép, vì tự tôn, bà phải nhẫn nại. Bà  ngồi  trên  lầu  cao nhìn  ra sẽ  thấy  được cảnh mọi người nghênh đón đức Phật.
Cậu  bé  La  Hầu  La  lên  mười  tuổi,  đến  nói với mẹ:
- “Mẹ,  mẹ!  Ba  con  đã  về!  Bà  nội  bảo  con cho mẹ hay”.
La Hầu La ngây thơ lúc ấy nào hiểu được tâm sự của mẫu thân, cậu chỉ thấy mẹ của mình hôm  nay  sao nghiêm  nghị  quá,  nhưng  dù   sao cậu cũng là con yêu nên lại ngây ngô hỏi:


- “Mẹ, mẹ! Coi người ta ở  ngoài cung  điện nhiều  biết  bao nhiêu,  ba con nhất  định  cũng  ở trong đó. Ba con ra sao?”.
Câu nói từ miệng cậu bé không biết hình dáng ba mình  ra sao, càng khiến Da Du Đà La thương  tâm.  Nỗi  lòng  của  người  lớn,  trẻ  con hoàn toàn không thể biết.
Bà  Da  Du  một  tay  kéo  La  Hầu  La  bên mình  chỉ ra cửa mắt rướm lệ nói:
- “Con nhìn xem  trong số các Thầy Sa  Môn kia,  người  có  vẻ  trang nghiêm  nhất  chính  là Phụ thân của con”.
- La Hầu  La  mở  to  đôi  mắt  nhìn  theo  tay

mẹ.



- “Con chẳng nhận được Phụ thân đâu, con

chỉ biết có ông nội, còn người nữa là mẹ, mẹ yêu
quý thôi”.

Một  giọt nước  mắt  của  bà  rơi xuống  mái tóc La Hầu La, bà nắm tay con trở lui vào cung.
Xa cách mười năm, hôm nay Da Du Đà La mới thấy lại đức Phật một lần; mười năm không tin tức thoáng qua như giấc mộng trong tâm tư của  bà.  Tâm  hồn  Bà  xao xuyến  như  mặt  nước yên tỉnh bị ném trúng một viên đá, những gợn sóng  lao xao. Đức  Phật  biết tâm  tưởng  bà,  nên


dắt  Xá  Lợi Phất  và  Mục  Kiền  Liên  vào  cung thăm viếng.
Cuộc gặp gỡ giữa một Đấng Chánh Giác và một vị vương phi mỹ lệ  khiến lắm kẻ lưu ý. Đức Thế Tôn trang nghiêm, yên lặng, một chút từ bi thương  xót  nhìn  Da  Du  Đà  La  đang  quỳ  dưới chân, La Hầu La quỳ bên cạnh. Da Du trăm mối ngổn  ngang  bên  lòng,  xúc  động  rơi nước  mắt. Bà  cũng  biết  giữa  đức  Phật  và  bà  có  một  sự ngăn  cách  không  thể  vượt  qua. Đợi  cho Da Du bình  tĩnh  lại,  Đức  Thế  Tôn  mới  chậm  rãi  nói với bà:
- “Để  cho  nàng  chịu nhiều  tân khổ,  tuy  đó là  sự  thiếu  sót  của  Ta,  nhưng  Ta  đã  vì  tất  cả chúng  sanh mà  ra đi, hôm  nay Ta đã  đạt được bổn nguyện, nàng hãy hoan hỷ cùng với Ta”.
Đức  Phật  nói  xong, lại  nhìn  sang La  Hầu
La, từ hoà vỗ về cậu bé:

- “Thật mau quá! Con  đã lớn như thế ư!”.

Đức Phật dường như rất vô tình, và cũng dường  như  rất  tình cảm,  thái  độ  của  Ngài,  đã khai  thị  cho  Xá  Lợi Phất  và  Mục  Kiền  Liên nghe xong tưởng chừng như phải khóc một trận mới hả.
La Hầu La bây giờ chẳng biết phải gọi Phụ thân  của  mình  như thế  nào.  Xưng hô  là  ba, ba


ư? Đây là một bậc Thánh trang nghiêm, tự miệng cậu  bé  chẳng  dám  gọi  như thế.  Xưng hô là  Phật  Đà  chẳng  biết  trúng  hay  không.  Nhìn bao nhiêu vị Tỳ Kheo, Sa Môn đi theo đức Phật trong tâm cậu bé thông minh  ấy đã khởi nghĩ: Đức Phật chẳng phải là Phụ thân của riêng một mình  ta, Phật là một bậc đại Từ  Phụ của tất cả chúng sanh.
Chỉ có mười tuổi, đã  chịu nguyện đem Phụ thân của riêng mình hiến cho chúng sanh làm đấng Cha lành, thật là một cậu bé chẳng tầm thường!

THẦY SA DI ĐẦU TIÊN

Đức Thế Tôn ở  tạm trong hoàng cung vài ngày,  và  đây  là  lần  đầu  tiên  trong  cung điện vắng bóng cung nữ, chẳng có yến tiệc rượu chè, chỉ có 1000 vị Tỳ Kheo theo Phật, cung điện hoàng gia tạm thời trở thành Tăng phòng Tịnh
xá.

Đức Thế Tôn biết các Thầy Tỳ Kheo sơ học nếu  ở    lâu  trong  vương  cung  dễ   sanh  tâm  so sánh với lối sống đạm bạc của Tăng đoàn, nên chỉ  vài  ngày  sau Ngài  đưa đại  chúng  về  trụ  tại rừng  Ni Câu  Đà,  cách  thành  Ca Tỳ  La  không xa.


Tuy ở  rừng Ni Câu Đà, nhưng Đức Thế Tôn cũng thường về hoàng cung trì bát khất thực hoặc thuyết pháp. Cậu bé La Hầu La ngây thơ một cách dễ thương, thân mật nói với Ngài:
- “Phật  Đà  con  rất  thích được  ở   chung với
Ngài”.

Câu  nói  ấy  đã  biểu  lộ   phụ  tử  tình thâm, Đức Thế Tôn cũng trả lời:
- “Rồi  cũng  có  ngày  Ta  cho con sống  gần bên Ta”.
Phật  nói  câu  ấy  không  lâu,  quả  nhiên  La
Hầu La xuất gia theo luôn bên Ngài.

Nguyên nhân là vì Da Du Đà La thường khuyến khích  La Hầu La thêm hoạt bát lanh  lẹ, mặc quần áo đẹp cho, và bảo con rằng:
- “Con  hãy  theo Phụ  thân  xin   tài  sản  đi. Cha con có  những  châu  báu  mà  chúng  ta chưa được thấy!”.
Do  đó,  La  Hầu  La  thường  chạy  theo  đức
Phật nói:

-           “Phật Đà cho con gia tài”.

Một hôm, đang lúc Đức Thế Tôn khất thực trở  về  rừng  Ni Câu  Đà,  Ngài  đi  trước,  La  Hầu La chạy theo sau chẳng có ai ngăn cản cậu, cậu cứ lẽo đẽo theo sau Phật kêu:


- “Cho con gia tài a! Cho  con gia tài a!”.

Da Du Đà  La nhìn  thấy  đứa  con duy nhất đi sau lưng Phật, rất  sợ La Hầu La bị đưa xuất gia, bất giác rơi nước mắt.
Đức Phật về đến rừng gọi Xá Lợi Phất đến

nói:



- “Xá  Lợi Phất!  Cậu bé  La Hầu La, cứ theo

Ta xin  gia tài, Ta không  muốn  cho La Hầu  La thứ tài  sản  và hạnh phúc mong manh, Ta muốn cho La Hầu  La thứ  gia tài vô giá.  Này,  Xá  Lợi Phất! Ông hãy cho La Hầu La xuất gia, làm Sa Di đầu tiên của Tăng đoàn”.
Đức Phật nói xong, gọi Mục Kiền Liên cạo tóc cho cậu bé, lại lễ  bái Xá Lợi Phất làm Thầy Bổn Sư truyền giới Sa Di cho La Hầu La.
Đó là khởi nguyên của chúng Sa Di.

La  Hầu  La  vốn  là  tất  cả  hoài  bão  của  Bà Da Du, bây giờ đã  gia nhập Tăng đoàn, đó  cũng là dụng ý của đức  Phật. Khi còn là Thái Tử, hạ sanh La Hầu La, Ngài đã rời bỏ ngôi vị ra đi và đắc thành Phật quả thì vương vị mai sau của nước  Ca Tỳ  La Vệ  nhất  định sẽ  về  tay  La Hầu La. Nhưng  chủ trương của đức Phật để  cho một đứa bé con làm chủ cả thần dân thiên hạ là chuyện  không  thể  được, cho nên  thừa  cơ hội, Ngài phương tiện cho con xuất gia.


La  Hầu  La  xuất  gia là  một  điều  đau buồn cho Da Du, cậu  bé là  nguồn hy vọng của  bà, bà thương  quý  cậu  hơn  cả  thân  mình.  Thái  Tử  đã ra đi,  bây  giờ  con yêu  cũng  lìa  bỏ.  Đối  với  bà thật là trời sầu đất thảm.
Chúng ta cũng có thể đồng ý với bà Da Du trách đức  Phật nhẫn tâm,  để  cho bà chịu nhiều đau khổ quá đáng. Nhưng  chân lý và nhân tình là  hai  lối  trái  ngược  nhau  rất  xa,  phải  hàng phục  được tình cảm  yếu  đuối của  thế  nhân  mới khế hợp được với chân lý giải thoát vậy.

GIÁO GIỚI LA HẦU LA

Hôm  ấy,  Đức  Thế  Tôn  đến  chỗ  ở    của  La Hầu  La,  với  dáng  hết  sức  oai  nghiêm.  La  Hầu La không  ngờ  vội  chỉnh  y ra nghinh  đón  Phật. Đợi cho Thế Tôn an tọa, cậu đem nước đến cho Phật rửa chân. Đức Phật không nói một lời, rửa chân xong, bèn chỉ nước dơ trong chậu hỏi La Hầu La:
- “Này La Hầu La! Thứ nước dơ bẩn này có
đem uống được không?”.

- “Bạch Thế Tôn, nước rửa chân rất dơ, không thể uống được”.
- “Người nói láo cũng giống như nước đó”. Đức Thế Tôn dạy tiếp:


- “Nước vốn trong sạch, rửa chân xong bèn trở  nên  cáu  bẩn,  giống  như  con vốn  là   vương tôn,  lìa  bỏ  mọi  thứ  vinh  hoa phú  quý  tạm bợ của  thế  gian,  xuất  gia  làm  Sa Môn.  Tuy  chưa thọ  giới  Tỳ Kheo, nhưng  con đã  thọ  mười  giới Sa Di, con không tinh  tấn tu tập, không để thân tâm  thanh  tịnh, không  giữ  miệng  cẩn  thận  lời nói,  dối  gạt  chọc  ghẹo  người.  Cấu  uế  của  tam độc  đầy  dẫy  trong  tâm  con,  giống  như  nước trong sạch bị dơ bẩn một thứ”.
Chưa  bao giờ  Đức  Thế  Tôn nghiêm  nghị như  vậy,  La  Hầu  La  cúi  đầu  chẳng  dám  nhìn Phật. Đức Phật bảo đem nước đổ  đi, cậu bé mới nhúc  nhích.  Đợi  La  Hầu  La  đổ  hết  nước  xong, Phật lại hỏi:
- “Này  La  Hầu  La,  con lấy  cái  chậu  này đựng cơm được không?”.
- “Bạch Thế Tôn, chậu đựng nước rửa chân không  thể  đem đựng  cơm, vì  chậu  đã  dơ, đầy cáu bẩn, không thể đựng thức ăn được”.
- “Người  nói  láo  cũng  giống  như  cái  chậu đó.  Tuy  làm  Sa Môn  thanh  tịnh mà  không  tu giới, định, huệ; thân, khẩu, ý  không thanh tịnh, chứa  đầy  cấu  uế, không chân thật, thức  ăn  đạo lý làm  sao nhét vào tâm con?”.


Phật  nói  xong  lấy  chân  đá   nhẹ  cái  chậu lăn  mấy  vòng,  La  Hầu  La  thấy  thế  hoảng  sợ. Phật lại hỏi:
- “Này  La  hầu  La,  con sợ  cái  chậu  này  bị bể không?”.
- “Bạch  Thế  Tôn  không  ạ,  chậu  rửa  chân là đồ vật xấu, có bể cũng chẳng sao”.
- “Này La Hầu La, con không tiếc cái chậu này, giống như mọi người không thương mến người nói láo. Con xuất gia làm Sa Môn, không giữ  oai  nghi,  nói  dối  đùa  ghẹo,  ai  mà  thương con được,  không  ai quý  tiếc  gì con, cho đến  lúc con chết  mà  con không  hối  cải,  lại càng  chìm trong mê mờ!”.
La  Hầu  La  sợ  toát  mồ  hôi,  xấu  hổ  muốn độn thổ, phát nguyện từ nay về sau cố gắng sửa đổi tâm tánh.
Đức Phật răn dạy xong lại nói thêm một ví dụ cho La Hầu La nghe:
- “Đời quá khứ có một quốc gia nọ nuôi hai con voi  dũng  mãnh  thiện  chiến.  Mỗi  khi  nhà vua cử binh  ra trận lại trang bị áo giáp cho chúng.  Ngà  voi  mang  giáo  nhọn,  bên  tai  giắt kiếm bén, bốn chân đều có đao sáng ngời, sau đuôi  lại cột  thêm  gậy  sắt.  Tuy  mang  nhiều  vũ khí  như  thế,  nhưng  mỗi  khi  giao  chiến  chúng


đều  cuốn  vòi  dấu  kín,  vì  đó  là  chỗ  nhược,  nếu để  trúng  tên  sẽ  chết  ngay,  vì  muốn  giữ  gìn mạng sống phải giữ kỹ chiếc vòi”.
Này La Hầu La! Con cũng phải như con voi kia  giữ kỹ cái vòi, cẩn thận giữ gìn lời nói. Mỗi khi mở miệng nói đùa như voi bị thương, huệ mạng  của  con sẽ  mất,  không  được mọi  người thương mến, không được người trí ưa thích, đến khi lâm chung sẽ bị rơi vào ba đường khổ.
Đức Thế Tôn dùng hết tình, hết lý, khẩn thiết,  nghiêm  trang  răn  dạy.  Mỗi  lời  mỗi  câu đều in sâu vào tâm La Hầu La. Chú bé phát nguyện  từ  nay sẽ  giữ  gìn nghiêm  túc  không  hề vi phạm vào giới vọng ngữ.
Như  hạt  lúa  tuy  chúng  ta  xay  giã  thành hạt  gạo,  nhưng  còn  dính  bụi  cám,  phải  vo chà sạch sẽ thì gạo trắng mới ra gạo trắng. La Hầu La tuy có bản tính tốt ngoan ngoãn, nhưng phải có  nước  pháp  của  Đức  Thế  Tôn  tẩy  rửa  một phen mới trở nên thanh tịnh vô nhiễm được.
Từ   đó,  La  Hầu  La  trở  thành  một  người khác.

THẦY SA DI CÓ THỂ Ở CHUNG VỚI TỲ KHEO


Khi Đức Thế Tôn ở   tại vườn Cù  Sư La, La Hầu  La  cũng  ở  đó    với  Sa Di  Quân  Đầu,  cũng theo Sư phụ Xá Lợi Phất hầu Phật nghe pháp.
Mỗi  ngày  La  Hầu  La  dậy  sớm  quét  dọn trong vườn, trong ngoài sạch sẽ rồi mới tu tập theo  lời  Phật  dạy. Một  khu  vườn  rộng  lớn  quét cho sạch hết phải tốn biết bao nhiêu thì giờ. Hôm nọ, La Hầu La quét dọn xong bèn đi nghe Phật  thuyết  pháp,  đến  chiều  mới  trở  về  phòng lúc  ấy  phòng  của  La  Hầu  La  bị  thầy  Tỳ  Kheo quản lý để  cho một vị Tỳ Kheo khách ở,  những y bát tọa cụ của La Hầu La đều bị bỏ ở ngoài, khách thì an nhiên ở  trong phòng.
Phật đã quy định một người một phòng, phòng  của  mình  đã  bị  người  khác  chiếm,  biết làm  sao?  Hơn  nữa  La  Hầu  La  còn  là  Sa Di, trong  Tăng  đoàn  Sa  Di  phải  kính   trọng  Tỳ Kheo, và Phật cũng dạy phải nhẫn nại, nên La Hầu  La không  dám  đến  hỏi  Thầy  kia  sao lại  ở phòng  mình.  La  Hầu  La  đứng  ngơ ngơ ở   ngoài cửa,  thật  là  tiến  thối  lưỡng  nan.  Lúc  ấy  mây đen kéo  đến  đầy  trời,  báo  hiệu  sắp  có  mưa to; La Hầu La không biết núp vào chỗ nào bèn chui vào nhà xí, tuy có hôi hám thật,  nhưng chỉ còn cách  ngồi  trong  đó  thôi.  Lúc  ấy  thật  cảm  thấy nỗi  quạnh  quẽ  của  tình cảnh  không  nhà.  La Hầu  La  đoan tọa  trong  nhà  xí, nỗ  lực nhớ  đến



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!